Nguyễn Thị Mai Hoa - Mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ Việt - Trung và chiến tranh biên giới tháng 2/1979 (2)

<h2>3- Chuẩn bị ngoại giao và tiến hành cuộc tấn công toàn
tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam tháng 2-1979</h2>

Song song với việc liên tục xâm phạm chủ quyền và lãnh thổ
của Việt Nam, Trung Quốc cũng ráo riết chuẩn bị mọi mặt cho
cuộc tấn công quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới Việt Nam,
tập trung những quân đoàn chủ lực lớn dọc theo biên giới
Việt – Trung. Theo nguồn tin từ Cục tình báo Trung ương Hoa
Kỳ CIA (sau này được các báo chí Mỹ tiết lộ), thì từ
giữa năm 1978, Trung Quốc đã hoàn chỉnh các phương án tác
chiến, các đơn vị bộ đội Trung Quốc đã sẵn sàng mở
cuộc tiến công quân sự quy mô lớn chống Việt Nam, "<em>vấn
đề còn lại là chỉ chờ đợi thời cơ là bật đèn
xanh</em>" [44]. Trong những buổi họp của Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc từ giữa năm 1978 - cuối năm 1978, nhiều
biện pháp "trừng phạt" Việt Nam bằng quân sự được đưa
ra [45]. Ngay cả thời cơ cũng được Trung Quốc tạo ra và
chuẩn bị kỹ càng sau một loạt những sự kiện "nạn
kiều", "<em>Việt Nam xâm chiếm, vũ trang khiêu khích biên
giới Trung Quốc</em>". Cũng cần nói thêm rằng, một bước
chuẩn bị quan trọng của Trung Quốc trước khi tiến hành tấn
công Việt Nam là việc Trung Quốc đã kịp ký với Nhật Bản
Hiệp ước hoà bình, hữu nghị (vào ngày 12-8-1978, có giá trị
trong mười năm và sẽ tái ký sau đó), nhằm thu xếp, tạo thế
cân bằng chiến lược ở khu vực Đông Bắc Á có lợi cho Trung
Quốc, Trung Quốc có thể rảnh tay đối phó với Việt Nam.

Ngày 5-11-1978, Đặng Tiểu Bình đi thăm các nước ASEAN để
tập hợp lực lượng cho bước đi sắp tới về Việt Nam.
Việc Việt Nam – Liên Xô ký kết Hiệp ước Hữu nghị và
Hợp tác toàn diện (3-11-1978)[46] là món quà bất ngờ cho Đặng
Tiểu Bình trong chuyến đi này. Tuyên truyền rằng, việc ký
Hiệp ước Việt - Xô là mối de dọa đối với các nước
ASEAN, Đặng Tiểu Bình kêu gọi thành lập Mặt trận chống
Liên Xô và Việt Nam, bao gồm Trung Quốc, khối nước ASEAN để
cân bằng lại quyền lợi của các nước Đông Nam Á và nói rõ
quyết tâm của Trung Quốc không để khu vực Đông Nam Á rơi
vào tay Việt Nam. Tại Bangkok, theo yêu cầu của Đặng Tiểu
Bình, Thái Lan đồng ý cho phép máy bay Trung Quốc quá cảnh qua
vùng trời Thái Lan để đi Campuchia và trở về. "<em>Liên minh
giữa Bắc Kinh và Bangkok đã mở ra con đường mòn Đặng Tiểu
Bình xuyên qua Thái Lan và biến Thái Lan thành một cái khoen
chặn chiến lược an toàn của Trung Hoa tại Campuchia</em>" [47].

Trong chuyến đi này, Đặng Tiểu Bình không giấu giếm ý định
dùng biện pháp quân sự để đối phó với Việt Nam. Thái độ
của từng nước ASEAN có điểm khác nhau, nhưng đều cho rằng
cuộc xung đột Việt Nam- Campuchia và Việt Nam - Trung Quốc là
"<em>nhân tố không ổn định đối với hoà bình khu
vực</em>". Tuy nhiên, khi Việt Nam nghiêng về phía Liên Xô, các
nước ASEAN cũng nhận thấy cần phải nhích hơn chút nữa về
phía Trung Quốc.

Chuyến đi Mỹ của Đặng Tiểu Bình tháng 1-1979, sau đó là
tới thăm Nhật cũng là nằm trong mục đích chuẩn bị cho cuộc
tấn công Việt Nam vào tháng 2-1979. Trong chuyến đi này, Đặng
Tiểu Bình đã thông báo về ý định chuẩn bị tấn công Việt
Nam, mong muốn là có được sự hỗ trợ về tinh thần từ phía
Mỹ. Khi tiếp xúc bí mật với Brzezinski. Đặng Tiểu Bình tuyên
bố: "<em>Đối với Việt Nam, Trung Quốc phải chịu trách
nhiệm đối phó</em>" và nhấn mạnh: "<em>Các ngài nhớ kỹ
một điều là những lời phát biểu của tôi trong chuyến thăm
nước Mỹ sẽ hoàn toàn được chứng thực bằng những hành
động</em>" [48]. Đặng Tiểu Bình cũng bảo đảm rằng, cuộc
tấn công Việt Nam sẽ giới hạn và nhanh chóng. Chuyến đi của
Đặng Tiểu Bình sang Mỹ là một chuyến đi thành công,
"<em>Đặng Tiểu Bình đã chuẩn bị tinh thần cho các đồng
minh một cách chắc chắn rằng sẽ thực hiện sự trừng phạt
như đã loan báo</em>" [49] Hai tuần sau chuyến thăm, ngay trước
khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, Đại sứ Mỹ Malcolm kín đáo
khuyến cáo Ngoại trưởng Gromutko là Liên Xô nên tự kiềm chế
trong trường hợp Trung Quốc tấn công Việt Nam, để khỏi ảnh
hưởng đến việc Quốc hội Mỹ sẽ thông qua Hiệp ước SALT
mà Liên Xô rất mong muốn.

Trước dư luận trong nước và quốc tế, Trung Quốc công khai
tuyên bố: "<em>Việt Nam là tiểu bá theo đại bá Liên
Xô</em>"; "<em>Trung Quốc quyết không để cho ai làm
nhục</em>"; cuộc tiến công của Trung Quốc vào Việt Nam sắp
tới là nhằm "<em>dạy cho Việt Nam một bài học</em>".
Trước thái độ đó, báo chí và chính giới Mỹ không có phản
ứng công khai, còn A.Kosyginthì nhận định: Tuyên bố của
Đặng Tiểu Bình là một bản "<em>tuyên bố chiến tranh với
Việt Nam</em>".

Nhìn chung lại, thông qua các bước chuẩn bị ngoại giao, Trung
Quốc thấy rằng, nếu đánh Việt Nam, Mỹ sẽ đồng tình, các
nước ASEAN ít nhất cũng không lên tiếng phản đối, Liên Xô
sẽ có phản ứng, nhưng không có khả năng mang hải quân can
thiệp. Còn Việt Nam đang đứng trước những khó khăn nghiêm
trọng, những thách thức về kinh tế, chính trị, nhất là sau
cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam (với số lượng thương vong
bằng 74% trong kháng chiến chống Pháp), đánh Việt Nam lúc này
là thuận lợi.

Từ giữa tháng 12-1978, Trung Quốc đã chọn lực lượng quân
đội từ năm quân khu và đưa áp sát biên giới Trung - Việt.
Từ ngày 1 đến ngày 13 tháng 1-1979, phía Trung Quốc liên tiếp
có nhiều phát biểu và bình luận mà nội dung là tố cáo Việt
Nam xâm lược, lên án Việt Nam "chiếm" Phnôm Pênh. Trung
Quốc kêu gọi Campuchia Dân chủ đánh lâu dài và hứa sẽ ủng
hộ toàn diện. Trung Quốc đưa ra Hội đồng Bảo an Dự thảo
nghị quyết đòi Việt Nam rút quân, kêu gọi các nước chấm
dứt viện trợ cho Việt Nam.

Từ ngày 9 đến ngày 12-2-1979, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng
sản Trung Quốc họp hội nghị để nghe báo cáo của Đặng
Tiểu Bình và đánh giá tình hình. Hội nghị quyết định tấn
công Việt Nam và thành lập Bộ Chỉ huy chung [50]. Ngày 16-2-1979,
Trung Quốc tổ chức cuộc họp phổ biến ý nghĩa của cuộc
chiến tranh sắp tới chống Việt Nam cho cán bộ cao cấp các
ngành. Trong cuộc họp này, Đặng Tiểu Bình nêu mục tiêu, cái
lợi, hại của cuộc chiến tranh chống Việt Nam, nhấn mạnh
đây là cuộc phản kích tự vệ, hạn chế về thời gian và
không gian [51]. Ngày 17-2-1979, sau sự chuẩn bị kỹ lưỡng trên
cả hai phương diện trong nước và quốc tế, Trung Quốc đưa 60
vạn quân cùng với gần 800 xe bọc thép, xe tăng, trọng pháo và
máy bay các loại đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới phía
Bắc Việt Nam từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng
Ninh) và đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Các nhà bình luận
phương Tây gọi cuộc tấn công của Trung Quốc dọc tuyến biên
giới phía Bắc Việt Nam (1979) là "<em>cuộc chiến giữa những
người anh em Đỏ</em>", hay "<em>cuộc chiến tranh Đông Dương
lần thứ ba</em>". H. Kissinger đánh giá về cuộc chiến tranh này
như sau: "<em>Yếu tố ý thức hệ đã biến mất khỏi xung
đột. Các trung tâm quyền lực của cộng sản cuối cùng đã
tiến hành chiến tranh giành thế cân bằng quyền lực không
phải căn cứ vào ý thức hệ mà hoàn toàn xuất phát từ lợi
ích dân tộc</em>"[52].

Về phía Trung Quốc, biện minh cho hành động của mình, Trung
Quốc tuyên bố đây chỉ là "<em>một cuộc phản kích để
tự vệ</em>" (?!). Thực chất, "<em>đây là một cuộc chiến
tranh xâm lược toàn diện bằng lực lượng chính quy của hầu
hết các quân khu Trung Quốc</em>" [53]. Trung Quốc "<em>có sự
chuẩn bị kỹ càng về các mặt</em>"[54]. Mục đích của Trung
Quốc trong cuộc chiến là xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam, làm
giảm tiềm lực quốc phòng, kinh tế, làm suy yếu Việt Nam, hạ
uy thế chính trị, quân sự của Việt Nam, thể hiện vai trò
nước lớn trong khu vực và củng cố đoàn kết nội bộ. Một
chiến thắng quân sự sẽ đập tan huyền thoại chiến đấu
của quân đội Việt Nam, thoả mãn tinh thần "Đại hán",
nâng cao uy tín nước lớn Trung Hoa. Mặt khác, lợi dụng vào
dân số và quân số đông đảo, số lượng vũ khí dồi dào,
Trung Quốc dự định bằng cuộc hành quân chớp nhoáng, chiếm
đóng một số thị xã dọc biên giới, phân tán mỏng lực
lượng quân sự của Việt Nam, buộc Việt Nam phải rút bớt
quân từ chiến trường Campuchia về nước, cứu nguy cho Khơme
Đỏ. Ngoài ra, Trung Quốc tấn công Việt Nam còn nhằm mục
đích kiểm tra tính chặt chẽ của Hiệp ước phòng thủ Liên
Xô - Việt Nam, thăm dò phản ứng của Liên Xô, thách đố
"<em>liên minh quân sự</em>" Việt - Xô. Hành động quân sự
để đối phó với Việt Nam sau khi Việt Nam vừa ký Hiệp ước
hợp tác hữu nghị với Liên Xô là một thách đố liều lĩnh,
nhưng có tính toán. Chấp nhận những hậu quả có thể xảy ra
khi Liên Xô trả đũa, Trung Quốc muốn cho Liên Xô biết quyết
tâm của Trung Quốc không thể để bị bao vây, không thể chấp
nhận ảnh hưởng gia tăng của Liên Xô tại Đông Nam Á; đồng
thời, chứng minh cho các quốc gia Đông Nam Á thấy có thể tin
cậy vào Trung Quốc để ngăn chặn ảnh hưởng của Việt Nam
và tham vọng của Liên Xô thông qua Việt Nam. Nhà nghiên cứu
Gilbert Padoul nhận định: Trung Quốc đánh trận 17-2, còn mang
tính chất thông điệp với Việt Nam và thế giới: "<em>Trung
Quốc không thể chấp nhận một Đông Dương dưới sự giám
hộ của Liên Xô và Việt Nam</em>" [55]. Nhận xét trên của
Gilbert Padoul không phải là ngẫu nhiên, bởi Đặng Tiểu Bình
đã không chỉ một lần tuyên bố: "<em>Chúng tôi có thể dung
thứ việc Liên Xô có 70% ảnh hưởng ở Việt Nam, miễn là 30%
còn lại dành cho Trung Quốc</em>"[56].

<h2>4- Việt Nam hành động</h2>

Cuộc tấn công dọc tuyến biên giới phía Bắc (1979) là nấc
thang cao nhất thể hiện thái độ thù địch của Trung Quốc
đối với Việt Nam. Ngay sau khi Trung Quốc tấn công Việt Nam,
trong ngày 17-2-1979, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố: "<em>Nhân
dân Việt Nam là một dân tộc kiên cường, anh dũng, bất khuất
đã từng đánh thắng mọi kẻ xâm lược, tin tưởng sắt đá
rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, lại
được bạn bè khắp năm châu đồng tình và ủng hộ mạnh
mẽ, nhất định sẽ đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược
của những người cầm quyền Trung Quốc, bảo vệ độc lập,
chủ quyền của mình</em>" [57]. Ngày 18-2-1979, Đoàn Chủ tịch
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra Lời kêu gọi
toàn dân đoàn kết "<em>kiên quyết bảo vệ Tổ quốc, chặn
đứng và đập tan cuộc chiến tranh xâm lược đầy tội ác
của bọn phản động Trung Quốc</em>" [58]. Ngày 4-3-1979, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Lời kêu
gọi,trong đó có đoạn viết: "<em>Quân thù đang giày xéo non
sông đất nước ta (…). Dân tộc Việt Nam ta phải ra sức
chiến đấu để tự vệ. Cuộc kháng chiến chống quân Trung
Quốc xâm lược đang diễn ra(…) Đánh thắng quân xâm lược
Trung Quốc lần này là nghĩa vụ dân tộc vẻ vang</em>" [59].

Ngày 1-3-1979, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 67, Về việc phát
động và tổ chức toàn dân chuẩn bị chiến đấu và bảo vệ
Tổ quốc, nêu bật nhiệm vụ "<em>xây dựng thế phòng thủ
vững chắc của đất nước, tăng cường sức mạnh chiến
đấu, đánh bại quân xâm lược Trung Quốc</em>" [60]. Tiếp
đó, ngày 3-3-1979, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 16, Về
cuộc kháng chiến chống bọn phản động Trung Quốc xâm lược,
dự đoán chiến tranh có thể diễn biến theo hai tình huống:
"<em>Một là, địch bị chặn lại ở các vùng biên giới, bị
tiêu diệt lớn, buộc phải rút quân về nước. Hai là, địch
tạm thời chiếm được một số thị xã và huyện biên giới,
mở rộng chiến tranh đến Hà Nội, vùng đồng bằng Bắc Bộ
và lan ra cả nước</em>" [61]. Trong bất kỳ tình huống nào,
cũng phải giữ vững tư tưởng chủ đạo: "<em>Nỗ lực
vượt bậc, tranh thủ giành thắng lợi trong thời gian tương
đối ngắn, đồng thời phải chuẩn bị mọi điều kiện để
đánh lâu dài, lâu bao nhiêu cũng đánh, quyết đánh thắng hoàn
toàn quân địch. Phải nắm vững phương châm "làm chủ đất
nước, làm chủ chiến trường để tiêu diệt địch; tiêu
diệt địch để làm chủ đất nước, làm chủ chiến
trường</em>" [62]. Về quân sự, Nghị quyết xác định: 1-
Quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược ở biên giới; 2- Cả
nước ráo riết chống chiến tranh xâm lược, sẵn sàng, mạnh
mẽ, vững chắc chiến đấu ở các tuyến trung du và đồng
bằng; 3- Triển khai kế hoạch bảo vệ Thủ đô Hà Nội và
thành phố Cảng Hải Phòng; 4-Tiến hành bố phòng, chuẩn bị
chiến đấu ở khu vực hậu phương trực tiếp (từ Hà Nội
đến Thanh Hoá-Nghệ Tĩnh) và trong cả nước [63].

Trên tinh thần "<em>tất cả cho Tổ quốc quyết sinh</em>",
quân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu bảo vệ từng mảnh
đất biên cương của Tổ quốc. Trên các mặt trận dọc tuyến
biên giới phía Bắc, chiến thuật "biển người" của Trung
Quốc đã không thể phát huy tác dụng trước ý chí bảo vệ
non sông, đất nước và lòng quả cảm của những con đất
Việt. Máu đã đổ trên dải đất biên cương, quân xâm lược
đã bị giáng trả thích đáng: Ở hướng Cao Bằng, các cánh
quân Trung Quốc đều bị bộ đội địa phương, dân quân Cao
Bằng đánh chặn, bị phản kích xé tan đội hình, bỏ chạy
về bên kia biên giới; trên tuyến Hoàng Liên Sơn, sau 7 ngày bị
dân quân, tự vệ cùng các lực lượng vũ trang đánh trả
quyết liệt, hai quân đoàn Trung Quốc vẫn không qua nổi trận
địa đánh chặn, phục kích; trên các hướng Lai Châu, Hà
Tuyên, Quảng Ninh, qua hơn 20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn
ở Phong Thổ, hơn 1.000 lính Trung Quốc thiệt mạng ở Hà
Tuyên,hai trung đoàn Trung Quốc đã bị đánh lui tại Quảng Ninh,
tháo chạy sát về biên giới.

Ngay khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, nhân dân yêu chuộng hoà
bình trên thế giới đã đứng về phía nhân dân Việt Nam,
đấu tranh đòi Trung Quốc rút quân. Ngày 18-2-1979, Chính phủ
Liên Xô ra tuyên bố lên án Trung Quốc xâm lược Việt Nam.
Tuyên bố có đoạn viết: "<em>Việc Trung Quốc tiến công xâm
lược Việt Nam chứng tỏ một lần nữa rằng, Bắc Kinh có
thái độ vô trách nhiệm biết nhường nào đối với vận
mệnh của hoà bình và Ban lãnh đạo Trung Quốc sử dụng vũ
khí một cách tuỳ tiện, đầy tội ác biết nhường nào!..
Những hành động xâm lược đó trái với những nguyên tắc
của Liên Hợp Quốc, chà đạp thô bạo luật pháp quốc tế,
càng vạch trần trước toàn thế giới thế giới thực chất
chính sách bá quyền của Bắc Kinh ở Đông Nam Á</em>" [64].
Nhiều nước trên thế giới ra tuyên bố lên án Trung Quốc,
đòi Trung Quốc phải lập tức rút quân về nước. Nhiều cuộc
vận động ủng hộ Việt Nam về tinh thần và vật chất đã
được phát động. Một số nước khác (kể cả Anh, Mỹ) yêu
cầu Hội đồng Bảo an thảo luận về tình hình Đông Nam Á và
tác động đối với hoà bình thế giới.

Ngày 14-3-1979, trước sự chống trả của quân, dân Việt Nam ở
biên giới, trước sức ép của dư luận và có lẽ tự cho là
đã "dạy" cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc tuyên bố rút
quân khỏi Việt Nam. Trong điều kiện đó, ngày 6-3-1979, Ban Bí
thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 69,
nhận định về tình hình và đưa ra chủ trương trong điều
kiện Trung Quốc rút quân. Chỉ thị của Ban Bí thư ghi rõ: Tối
5-3-1979, Tân Hoa Xã (Trung Quốc) ra Tuyên bố về việc "<em>Quân
đội Trung Quốc đã bắt đầu rút quân từ 5-3-1979</em>", khẳng
định: "<em>Trong khi chấp nhận cho địch rút quân, chúng ta
luôn luôn phải nâng cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng,
sẵn sàng giáng trả địch đích đáng, nếu chúng lật lọng,
trở lại xâm lược nước ta lần nữa</em>" [65]. Chỉ thị
nhấn mạnh thêm: "<em>Không được một chút mơ hồ nào đối
với âm mưu cơ bản của bọn phản động Trung Quốc là thôn
tính nước ta, khuất phục nhân dân ta (…) luôn luôn sẵn sàng
chuẩn bị chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đập tan bọn xâm
lược</em>" [66]. Về mặt quốc tế, "<em>cần giương cao
chính nghĩa của ta, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc
và bảo vệ hòa bình, xúc tiến việc hình thành mặt trận nhân
dân thế giới ủng hộ, bảo vệ Việt Nam</em>" [67]. Bên cạnh
việc "<em>chấp nhận cho Trung Quốc rút quân</em>", để trả
lời, phía Việt Nam cũng phản kích đánh vào Malipô, Ninh Minh,
hai thành phố biên giới của Trung Quốc [68].

<h2>5- Từ quá khứ đến hiện tại</h2>

Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là một trong những mối quan hệ
địa - chính trị tồn tại khá lâu đời so với nhiều mối
quan hệ địa - chính trị khác trên thế giới. Trong suốt
chiều dài quan hệ, Trung Quốc luôn ứng xử với Việt Nam theo
tinh thần nước lớn - tư tưởng có nguồn gốc sâu xa trong xã
hội Trung Quốc. Từ sau năm 1975, Trung Quốc đẩy mạnh chiến
lược chống Liên Xô, đặc biệt là chống ảnh hưởng của
Liên Xô tại Đông Nam Á và phá hoà hoãn Xô - Mỹ. Cũng từ năm
1975 trở đi, đối với những nhà lãnh đạo Trung Quốc, một
Việt Nam thống nhất, thực hiện chính sách độc lập, tự
chủ bị coi là trở ngại cho chiến lược chống Liên Xô và
chiến lược mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á - địa bàn
"mở nước" cổ truyền của Trung Quốc. Hơn nữa, từ giữa
năm 1976, Việt Nam đã dần dần rồi đi tới dứt khoát từ bỏ
hình động đầy thận trọng giữa Liên Xô và Trung Quốc, một
hành động được duy trì một cách tương đối trong suốt
cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngả hẳn sang phía Liên Xô, từ
chối những đòi hỏi mới của Trung Quốc. Chính vì thế, chính
sách của Trung Quốc đối với Việt Nam mang tính nước lớn và
hai mặt rõ rệt: Vừa lôi kéo, vừa kiềm chế, chèn ép. Khi
thấy Việt Nam vượt ra ngoài quỹ đạo của mình và quan hệ
không như ý muốn, Trung Quốc lập tức tiến hành các biện
pháp mang tính trừng phạt: Rút chuyên gia, cắt viện trợ, gây
nên làn sóng tuyên truyền về vấn đề "nạn kiều", lôi kéo
người Hoa bỏ về nước; hậu thuẫn, ủng hộ Polpot - Iengxari
tiến công Việt Nam từ hướng biên giới Tây Nam, dùng Campuchia
như con đê ngăn chặn Việt Nam, gây ra các sự kiện khiêu khích
vũ trang với mức độ xung đột ngày càng tăng ở biên giới
Việt - Trung… Hành động bộc lộ sự đối đầu cao độ trong
một chuỗi những sự kiện này là cuộc tấn công ồ ạt với
60 vạn quân trên toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam
(17-2-1979), nhằm "dạy cho Việt Nam một bài học" – một hành
động như các nhà phân tích nước ngoài nhận xét: Trước nhân
dân thế giới, trước các dân tộc châu Á, "<em>Trung Quốc
hiện ra như một nước siêu cường, quân phiệt và bá quyền,
hoàn toàn có khả năng áp bức các nước láng giềng yếu
hơn</em>" [69].

Với những điều vừa trình bày ở trên, có thể thấy quan hệ
giữa Việt Nam, Trung Quốc luôn có hai mặt: Thực chất và hình
thức - hai mặt này không phải bao giờ cũng tương đồng. Về
mặt hình thức, quan hệ hai nước được thừa nhận trong một
khuôn khổ có tính chuẩn tắc mà cả hai nước cùng công nhận,
song về thực chất, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phản ánh
tương quan lực lượng và lợi ích giữa hai quốc gia, nhưng là
hai quốc gia láng giềng lớn và nhỏ, với các chỉ số so sánh
cách biệt.

Về phía Trung Quốc, tăng cường, mở rộng ảnh hưởng, trở
thành cường quốc khu vực và thế giới là cái lõi của mọi
quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Đối với khu
vực, Việt Nam vẫn là một nhân tố chính yếu mà Trung Quốc
cần quan tâm và kiềm chế, nhằm thực hiện mục đích của
mình một cách ít trở ngại nhất. Chính sách kiềm chế Việt
Nam của Trung Quốc là nhất quán và lâu dài, tồn tại song song
với mục tiêu chiến lược nêu trên; vì vậy, nó vẫn tiếp
tục là nguyên nhân của những khó khăn, thách thức trong quan
hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.

Ở thời điểm hiện tại, vấn đề nổi cộm, có ý nghĩa
trọng yếu đối với an ninh quốc gia và vị thế đất nước
liên quan đến quan hệ Việt - Trung là tranh chấp trên biển
Đông, liên quan đến hai quần đảoHoàng Sa và Trường Sa.

Với tầm quan trọng của biển Đông, Trung Quốc coi đây là
"không gian sinh tồn" với ý định rõ ràng là phải sở hữu
bằng được các quyền lợi sống còn của biển Đông, mở
rộng cương vực sinh tồn, tạo thêm sức mạnh trong cán cân
quyền lực ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong các tranh chấp
trên biển Đông, Trung Quốc luôn có các hành động khó lường
và yêu sách lấn dần không định rõ. Nói cách khác, chiến
lược của Trung Quốc dường như đồng thời: Củng cố khả
năng hải quân, mở rộng khả năng hiện diện hiện thực, từ
đó hợp thức hóaviệc chiếm đóng.Có vẻ như Trung Quốc đã
phát triển một chính sách ba không để giải quyết các vấn
đề trên biển Đông: Không định rõ yêu sách, không đàm phán
nhiều bên, không quốc tế hóa vấn đề, bao gồm cả không có
sự tham gia của các cường quốc ngoài khu vực [70]. Đó là
cách, như Valencia M. J. bình luận: "<em>Trung Quốc đang tìm cách
viết nên luật lệ của chính mình cho trật tự thế giới, thay
bằng việc chấp nhận các nguyên tắc đang tồn tại</em>" [71]

Đối với các tranh chấp biển Đông, Việt Nam không thể và
không bao giờ từ bỏ chủ quyền đối với lãnh hải và thềm
lục địa của mình. Tuy nhiên, tồn tại bên cạnh và giải
quyết tranh chấp với một người láng giềng khổng lồ luôn
có khát khao thống trị thực sự là một áp lực đối với
Việt Nam - Trung Quốc là một thực tế, là một câu chuyện
"<em>không bao giờ kết thúc</em>". Trung Quốc, Việt Nam núi biển
liền nhau như môi với răng, có mối quan hệ không chia cắt về
địa dư, khi muốn gây sức ép, Trung Quốc không thiếu cách
thức và lý do.

Lịch sử là một dòng chảy liên tục nối quá khứ với hiện
tại và định hình con đường đi tới tương lai, là cuộc
đối thoại nghiêm khắc giữa hiện tại với quá khứ, kết
nối ngày hôm qua với hôm nay. Cuộc chiến tranh biên giới năm
1979 đã lùi xa vào lịch sử 35 năm, thế giới đổi thay nhanh
chóng, lịch sử đầy ắp các sự kiện, các thăng trầm khó
đoán định trước. Tuy nhiên, lịch sử khách quan và công
bằng, không thể đơn giản và dễ dàng xé bỏ trang này, hay
trang kia theo ý muốn chủ quan. Cuộc chiến tranh biên giới 1979
đã là một dấu mốc khó phai mờ trong lịch sử Việt Nam hiện
đại, trong ký ức và lương tri của loài người – của những
ai đang phấn đấu cho công bằng và công lý. Nhiều câu hỏi
của ngày hôm nay có thể có câu trả lời từ những bài học
lịch sử xương máu đã qua.

(Hết)

<h2>Chú thích</h2>

[1] Marwyun S.Samules: Tranh chấp biển Đông, Bản dịch, Lưu tại
Thư viện Quân đội, 1982, tr.127.

[2] Trong khi đó, cuộc đi thăm hữu nghị Liên Xô do Lê Duẩn
dẫn đầu vào tháng 10-1975 lại được đánh giá là thành công.
Việt Nam đã ký hiệp định phối hợp kinh tế quốc gia với
Liên Xô trong 5 năm (1976-1980) và nhận được 500 triệu USD viện
trợ với trên 400 hạng mục công trình.

[3] Marwyun S.Samules: Tranh chấp biển Đông, Tlđd, tr.7.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.37, tr. 333.

[5] Pao Min Chang: Cuộc tranh chấp Trung - Việt và vấn đề thiểu
số người Hoa, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, Hà
Nội, 1982, tr.16.

[6] Lưu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 1998, t.2, tr.122.

[7] Hàng vạn người đã được huy động đứng dọc quãng
đường từ sân bay về Thủ đô Bắc Kinh, vẫy cờ, hoa chào
đón Polpot, còn cuộc đón tiếpLê Duẩn không khí lặng lẽ
một cách bất thường. Tờ Nhân dân nhật báo đã đăng những
bức ảnh đen trắng về chuyến thăm của Lê Duẩn, chứ không
phải là các bức ảnh mầu như thông lệ khi có các vị
thượng khách đến thăm.

[8] Bộ mặt thật, phản động, phản bội của tập đoàn cầm
quyền Bắc Kinh và sự đầu độc của chúng đối với quân
đội Trung Quốc, Báo cáo của Cục tuyên truyền đặc biệt,
Tổng cục chính trị, Tập tài liệu văn kiện Trung ương, Lưu
tại Tổng cục chính trị, Bộ Quốc phòng, tr.2.

[9] Bộ Ngoại giao: Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
trong 30 năm qua, Sách trắng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, tr.19.

[10] Người Hoa di cư đến Việt Nam từ lâu đời, kéo dài trong
nhiều thời kỳ khác nhau với nhiều thành phần xã hội khác
nhau. Họ đến cư trú ở hầu hết các nơi, tập trung đông
nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Nam Bộ và các
thị xã, thành phố lớn. Trải qua quá trình lịch sử, dần
dần họ đã hoà nhập với cư dân bản địa và trở thành
công dân của Việt Nam. Họ đã góp phần cùng các dân tộc
khác trên lãnh thổ Việt Nam làm phong phú và phát triển nền
văn hoá, giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế
của Việt Nam.

[11] Người Hoa được hưởng các quyền lợi dân sự giống như
người Việt, được đối xử bình đẳng như người Việt.
Từ đầu thế kỷ XIX, trẻ em do hôn nhân dị chủng giữa
người Hoa và người Việt được coi là người Việt và
được hưởng đầy đủ các quyền lợi chính trị như người
Việt khác.

[12] Ramses Amer: Người Hoa ở Việt Nam và quan hệ Trung - Việt,
Kuals Lumpur, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính
phủ, 1991, tr.8.

[13] Chính quyền Sài Gòn cũng có những quy định đưa Hoa kiều
trở thành công dân Việt Nam. Ngày 7-12-1955, Chính quyền Sài Gòn
đưa ra đạo luật số 10 quy định tất cả trẻ em sinh ra do
hôn phối giữa người Hoa và người Việt đều được xem là
công dân Việt Nam. Sau đó, ngày 21-8-1956, đưa tiếp Đạo luật
số 48, theo đó tất cả người Hoa sinh ra tại Việt Nam đương
nhiên trở thành công dân Việt Nam. Đạo luật này được áp
dụng cho tất cả người Hoa sinh ra tại Việt Nam ở mọi thời
điểm, kể cả trước đó (Nguồn: Ramses Amer, người Hoa ở
Việt Nam và quan hệ Trung- Việt, Kuals Lumpur 1991, tr. 10).

[14] Từ cuối năm 1976 sang đầu năm 1977, ở Trung Quốc có sự
thay đổi chínhsách đối với vấn đề gọi là "người Hoa ở
hải ngoại". Nếu trong thời kỳ "cách mạng văn hoá" người Hoa
ở nước ngoài bị phân biệt đối xử và nghi ngờ, thì từ
đầu năm 1977, Trung Quốc lại mong nhận được sự giúp đỡ
của người Hoa ở nước ngoài để phát triển kinh tế đất
nước. Chính sách đối với Hoa kiều ở hải ngoại lần đầu
tiên được công bố qua một bài viết của Liêu Thừa Chí,
Chủ tịch Uỷ ban Hoa kiều Hải ngoại vụ (đăng trên Nhân dân
Nhật báo ngày 4-1-1978), trong đó tuyên bố: Trung Quốc sẽ giành
quyền bảo vệ tất cả Hoa kiều hải ngoại còn mang quốc
tịch Trung Quốc.

[15] Trung Quốc lan truyền tin rằng, "Chính phủ Trung Quốc kêu
gọi người Hoa về nước xây dựng Tổ quốc"; "ai không về là
phản bội Tổ quốc".

[16] Tuy nhiên, bên cạnh dòng người Hoa đổ về Trung Quốc,
với nhiều người Việt gốc Hoa thực dụng hơn đã coi đây là
cơ may để đến được thế giới Tây phương - điều mà
những người Hoa ở Đông Nam Á hẻo lánh không mơ tới được
(BBCVetnamese.com, 10-2-2009).

[17] Tập tài liệu tổng kết công tác của Đảng
(1975-1985),Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng.

[18] Chỉ trong vòng vài tháng, 17 vạn người Hoa đã rời Việt
Nam đi Trung Quốc (Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
trong 30 năm qua, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979,tr. 86). Sau khi Trung
Quốc đóng cửa biên giới (12-7-1978), nhiều người Hoa vẫn cố
vượt biên. Theo tính toán của Ramses Amer "thì con số người
Hoa ra đi cụ thể từ tháng 4-1978 đến cuối tháng 12-1979 là
khoảng trên dưới 25 vạn người" (Nguồn: Người Hoa ở Việt
Nam và quan hệ Trung - Việt, Kuals Lumpur, 1991, tr. 46).

[19] Hội đồng tương trợ kinh tế COMECON đã nhận đảm
đương giúp Việt Nam 21 công trình lớn mà Trung Quốc bỏ dở.

[20] Ramses Amer: "Sino-Vietnameses Normalization in the Light of Crisis of
the late 1970s", In: the "Pacific Affairs", Vol.67, N3, Fall 1994, University
of British Columbia Canada, 1994, tr. 360-361.

[21] Lưu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Sđd, t.
2, tr. 113.

[22] Từ năm 1976, Trung Quốc giảm dần và đến năm 1978 thì
cắt hẳn viện trợ: Khoảng 500 triệu đô la thiết bị và 300
triệu đô la/năm hàng hoá, vật tư, trong đó có 34 vạn tấn
lương thực, 43 vạn tấn xăng dầu, 30 triệu mét vải và 1 vạn
5 tấn bông, 14 vạn tấn phân bón, 15 vạn tấn ximăng, 20 vạn
tấn than mỡ v.v...(Nguồn: Phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế –xã hội trong 5 năm 1981-1985, Trình hội nghị lần
thứ 11 của BCHTƯ Đảng CSVN, khoá IV, Văn phòng lưu trữ Trung
ương Đảng).

[23] Ramses Amer: "Sino-Vietnameses Normalization in the Light of Crisis of
the late 1970s", In: the "Pacific Affairs", Vol.67, N3, Ibid, tr.32.

[24] "Nghiên cứu vấn đề quốc tế", Tạp chí Nghiên cứu vấn
đề quốc tế, Sở nghiên cứu các vấn đề quốc tế của
Trung Quốc, số 2, Bản dịch, Lưu tại Phòng Thông tin- tư liệu,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng, 1988), tr.12.

[25] "Nghiên cứu vấn đề quốc tế", Tạp chí Nghiên cứu
vấn đề quốc tế, Tlđd, tr.12.

[26] "Nghiên cứu vấn đề quốc tế", Tạp chí Nghiên cứu
vấn đề quốc tế, Tlđd, tr.12.

[27] Về kế hoạch viện trợ này, Vương Thượng Vĩnh đã tuyên
bố: "Trung Quốc sẽ đưa sang Campuchia 13.300 tấn vũ khí, trong
đó có 4.000 tấn súng đạn, 1.301 xe các loại. Trung Quốc sẽ
đào tạo cho Campuchia một trung đoàn pháo binh, một trung đoàn
rađa, xây dựng và trang bị một sân bay quân sự, cung cấp cho
Campuchia bốn tầu hộ tống và bốn thuyền cao tốc phóng ngư
lôi, trang bị một trung đoàn xe tăng, một trung đoàn thông tin
liên lạc, ba trung đoàn pháp binh, đào tạo 471 phi công, 157 sĩ
quan hàng hải và xây dựng căn cứ hải quân, mở rộng xưởng
sửa chữa vũ khí và cảng kép". Riêng năm 1977, Trung Quốc
cấp cho Campuchia 450 khẩu pháo lớn, 244 xe tăng, 1200 xe các
loại, 52 máy bay và hai vạn cố vấn trực tiếp nắm và chỉ
đạo tất cả mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, xây
dựng cho Campuchia một lực lượng vũ trang từ 7 sư đoàn lên 23
sư đoàn

[28] Bộ mặt thật, phản động, phản bội của tập đoàn cầm
quyền Bắc Kinh và sự đầu độc của chúng đối với quân
đội Trung Quốc, Tl d, tr.2.

[29] Cuộc xung đột Trung Quốc –Việt Nam, Bản dịch, lưu tại
thư viện quân đội. tr. 9.

[30] Dẫn theo Ngô Vĩnh Long; Vài câu hỏi về quan hệ giữa
ngoại giao và công việc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong thập
kỷ sau khi miền Nam được giải phóng, Tạp chí Thời đại
mới, số 6/tháng 12-2005.

[31] Phóng viên tờ "Tuần châu Á".

[32] Cuộc xung đột Trung Quốc –Việt Nam, Tlđd, tr.23.

[33] Cuộc xung đột Trung Quốc –Việt Nam,Tlđd, tr.46.

[34] Cuộc xung đột Trung Quốc –Việt Nam, Tlđd, tr.47.

[35] Tuy Uông Đông Hưng chuyển chính thức ý kiến của lãnh
đạo Trung Quốc là không đồng ý đưa quân Trung Quốc sang
Campuchia trực tiếp chiến đấu, nhưng khuyên Campuchia kháng
chiến lâu dài bằng chiến tranh du kích và hứa sẽ hết sức
ủng hộ Campuchia Dân chủ, gửi qua Campuchia gần 3 vạn cố vấn
quân sự. Pôn Pốt lên đài phát thanh ca ngợi "sự ủng hộ
vô điều kiện" của Trung Quốc với Phnôm Pênh trong cuộc
chiến đấu chống Việt Nam.

[36] Gilbert Padoul: Chính sách ngoại giao của Trung Quốc sau Mao
Trạch Đông, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, tr.4.

[37] Michael Lelfer: Xét nghiệm lại cuộc chiến tranh Đông Dương
lần thứ ba, Bản dịch, Lưu lại Thư viện Quân đội, 1979,
tr.1.

[38] Nghị quyết tuy được đại đa số tán thành, nhưng bị
Liên Xô phủ quyết. Còn Sihanouk sau khi dự Đại hội đồng đã
bí mật gặp Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc Andrew yêu
cầu được tị nạn chính trị, nhưng Hoa Kỳ không đồng ý
bởi họ vừa mới thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung
Quốc được hai tuần và Đặng Tiểu Bình sắp sang thăm hữu
nghị Hoa Kỳ.

[39] Đường biên giới với Trung Quốc được phân định trong
các Công ước ngày 26- 6-1887 và ngày 20-6-1895 giữa Chính quyền
Pháp (đại diện cho Việt Nam lúc bấy giờ) và nhà Thanh (đại
diện cho Trung Quốc). Công ước hoạch định biên giới Pháp -
Thanh ngày 26-6-1887 đã hoạch định lại một số đoạn biên
giới tiếp giáp giữa Bắc Kỳ với Vân Nam và nói rõ đường
kinh tuyến 105°43' là đường phân chia chủ quyền các đảo.
Công ước bổ sung hoạch định biên giới Pháp - Thanh ngày
20-6-1895 thống nhất hoạch định các đoạn biên giới mà hai
bên còn gác lại trong các văn bản hoạch định trước và
hoạch định mới đoạn biên giới giữa Bắc Kỳ và Vân Nam
từ sông Đà đến sông Mê Công. Trên cơ sở của các bản Công
ước này, từ năm 1889 đến năm 1897, trên toàn bộ tuyến biên
giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Pháp và nhà Thanh đã hai
bên đã tổ chức phân giới, xác định 314 vị trí mốc và đã
cắm được 341 mốc giới trên thực địa. Nhìn chung, trong quá
trình đàm phán thương lượng về biên giới, chính quyền Pháp
và nhà Thanh đã vận dụng một số nguyên tắc phổ biến của
pháp luật quốc tế cũng như thực tiễn quốc tế trong quá
trình xác lập đường biên giới trên đất liền giữa Việt
Nam và Trung quốc, thực hiện đầy đủ các bước từ xác
định nguyên tắc, hoạch định, phân giới và tiến hành cắm
mốc trên thực địa cũng như các thủ tục pháp lý khác. Về
mặt pháp lý, Công ước năm 1887 và Công ước bổ sung năm 1895
cùng các biên bản, bản đồ phân giới cắm mốc thực hiện
hai Công ước là một thể thống nhất các văn bản pháp lý
bổ sung cho nhau, cung cấp khá đầy đủ các yếu tố về
đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Như vậy,
về cơ bản, hai công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 thừa
nhận đường biên giới lịch sử truyền thống giữa Việt Nam
và Trung Quốc. Tuy nhiên, trong quá trình phân giới cắm mốc,
phía Pháp đã nhân nhượng một số vùng lãnh thổ của Việt
Nam cho Trung Quốc như Giang Bình, Bát Trang (Quảng Ninh), Đèo
Luông (Cao Bằng), Tụ Long (Hà Giang). Trong giai đoạn chế độ
Quốc dân đảng ở Trung Quốc, quan hệ biên giới giữa Pháp và
Trung Quốc cơ bản ổn định, hệ thống mốc giới được bảo
vệ, nhưng lợi dụng tình hình Pháp bị sa lầy và thất bại
liên tiếp trong chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền
Tưởng Giới Thạch đã có hành động di chuyển, phá hoại một
số mốc giới, lấn chiếm quản lý nhiều khu vực đất đai
sang phía Việt Nam.

[40] R.V.Pretcot : Những biên giới của Đông Nam Á, Nxb Membuốc,
1977, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính phủ, tr.
60

[41] Bị vong lục Bộ Ngoại giao Việt Nam, Báo Nhân dân ngày
16-2-1979,tr.4.

[42] Bị vong lục Bộ Ngoại giao Việt Nam, Tlđd.

[43] D. Xtêphanov:Trung Quốc bành trướng trên hướng biển, Nxb
Quan hệ quốc tế, Hà Nội,1980, tr. 144.

[44] Lê Kim: Một bước thất bại của bọn bành trướng Bắc
Kinh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984, tr.12.

[45] Trong đó có đề nghị của Uỷ viên Bộ Chính trị Uông
Đông Hưng đem quân tham gia trực tiếp tham chiến ở Campuchia;
đề nghị của Tư lệnh quân khu Quảng Châu Hứa Thế Hữu[45]
ào ạt tấn công Việt Nam; đề nghị của Chính uỷ Hải quân
Sử Chấn Hoa đem hạm đội Đông Hải xuống vịnh Thái Lan yểm
trợ vùng duyên hải Campuchia. Cuối cùng, Trung ương Đảng Cộng
sản Trung Quốc chấp thuận kế hoạch "phản công tự vệ
giới hạn" của Đặng Tiểu Bình (Nguồn: Hoàng Dung: Cuộc
chiến tranh Đông Dương lần thứ ba, Việt Nam thư quán Online).

[46] Ngày 3-11-1978, Việt Nam và Liên Xô đã ký Hiệp ước Hữu
nghị và Hợp tác toàn diện. Bên cạnh những điều khoản về
quan hệ chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, điều 6 của
Hiệp ước còn nhấn mạnh: "Trong trường hợp một trong hai
bên bị tấn công hoặc bị đe doạ tấn công, hai bên sẽ trao
đổi với nhau nhằm loại trừ mối đe doạ đó và áp dụng
những biện pháp thích đáng có hiệu lực để đảm bảo hoà
bình, an ninh của hai nước". Cùng với Hiệp ước này, lực
lượng hải quân Liên Xô tăng cường sự có mặt tại Vịnh Cam
Ranh và biển Đông. Việt Nam trở thành một trọng điểm trong
chiến lược châu Á- Thái Bình Dương của Liên Xô. Ở Cam Ranh,
Liên Xô có khoảng 20-30 tầu chiến; 1 sân bay và một số tàu
ngầm với lực lượng tổng cộng là 7.000 binh sĩ. Cam ranh trở
thành căn cứ quân sự lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài
trong so sánh với các căn cứ quân sự của Mỹ ở nước
ngoài.Tuy biết rằng, Hiệp ước này được ký kết sẽ gây
chấn động và bất lợi về chính trị, kinh tế, ngoại giao,
nhưng tình thế lúc này khôngcho phép Việt Nam chần chừhơn
được nữa.
[47] Nayan Chanda: Brother Enemy: The War After the War, 1988, p. 394.

[48] Lê Kim: Một bước thất bại của bọn bành trướng Bắc
Kinh, Sđd, tr.12.

[49] Gilbert Padoul: Chính sách ngoại giao của Trung Quốc sau Mao
Trạch Đông, Tlđd, tr.4.

[50] Tạp chí Sở nghiên cứu quốc tế Trung Quốc, số tháng
2-1981, Bản dịch, lưu tại thư viện quân đội.

[51] Có ít nhất hai lý do để Trung Quốc thực hiện kế hoạch
"tấn công giới hạn": Thứ nhất, Việt Nam cũng là một
địch thủ đáng ngại. Trung Quốc không thể nào chịu nổi
một cuộc chiến lâu dài, quy mô, bởi nó sẽ gây trở ngại cho
chính sách "bốn hiện đại hoá"; thứ hai, một cuộc tấn
công giới hạn, nhanh chóng sẽ không gây ra một phả ứng mạnh
mẽ trong dư luận thế giới, hay một cuộc tấn công trả đũa
từ Liên Xô

[52] Dẫn theo "Kissinger bàn về Trung Quốc", Pháp luật, Trang
thông tin điện tử báo Pháp luật T.P Hồ Chí Minh, ngày
12-2-2012.

[53] Bộ Ngoại giao: Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
trong 30 năm qua, Sđd, tr.91.

[54] Bộ Ngoại giao: Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
trong 30 năm qua, Sđd, tr.91.

[55] Gilbert Padoul: Chính sách ngoại giao của Trung Quốc sau Mao
Trạch Đông, Tlđd, tr.8.

[56] Cuộc xung đột Trung Quốc –Việt Nam, Tlđd, tr.61.

[57] Báo Nhân dân, ngày 18-2-1979, tr. 1.

[58] Báo Nhân dân, ngày 19-2-1979, tr.1.

[59] Báo Nhân dân, ngày 5-3-1979, tr.1.

[60] Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị số 67, ngày 1-3-1979,
Về việc phát động và tổ chức toàn dân chuẩn bị chiến
đấu và bảo vệ Tổ quốc,Văn phòng lư trữ Trung ương Đảng.

[61] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 16, ngày 3-3-1979
"Về cuộc kháng chiến chống bọn phản động Trung Quốc xâm
lược", Văn phòng lư trữ Trung ương Đảng.

[62] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 16, ngày 3-3-1979,
Tlđd.

[63] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 16, ngày 3-3-1979,
Tlđd.

[64] Báo Nhân dân, ngày 19-2-1979, tr.1.

[65] Ban Bí thư: Chỉ thị số 69, ngày 6-3-1979 "Về chủ
trươngcủa ta trước tình hình bọn phản động Trung Quốc rút
quân", Lưu tại Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng.

[66] Ban Bí thư: Chỉ thị số 69, ngày 6-3-1979, Tlđd.

[67] Ban Bí thư: Chỉ thị số 69, ngày 6-3-1979, Tlđd.

[68] Lưu Văn Lợi: Ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 1998, tr. 448.

[69] Những tác động chiến lược của cuộc chiến tranh Đông
Dương, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, tr. 12.

[70] Valencia.M.J, Vandyke.J.M, Ludwig.N.A, "Chia sẻ tài nguyên ở
biển Nam Trung Hoa", Bản dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới
Chính phủ, tr.59.

[71] Valencia.M.J, Vandyke.J.M, Ludwig.N.A, "Chia sẻ tài nguyên ở
biển Nam Trung Hoa", Tlđ d, tr.59.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140216/nguyen-thi-mai-hoa-mau-thuan-xung-dot-trong-quan-he-viet-trung-va-chien-tranh-bie-0),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét