Nelson Mandela - Con đường dài tới tự do

Thưa các bạn,

"Long Walk to Freedom" ("Bước Đường Dài Đến Tự Do") là cuốn
tự truyện chi tiết của Nelson Mandela. Tôi có ý định dịch sơ
lược sang tiếng Việt hầu giúp một số trong các bạn có cái
nhìn rõ hơn về tình hình nước Nam Phi trong mấy chục năm
trước, đi từ chế phân biệt chủng tộc Trắng/Đen sang một
xã hội sống trong hòa bình và hòa giải, sau khi trải qua những
đấu tranh bất bạo động rồi chuyển thành bạo động cao
độ và sau cùng là giải pháp hoà bình.

Dựa vào bản chính bằng tiếng Anh
http://archive.org/stream/LongWalkToFreedom/PBI3231_djvu.txt, bài dịch
sẽ tập trung vào những chủ đề quan trọng có thể giúp
người xem rút ra những bài học từ kinh nghiệm của Nam Phi:

* Những biến chuyển trong con người và cuộc đời của Mandela
* Đấu tranh bất bạo động
* Đấu tranh bạo động
* Giải quyết xung đột bằng đường lối hòa bình
* Thực hiện hòa giải chủng tộc

Ghi chú:

- Những phần quan trọng được dịch chi tiết hơn so với
lược dịch
- Những đoạn đặt giữa [ và ] là của người dịch ghi chú
hay tóm tắt
- Công việc dịch thuật này là do thiện chí dù khả năng hạn
hẹp, xin các bạn tự nhiên cải tiến bản dịch cho tốt hơn,
có thể được DL đăng chính thức và lưu trữ cho nhiều
người đọc (thiết nghĩ đăng ở Quán Nước bị nhiều hạn
chế)
- Có thể một số bản dịch khác chuyên nghiệp hơn, nếu các
bạn biết thì xin giới thiệu để cùng học hỏi

Trân trọng
<em><strong>LongWalk</strong></em>

<span class="underlined-text">Nội dung cuốn sách</span>

1. Thời thơ ấu ở quê nhà
2. Thành phố Johannesburg
3. Nột chiến sĩ cho tự do ra đời
4. Đấu tranh là đời sống của tôi
5. Tội phản quốc
6. Hoa "phiền lộ" (Pimpernel) màu đen
7. Thị trấn Rivonta
8. Đảo Robben: Những năm đen tối
9. Đảo Robben: Bắt đầu hy vọng
10. Nói chuyện với kẻ thù
11. Nền Tự do

<center>* * *</center>

<h2>BƯỚC ĐƯỜNG DÀI ĐẾN TỰ DO</h2>

(tự truyện của Nelson Mandela)
Nguồn: <a
href="http://archive.org/stream/LongWalkToFreedom/PBI3231_djvu.txt">Long Walk
To Freedom</a>

<span class="underlined-text">Phần I. THỜI THƠ ẤU Ở QUÊ NHÀ</span>

Tôi sinh ra trong hoàng tộc của dân Thembu và được đặt tên
Rolihlahla vốn có nghĩa "kẻ gây rối". Tôi không tin rằng tên
họ là định mệnh hay rằng cha tôi đã chọn sẵn tương lai cho
tôi, nhưng những năm về sau nhiều người nối kết cái tên
khai sinh ấy với những bão tố mà tôi đã gây ra. Còn tên
tiếng Anh Nelson được đặt cho tôi ngày đầu tiên tôi đi
học.

Tôi sinh năm 1918, đó là năm kết thúc Thế Chiến I và một
phái đoàn của ANC (African National Congress - Đại hội Toàn quốc
Phi) đến viếng hội nghị hòa bình Versailles để gióng lên
tiếng kêu thống thiết của dân chúng Phi ở Nam Phi.

[Một đoạn khá dài nói về thời thơ ấu của Mandela, với
những thú vui, sinh hoạt hàng ngày với cha mẹ, anh chị em, bạn
bè và láng giềng. Cũng nói về văn hóa của người Phi về
mặt cá nhân, gia đình và cộng đồng. Thân phụ của Mandela là
một Tù trưởng do huyết thống và phong tục (và cũng làm cố
vấn cho Hoàng gia) được vị Vua xác nhận nhưng cũng phải
được chính quyền Anh phê chuẩn. Cha của Mandela có một lúc
bốn bà vợ; mẹ của ông là bà thứ ba, còn được gọi là
"Vợ bên Tay Phải", bà này có bốn con gồm Mandela là con trai
lớn và ba con gái nhỏ hơn. Về sau thân phụ ông bị người Da
Trắng trừng phạt mà không qua xét xử do tội bất tuân lệnh
nên mất chức vụ Tù trưởng và mất cả tài sản, phải đem
vợ con về thôn quê sống trong cảnh nghèo khó]

Sau cái chết của cha vì bệnh phổi vào năm tôi lên chín tuổi,
tôi được vị Quan Nhiếp chánh (Ngài Jongintaba vốn chịu ơn
của cha tôi tiến cử khi ông làm cố vấn cho Hoàng gia) nhận
làm giám hộ và nuôi ăn học. Tôi được đối xử bình đẳng
với con ruột của ông tên Justice mà tôi xem như người anh.
Sống ở vùng thị trấn, tôi có cơ hội quan sát và học hỏi
từ vị Nhiếp chánh về cách làm việc và giao tế với dân
chúng cũng như với các vị chức sắc. Tôi cũng được tiếp
xúc với Giáo hội Methodist và đi lễ nhà thờ đều đặn (dù
khi ở quê nhà tôi đã từng đến nhà thờ có một lần duy
nhất để làm lễ theo đạo - baptized). Và về sau tôi đi dạy
Thánh Kinh hàng tuần ở những ngôi làng kế cận trường học.
Một chủ đề mà tôi bắt đầu chú tâm đến là lịch sử
của người Phi, với những vị anh hùng trong suốt cả một
thế kỷ phản kháng lại sự đô hộ của người Phương Tây,
một số trong họ bị chính quyền Anh hạ ngục cho đến chết.

Cha tôi là người thất học (nhưng ăn nói rất giỏi) tuy nhiên
ông hiểu giá trị của giáo dục, và ông đã tiến cử vị
Nhiếp chánh vì ông này có học vấn cao. Theo ý nguyện của cha
tôi và khuynh hướng của vị Nhiếp chánh, khi tôi đến tuổi
trưởng thành, vị này cho tôi tiếp tục lên học những
trường cao đẳng và đại học của đạo Cơ Đốc để sau này
làm cố vấn cho vị Chánh Vương thay vì phải ở nhà đi phu
hầm mỏ cho người Da Trắng. Mặc dù một người bạn ở khóa
đàn anh (và cũng là anh họ của tôi, tên K.D. Matanzima mà tôi
xem như bậc thầy) khuyên tôi nên học Luật, nhưng tôi chọn
ngành Thông dịch ngôn ngữ.

[Môt đoạn khá dài nói về đời sống và sinh hoạt trong
trường học và nhà nội trú]

Ở các trường, học sinh được dạy - và chúng tôi cũng tin
tưởng - rằng những ý tưởng Anh là hạng nhất, chính quyền
Anh là hạng nhất, và người Anh là hạng nhất.

Vào một kỳ nghĩ lễ, tôi mời bạn học Paul Mahabane cùng về
quê tôi chơi. Paul nổi danh ở trường học (và được gán là
tên nổi loạn) vì cha của anh đã hai lần làm Chủ tịch của
ANC mà tôi vẫn còn biết rất ít về tổ chức này. Khi chúng
tôi đang đứng trước nhà bưu điện thì một vị quan hành
chánh địa phương người Da Trắng bước đến gần Paul và yêu
cầu anh đi vào mua cho ông một ít tem thư. Những chuyện như
vậy hay xảy ra: người Da Trắng thường sai bảo người Da Đen
làm cho một việc gì đấy. Vị quan đưa cho Paul một ít tiền
lẻ nhưng Paul không nhận. Vị quan mặt đỏ gay bực tức hỏi
"Anh có biết tôi là ai không?". Paul trả lời "Không cần biết
ông là ai. Nhưng tôi biết ông là gì." Vị quan hỏi Paul rằng
chính xác anh ta có ý nói gì. Paul nói một cách ghét bỏ "Tôi
biết ông là một tên ăn xin". Vị quan nổi nóng và xổ ra "Anh
sẽ trả giá xứng đáng cho việc này" và rồi bỏ đi.

Tôi cảm thấy cực kỳ không thoải mái về cách ứng xử của
Paul. Tôi trọng sự can đảm của anh, nhưng tôi cũng thấy nó
gây phiền toái. Vị quan đã biết rõ ràng tôi là ai [vì địa
phưong này là quê của Mandela] và tôi biết rằng nếu ông ta
đã yêu cầu tôi thay vì Paul, thì tôi đã đơn giản đi vào mua
tem thư cho ông và rồi quên đi chuyện này. Nhưng tôi thán phục
Paul vì chuyện anh đã làm, mặc dù tôi chưa sẵn sàng tự mình
làm theo cách ấy. Tôi bắt đầu nhận thức rằng một người
Da Đen không buộc phải chấp nhận hàng chục những cách sỉ
nhục nhắm vào mình mỗi ngày.

Sau kỳ nghỉ lễ, tôi trở về trường vào đầu năm trong cảm
giác mạnh mẽ và phấn chấn. Tôi tập chú vào việc học,
nhắm vào các bài khảo sát vào cuối năm; và tôi tưởng
tượng mình sẽ lấy được tấm bằng Cử nhân. Chúng tôi cứ
được ông Hiệu trưởng và các thầy nhắc nhở cho rằng khi
tốt nghiệp từ Fort Hare chúng tôi sẽ là giới tinh hoa của dân
Phi. Tôi tin rằng cấp bằng đại học sẽ là cái hộ chiếu cho
phép đi đến không những vị trí lãnh đạo cộng đồng mà
còn cả sự thành công tài chánh nữa. Với bằng Cử nhân, sau
cùng tôi có thể phục hồi cho mẹ tôi những tài sản và danh
giá đã mất sau khi cha tôi qua đời. Tôi sẽ giúp mẹ và các em
gái đủ sức mua sắm những thứ mà họ thiếu thốn đã lâu.
Đấy là giấc mơ của tôi và nó có vẻ ở trong tầm tay.

Một chuyện nữa, tôi được đề nghị ứng cử vào Ban Đại
diện Sinh viên trường Đại học Fort Hare, và lúc ấy tôi không
biết những sự cố liên quan đến cuộc bầu cử của sinh viên
sẽ gây khó khăn và thay đổi cuộc đời của tôi. Theo hiến
chương của trường, tập thể sinh viên sẽ bầu ra sáu thành
viên của Ban Đại diện. Trước cuộc bầu cử, một buổi họp
cho tất cả sinh viên được tổ chức để bàn thảo về những
vấn đề và gióng lên lời than phiền. Mọi người đều cảm
thấy rằng thức ăn ở trường quá tồi và rằng quyền hạn
của Ban Đại diện cần được nâng lên nhằm xóa bỏ vị thế
bù nhìn chỉ để đóng dấu thuận cho những quyết định của
ban Giám hiệu. Tôi đồng ý với cả hai việc và cùng biểu
quyết với đa số sinh viên sẽ tẩy chay cuộc bầu cử, trừ
khi nhà trường chấp nhận sự đòi hỏi của chúng tôi.

Chẳng bao lâu sau buổi họp ấy, cuộc bỏ phiếu diễn ra theo
lịch trình [có lẽ vì ít thời gian nên không có tranh đấu qua
lại với Ban Giám hiệu]. Đa số sinh viên tẩy chay bầu cử,
ngoại trừ 25 người (khoảng 1/6 tổng số sinh viên) bầu cho
sáu đại diện mà tôi là một. Cùng ngày, sáu đại diện
được bầu ấy gặp nhau để bàn thảo về các sự cố. Chúng
tôi cùng quyết định từ chức căn cứ trên việc chúng tôi
ủng hộ cuộc tẩy chay và không được bầu bởi đa số sinh
viên. Chúng tôi thảo một bức thư và mang đến vị Hiệu
trưởng là Tiến sĩ Kerr.

Nhưng vị Hiệu trưởng rất khôn ngoan. Ông ta chấp nhận việc
chúng tôi từ chức và rồi ra thông báo rằng một cuộc bầu
cử mới sẽ được tổ chức vào ngày kế tiếp trong nhà ăn
vào buổi ăn tối. Làm thế có lẽ sẽ bảo đảm đông đủ
sinh viên hiện diện và không có lý do để nói rằng Ban Đại
diện mới chẳng được đa số ủng hộ. Cuộc bầu cử thứ
nhì này diễn ra, nhưng cũng chỉ cùng 25 sinh viên ấy bầu cho
cùng sáu đại diện đã từ chức. Kết quả lại trở về chỗ
cũ.

Lúc này, sáu người chúng tôi họp với nhau để xét lại vị
thế của mình, nhưng việc biểu quyết lại khác với khi
trước. Năm thành viên kia cho rằng chúng tôi được bầu trong
khi mọi sinh viên có mặt và như thế không còn có thể cãi
bướng chúng tôi không đại diện cho cả tập thể. Năm người
ấy tin tưởng bây giờ chúng tôi nên chấp nhận chức vụ.

Tôi phản đối rằng thật ra không có gì thay đổi; dù tất
cả sinh viên có mặt ở cuộc bầu cử, nhưng đa số sinh viên
đã không bầu, và thật không đúng về đạo đức khi cho rằng
chúng tôi được họ ủy quyền đại diện. Bởi mục tiêu
nguyên thủy của chúng tôi là tẩy chay cuộc bầu cử [để
tranh đấu cho những đòi hỏi], việc này đã được mọi
người thỏa thuận cho nên bổn phận của chúng tôi vẫn phải
đi theo quyết nghị ấy, và không để bị ông Hiệu trưởng
răn đe bằng những tiểu xảo. Vì không thể thuyết phục năm
thành viên kia, tôi từ chức lần thứ nhì, và tôi đơn độc
làm việc này.

Ngày kế, vị Hiệu trưởng cho gọi tôi đến. Ông ta trầm tĩnh
xem lại những sự cố trong mấy ngày qua và rồi yêu cầu tôi
xét lại quyết định từ chức. Tôi bảo ông ta rằng tôi không
thể làm vậy. Ông ta bảo tôi về suy nghĩ và ngày mai cho ông
biết quyết định sau cùng. Tuy nhiên ông cũng cảnh cáo tôi
rằng ông ta không cho phép học sinh của mình ứng xử vô trách
nhiệm, và rằng nếu tôi nằng nặc từ chức thì ông ta buộc
phải đuổi tôi khỏi trường đại học Fort Hare.

Lời ông Hiệu trưởng làm tôi hoảng hốt và trải qua một
đêm không yên giấc. Tôi đã chưa từng làm một quyết định
có thể mang mang lại nhiều hệ lụy như thế. Tôi hỏi ý kiến
người bạn ở khóa đàn anh; anh K.D. cảm thấy về mặt nguyên
tắc tôi làm đúng khi chọn từ chức và không nên đầu hàng.
Lúc ấy tôi cảm thấy sợ anh K.D. còn hơn là sợ ông Hiệu
trưởng. Tôi cám ơn K.D. và trở về phòng của mình.

Mặc dù tôi nghĩ mình đang làm phải lẽ về đạo đức, nhưng
tôi vẫn không chắc như thế có phải là con đường đúng.
Phải chăng tôi đang phá hỏng con đường học vấn của mình
chỉ vì một nguyên tắc đạo đức trừu tượng không mấy quan
trọng? Tôi cảm thấy khó nuốt cái ý tưởng rằng tôi sẽ hy
sinh điều tôi xem là sự bó buộc với các sinh viên - cho những
quyền lợi ích kỷ của chính mình. Cùng một lúc, tôi cũng
không muốn ném bỏ con đường học vấn của mình ở Fort Hare.

Sáng hôm sau, khi đến văn phòng Hiệu trưởng, tôi còn ở trong
trạng thái lơ mơ. Chỉ khi ông hỏi tôi đã quyết định chưa
thì tôi mới xác nhận vị thế. Tôi bảo ông rằng với lương
tâm tốt tôi không thể phục vụ trong Ban Đại diện Sinh viên.
Ông Hiệu trưởng suy nghĩ một chút rồi nói "Tốt lắm. Dĩ
nhiên đó là quyết định của ông. Nhưng tôi cũng đưa vào
vấn đề một ý nghĩ, và tôi đề nghị điều này: ông có
thể trở lại trường Fort Hare vào năm tới miễn là ông sẽ
tham gia vào Ban Đại diện Sinh viên. Ông có cả một mùa Hè
để xem xét đề nghị này, thưa ông Mandela.".

Theo một cách nào đó, phản ứng của tôi đã làm ngạc nhiên
bản thân mình và cả ông Hiệu trưởng. Tôi biết rằng rời
bỏ Fort Hare là điều thiếu khôn ngoan cho tôi, nhưng lúc ấy
tôi cần sự cân bằng, và đơn giản tôi không thể làm như
ông Hiệu trưởng đề nghị. Điều gì đó trong lòng đã không
cho phép tôi. Tôi công nhận vị thế của ông Hiệu trưởng và
sự sẵn lòng cho tôi một cơ hội khác, nhưng tôi căm giận cái
quyền lực tuyệt đối của ông trên số phận của bản thân
tôi. Đáng lẽ tôi nên có mọi quyền để từ chức khỏi Ban
Đại diện nếu muốn.

Sau kỳ thi cuối năm học, tôi trở về nhà và cho vị Nhiếp
chánh biết những gì đã xảy ra. Ông ta giận dữ cực độ,
không thể hiểu được những lý do mà tôi đã hành động.
Không cần nghe tôi giải thích tường tận, ông nói như ra lệnh
rằng tôi phải theo lời vị Hiệu trưởng và trở về trường
học vào mùa Thu tới. Thiết nghĩ tranh cãi với ân nhân của
mình là bất kính mà cũng không ích gì nên tôi định để cho
vấn đề lắng chìm trong một thời gian.

Cũng trong mùa Hè này, vị Nhiếp chánh xếp đặt sẵn mai mối
rồi sẽ làm đám cưới cho anh nuôi Justice và tôi mỗi người
một cô vợ. Cả hai cô đều xinh đẹp trong những gia đình danh
giá. Chẳng may cô gái được vị Nhiếp chánh chọn làm vợ tôi
lại là người yêu của anh Justice mà ông không biết! Hai anh em
bàn với nhau và đồng ý về tình trạng tiến thoái lưỡng nan,
lấy vợ như thế không được mà chống lại ý của vị Nhiếp
chánh cũng không xong. Cả hai cùng quyết định giải pháp bỏ
nhà ra đi và nơi duy nhất có thể đến được là thành phố
Johannesburg.

[Một đoạn khá dài kể chuyện hai anh em lén đem bán hai con bò
lấy tiền làm lộ phí; và nói về những khó khăn khi người Da
Đen di chuyển từ địa phương này sang nơi khác, bị đòi hỏi
những giấy tờ như hộ chiếu, chúng nhận đóng thuế, giấy
giới thiệu, v.v. mà hai người không có]

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/node/25219), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét