Johan Galtung - Phật Giáo và Hoà Bình Thế Giới

<blockquote><strong>Lời người dịch:</strong> Dù tinh thần Phật
Pháp luôn tiềm tàng trong lòng văn hoá dân tộc tại các nước
phương Đông, nhưng nỗ lực hoằng pháp của các Tăng Đoàn
luôn bị hạn chế và sinh hoạt ngày càng cách biệt với xã
hội đang chuyển mình, thậm chí còn thoả hiệp với bạo
quyền để hưởng những đặc lợi vật chất và vài hình
thức về tự do tín ngưỡng. Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử
còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập
không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới. Đó là
lý do giải thích tại sao Phật giáo tại Nhật, Đại Hàn, Sri
Lanka và Thái Lan đang suy tàn.

Ngược lại, xã hội các nước phương Tây đang bị khủng
hoảng về giá trị nên tạo nhiều xáo trộn tâm linh cho con
người và Phật giáo đã đem đến những giá trị mới đầy
thu hút. Cụ thể là khi đặt mối tương thuộc của con người
với thiên nhiên, thú vật, xã hội và thế giới, Phật giáo
đề cao tự do cá nhân trong tư duy độc lập và nỗ lực hành
động để thay cho giáo điều, từ bi trong một thế giới vị
kỷ, bất bạo động trước một trào lưu quốc tế cuồng tín
với sử dụng bạo lực. Đặc biệt nhất là với lòng khoan
dung những dị biệt, Phật giáo còn có khả năng hoá giải xung
đột chính trị. Dù đang có nhiều nỗ lực liên tôn để kiến
tạo cho hoà bình thế giới, nhưng với một nội dung hiếu hoà
và phương cách khả thi nên đạo đức Phật giáo sẽ là một
tiềm năng to lớn để đóng góp thiết thực cho tiến trình
này.

Nguyên tác của bản dịch là "Buddhism and the World Peace", đăng
trong "The Palgrave International Handbook of Peace Studies: A Cultural
Perspective", Wolfgang Dietrich, Josefina Echavarria Alvarez und Gustavo
Esteva von Palgrave (2011), 278- 290.

Johan Galtung là Giáo sư Đại học Hawaii và được mời thỉnh
giảng trên 30 Đại học nổi tiếng khắp thế giới. Ông còn
là Giám Đốc của Transcend và Peace Research Institute, Olso. Với
trên 50 ấn phẩm và 1000 công trình nghiên cứu khoa học về Hoà
Binh ông đã nổi danh là người sáng lập cho lĩnh vực Peace
Studies. Với những đóng góp to lớn này ông được nhiều giải
thưỏng cao qúy. Tác phẩm chính trong lĩnh vực Phật học là
„Buddhism: A Quest for Unity and Peace" (1993). Các tiểu tựa là
của người dịch.

Bài liên quan: Peter Harvey, „Chiến Tranh và Hoà Bình theo Quan
Điểm của Phật Giaó".</blockquote>

<center>* * *</center>


<h2>Dẫn Nhập Lý Thuyết Về Hoà Bình</h2>

Bất cứ khi nào mà ta tìm hiểu về mối quan hệ giữa X và Y,
một ý tưởng thú vị là ta suy nghĩ trước về X, rồi sau đó
có ý kiến về Y, cuối cùng xem mối quan hệ là có phù hợp hay
xung đột, hoà ái hay bất ổn hoặc là không quan hệ nhau. Tôi
sẽ trình bày theo khuôn mẫu này, nhưng với một trình tự
đối nghịch với tựa đề, vì tôi khởi đầu bằng đề tài
Hoà bình, rồi sau đó thảo luận về Phật giáo. Và bây giờ
tôi đi vào một lĩnh vực khá trừu tượng thuộc về một
phạm vi của triết học xã hội hơn là các vấn đề cụ thể
trong chính trị học đương đại.

Chính vì thế mà tôi không có ý định thảo luận các lý
thuyết về quân bình quyền lực đang đặc biệt chiếm ưu thế
tại phương Tây hay các lý thuyết trọng tâm quyền lực đang
gây ảnh hưởng mạnh tại phương Đông. Trong một mức độ quy
mô hơn, cả hai lý thuyết hoà bình này thuộc về tầng lớp
lãnh đạo, phản ảnh mối quan tâm của họ đang độc quyền
nắm giữ và sử dụng quyền lực. Những lý thuyết này không
phản ảnh tất yếu những lý thuyết về hoà bình. Đúng hơn,
tôi sẽ trình bày một nhận thức thật đơn giản để làm
khởi điểm: hoà bình là một cái gì đó liên hệ đến một
chiều hướng chuyển biến, mà ở đây hiểu theo ý nghĩa hỗn
loạn.
Tuy nhiên, hỗn loạn là một cái gì đó thiếu trật tự và
hoàn toàn không phù hợp để ám chỉ cho ý tưởng hoà bình.
Nhưng điểm chính của hỗn loạn không có ý xấu, nhưng là do
sự cực kỳ phức tạp của hệ thống và trong đó có một vài
thành tố dị biệt và nối kết gây cho các thành tố này
tương tác nhau. Ý tưởng chính là có một thời điểm mà hệ
thống có khuynh hướng kết tụ và tạo nên ổn định hơn, từ
đó mà một số khuôn mẫu xã hội (thí dụ như các quốc gia,
khối liên kết và liên minh) trở nên nhỏ hơn. Khi tập trung
vào một chủ điểm của khuôn mẫu, các tương tác này không
mang lại được một phạm vi toàn diện hay tạo khả năng,
nhưng chỉ có khuynh hướng kết hợp theo khuôn mẫu nào đó và
thường là theo một cách đối nghịch và tiêu cực. Về điểm
này, hệ thống mới nhìn qua có vẻ ổn định, nhưng thực ra
gây nên một cuộc chiến hủy diệt.

Trong lý thuyết xung đột, sự thể này được biết đến như
một tình trạng bị phân hoá, khi mà hai đồng minh ra sức
chống nhau. Hầu hết mọi tác động xãy ra giữa các siêu
cường và thực ra là giữa các nhà lãnh đạo tối cao của các
siêu cường. Phiên họp thượng đỉnh là một thí dụ điển
hình về kết quả của một cách nhìn sai lạc về xã hội, ngay
cả khi cuộc họp này đem đến một thoả ước về giải
giới. Cấu trúc đem đến thoả ước có sai lầm đến độ làm
cho chúng ta có lý do nghi ngờ về kết quả - dù chiều hướng
chuyển biến có ở một mức độ thấp – Có phải chăng
thoả ước giải giới là một màn che đậy, một loại mộng
tưởng hão huyền cho một thoả ước về vũ trang?

Trước một hình ảnh bất ổn này tôi muốn phác hoạ một
hình ảnh khác tương tự. Hình ảnh này đề ra một ý muốn là
chúng ta cần đem vấn đề hoà bình ra để thảo luận và tìm
hiểu, mà đây không phải là hoà bình giữa các quốc gia, mà
còn giữa các xã hội, con người và thiên nhiên. Chúng ta phải
hiểu là có bốn phạm vi: thiên nhiên, con người, xã hội và
thế giới. Trong bốn phạm vi vừa kể, có hai yếu tố là
điều kiện tất yếu cho hoà bình: dị biệt (giữa các bộ
phận, các khuôn mẫu và các tác nhân) và cộng sinh (giữa các
những liên kết tương tác).

Trong thiên nhiên, dị biệt và cộng sinh sẽ đưa tới sự quân
bình về sinh thái. Đối với con người, dị biệt và cộng sinh
sẽ làm cuộc sống phong phú và trưởng thành, con người sẽ
có khả năng phát huy nhiều đức tính và làm cho các năng
khiếu này tương tác nhau. Trong phạm vi xã hội, dị biệt và
cộng sinh sẽ đưa tới đa nguyên, tạo cho xã hội thu hút hơn,
không làm xã hội phân hoá thành những bộ phận dị biệt, mà
tương tác nhau trong phát triển liên tục. Trong toàn cảnh thế
giới, dị biệt và cộng sinh đưa tới sống chung hoà bình
giữa nhiều hệ thống theo nghĩa tích cực, không phải chỉ có
hai hệ thống như lý thuyết Xô Viết đề cập.

Hơn nữa, cả hai không làm theo cách là đem lại một thứ lý
thuyết tuyệt hảo cho riêng xã hội của mình, chỉ thử nghiệm
trong một khuôn mẫu xã hội như Xã Hội chủ nghiã, ngay cả khi
ta nhìn chủ nghiã này có khía cạnh năng động trong thời kỳ
đổi mới. Hãy để các đặc điểm này kết hợp nhau mà ta
mặc định là cộng sinh hay tương thuộc nhau trong mức độ
quân bình, tác động nhau theo chiều ngang, không bộ phận nào
là có vai trò khống chế hay bóc lột. Điều này không luôn
luôn là đúng hẳn trong trường hợp của thiên nhiên, vì cũng
có mối quan hệ lợi lộc và mạnh yếu là cộng hưởng, nhưng
không nhất thiết là bình đẳng. Do đó, không có một khuôn
mẫu nào là lý tưởng cho phạm vi con người, xã hội và thế
giới.

Hình ảnh của hoà bình trong thực tế hiện nay có nhiều dị
biệt, điểm này thật dễ nhận ra. Ngay cả trên bình diện lý
thuyết, cả phương Đông lẫn phương Tây hiện tại đều có
suy nghĩ chung về hoà bình như là một cuộc chiến chống thiên
nhiên, hủy hoại sự quân bình sinh thái, mà dị biệt và cộng
sinh là điểm cơ bản; nhưng cùng lúc mang laị con người những
suy nghĩ đơn thuần, thường là hướng về giáo điều hoặc
chỉ theo vật chất, cố tạo ra một hệ thống cho riêng mình
để khống chế thế giới.

Vì thế ta không có hạnh phúc khi thấy tha nhân có nhiều dị
biệt, không ca ngợi giá trị của dị biệt, ít cảm nhận
được dị biệt là thiết yếu, mà còn tác hại, nếu đó là
một khuôn mẫu thống trị xã hội và thế giới. Xã hội và
thế giới sẽ phát triển tốt đẹp hơn thông qua cộng sinh
giữa các dị biệt, thí dụ như chủ nghiã Xã hội và chủ
nghiã Tư Bản hợp tác và cộng sinh nhau, nhưng cũng không nên
giả đoán rằng một trong hai chủ nghiã này sẽ toàn thắng
trong trường kỳ. Nhưng vì đây không phải là một ý thức hệ
chủ đạo thịnh thời, không thuộc phương Đông mà cũng không
thuộc phương Tây.

Vì dị biệt càng nổi bật và cộng sinh còn nhiều khiếm
khuyết mà thế giới chúng ta trở thành một hệ thống giống
như đang có chiến tranh, từ đó mà có những nỗ lực kiểm
soát bạo lực thông qua việc quân bình các chính sách độc
quyền bạo lực. Tuy nhiên, khi một sách lược như thế dựa
trên các loại vũ khí tấn công (vũ khí không chỉ dùng để
bảo vệ đất nước mà có thể chiến đấu chống và tiêu
diệt đối phương). Hậu quả là có chạy đua vũ trang, vì
đối phương không tin sự bảo đảm sử dụng vũ khí là cho
mục tiêu bảo vệ đất nước. Chạy đua vũ trang chỉ dẫn
đến chiến tranh, nếu không trực tiếp giữa hai đối thủ thì
cũng gián tiếp khi dùng phía trung gian thứ ba hay thứ tư.

Và đó chính là tình hình của chúng ta, - nói một cách ngắn
gọn - đúng là một tình huống khó xử. Tất cả chúng ta đều
biết rằng chiến tranh với vũ khí hủy diệt hàng loạt, dù
sử dụng trong bất kỳ một tỷ lệ nào, không nên xãy ra,
điều đơn giản. Vì thế mà triển vọng của chúng ta không
quá sáng sủa, nếu nói một cách nhẹ nhàng. Chúng ta đang xây
dựng những cấu trúc cho chiến tranh, không cho hoà bình, mức
độ dị biệt và cộng sinh quá thấp, mức độ chuyển hướng
cho chuyển biến còn quá thấp. Đó chính là khuynh hướng chung
hiện nay.

<h2>20 Ưu Điểm Của Phật Giáo Trong Việc Góp Phần Kiến Tạo
Hòa Bình</h2>

Bây giờ tôi xin bước sang phần hai là Phật giáo. Theo suy nghĩ
của cá nhân tôi, nếu nhìn thế giới toàn diện thì Phật giáo
là một tín ngưỡng quan trọng, có một thế giới quan gần
nhất với một mô hình lý thuyết năng động và cực kỳ phức
tạp về hoà bình. Tôi thử phân tích điểm này bằng cách chia
làm hai phần: Phật giáo có 20 điểm mạnh hoàn toàn phù hợp
với việc theo đuổi hoà bình và có 6 điểm yếu ngăn trở mà
tôi sẽ trình bày ở phần sau. Để đúc kết, tôi sẽ đối
chiếu mối quan hệ hỗ tương giữa những hình ảnh được
trình bày về Hoà bình và Phật giáo.

<h3>1.Vô Ngã</h3>

Điểm cơ bản nhất theo Phật giáo là thuyết Vô Ngã, một tinh
thần không chấp ngã nhưng thường hằng. Tôi xem quan điểm này
không có nghĩa là phải loại trừ những đặc điểm bất
thường, luôn đổi thay, có thể nếu nói một cách ẩn dụ,
thì đây là phù hợp với quan điểm tâm linh ở phương Tây
trong tinh thần tập thể: đồng cãm với những sinh vật hữu
tình khác trong mọi phạm vi. Nhưng điểm cần loại trừ là
chủ nghiã cá nhân, một trọng điểm của phương Tây, khi cá
nhân tự kỷ coi mình là độc đáo, cá biệt, không ràng buộc,
bảo đảm cho một cuộc sống riêng bất tử theo nghiã thường
hằng. Điều chắc chắn là thuyết Vô Ngã không loại trừ ý
nghĩa về một tinh thần liên đới giữa con người, theo ý
nghĩa kết hợp thành nhất thể cuả tất cả mọi con người
với những sinh vật hữu tình khác, bất kỳ họ đang ở đâu,
không thể kể đến biên giới, tuổi tác, giới tính, chủng
loại, quốc gia, giai cấp, hay trong môi trường thiên nhiên,
không nhất thiết phải là trong cùng môi trường sống, và cũng
không biệt với thú vật.

Ta có thể nói theo Thiên Chúa giáo thì sự tìm kiếm nhất thể
có tính hướng thượng, bắt nguồn từ những cá nhân hiện
đang sống ở đây thông qua Chuá Jesus để rồi tiến đến
Thượng Đế, (nhưng không ít nhiều cũng phải qua trung gian của
Giáo hội, và điểm này cũng còn tùy thuộc vào loại Giáo hội
nào). Theo Phật giáo, sự tìm kiếm kết hợp nhất thể mở
rộng trong không gian cho từng cá nhân xuống cho đến các chủng
loại khác không thuộc con người (nếu ta có thể diễn đạt
lối „hướng hạ" chung như vậy) vừa thoái bộ và tiến bộ
qua thời gian theo những nguyên tắc nghiệp báo và tái sinh. Đây
là khái niệm đặc sắc của Ấn Độ giáo về sự chuyển hoá
tâm linh cá thể trong thường tại.

Chính vì thế mà thuyết Vô Ngã với một mức độ cao cả tạo
ra được đồng cảm cho tất cả mọi chủng loại từ quá khứ
đến hiện tại và tương lai, ngay cả khi sự kết hợp nhất
thể này được coi như là một cái gì đó mang tính nội tại.
Đó là đặc điểm mà tôi có ở trong tha nhân và tha nhân có
ở trong tôi. Tôi là một tiến trình, cùng liên tiến với
những tiến trình khác trong tâm trí, thể xác và cùng chung vấn
đề dù bất cứ nơi nào trong quá khứ, hiện tại và tương
lai; tùy theo điều kiện mà đã gây hay đang gây vấn đề cho
tha nhân. Thuyết Vô Ngã loại bỏ mọi biên giới, chống lại
mọi phân hoá, kết hợp cá nhân, nếu không, thì họ đọ sức
nhau trong cuộc đấu tranh để dành sự quan tâm và ân sủng
của Thượng Đế khi tìm đến Ngài, nhưng có những đòi hỏi
phàm tục hơn nếu khi thấy Ngài bắt đầu suy yếu, một hiện
tượng chỉ quen thuộc trong thế giới của người theo đạo
Thiên Chúa. Những người theo đạo Thiên Chúa và hữu thần tìm
kiếm sự liên kết hướng thượng với Thượng Đế. Ngược
lại, Phật tử mở rộng liên kết với mọi chúng sinh, tha nhân
đang sống trong mọi không gian và thời gian. Thiên Chúa giáo có
thể phân cách, trong khi Phật giáo, với tinh thân Vô Ngã, chỉ
kết hợp.

<h3>2.Bất Bạo Động</h3>

Hậu quả của thuyết Vô Ngã là bất bạo động hướng về
mọi chúng sinh, chắc chắn một điều là kể cả thú vật,
(đó là lý do tại sao Phật tử có khuynh hướng ăn chay). Bất
bạo động cũng không nên hiểu theo ý nghĩ vị kỷ hay vị tha.
Hai khái niệm này đề ra rằng ích kỷ chỉ cố tối đa hoa
lợi lộc của mình, ngay cả khi người khác phải chịu phí
tổn, trong khi người vị tha lại cố làm tối đa hoá lợi lộc
cho người khác hưởng, ngay cả khi mình phải chịu phí tổn.
Trong phạm vi của thuyết Vô Ngã, bất bạo động phải được
hiểu là một quy luật không làm thương tổn tha nhân bởi vì
làm thương tổn tha nhân cũng là làm thương tổn chính mình,
tất cả chúng ta cùng một chủng loại, cùng là một phần trong
tiến tình tương tác nhau, tất cả liên hệ với tôi trong cùng
một thời gian và không gian.

Theo Ghandi, tư tưởng này cực kỳ quan trọng, sự kết hợp
nhất thể trong con người và trong cuộc đời trở thành lý
thuyết chính mà ông dựa vào đó để làm nền tảng. Hiển
nhiên, tinh thần bất bạo động có ảnh hưởng quan trọng trong
việc kiến tạo hoà bình, nhưng vấn đề là có một vài nơi
trên thế giới có tinh thần bất bạo đông, còn có nơi khác
thì không. Chính vì thế có một lập luận cho là ít nhất
phải có một chiến lược trung gian hướng về một thế giới
cần được khai sáng nhiều hơn: đó là khaí niệm phòng thủ
tự vệ.

<h3>3. Từ Bi</h3>

Bất bạo động là lối diễn đạt tiêu cực. Thực ra, trong
ngôn ngữ Sankrit bất bạo động có nội dung ít tiêu cực hơn.
Lối diễn đạt này xuất phát từ Ngũ giới mà hầu hết là
không được phép làm (không được tự tử, sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, nói dối và dùng rượu). Ngũ giới phải được
hiểu chung với Ngũ pháp, năm hành động theo ý nghĩa tích cực.
Một trong năm Ngũ Pháp này là Từ Bi, mà ta có thể diễn dịch
là lòng thương cảm. Nói khác đi, ta không những chỉ từ bỏ
bạo lực mà còn mở rộng lòng thương cảm đối với mọi
chủng loài bất cư nơi đâu. Bốn hành động khác là hướng
thiện gồm có việc không buôn bán vũ khí và ruợu, kiểm soát
dục tính và đam mê, nói sự thật và tĩnh thức - trong ý nghĩa
là từ bỏ mọi bất cẩn và vô tâm.

Theo quan điểm lý thuyết hoà bình, điểm này quan trọng. Theo
trọng tâm của Phật Giáo thì điểm cơ bản không phải là hoà
bình theo nghĩa tiêu cực mà tích cực, không phải chỉ có sự
vắng mặt của chiến tranh mà có mối quan hệ tốt đẹp, không
phải chỉ có Ngũ giới mà còn có Ngũ pháp.

<h3>4.Cộng Sinh. </h3>

Tư tưởng chính của Phật giáo là chúng ta có một tài sản
đạo đức chung. Phật tính là một đặc điểm chung mà chúng
ta có thể cùng nhau đạt được. Mục tiêu của chúng ta không
là tự thực hiện trong tinh thần cá nhân thường hằng, mà tự
thực hiện cuả tất cả, bởi vì chúng ta gắn bó nhau trong
mối quan hệ nhân quả có điều kiện.

Lối suy nghĩ này không thể áp dụng cho phạm vi toàn thế
giới. Phúc lợi, tăng trưởng và an ninh của các nước khác
cũng chính là phúc lợi, tăng trưởng và an ninh cho đất nước
của tôi. Nếu tôi làm tổn hại cho cá nhân hay tập thể khác,
thì chúng ta không thể nào cùng nhau phát triển chung, kể cả
việc gặp gỡ nhau. Tôi có thể chiến thắng đơn độc, nhưng
đó cũng là cho tất cả. Trên nguyên tắc, loại suy nghĩ này
sẽ dẫn lối tới chuyện mua bán mà tôi cố xây dựng với
người khác qua những thoả thuận để hợp tác, thay vì cố
gắng tối đa hoá lợi lộc của riêng mình trong ngắn hạn. Kế
toán quốc gia hiểu theo nghĩa thặng dư hay thâm thủng mậu
dịch và lợi tức tính theo đầu người dựa trên tổng sản
luợng quốc gia trở thành vô nghĩa, khi ta không quan tâm tới
sự tương thuộc thế gian. Đây chỉ là lối diễn đạt về
tinh thần vị kỷ trong thế giới, chỉ coi đất nước mình là
trọng và vĩnh cữu. Một tài sản đạo đức tập thể sẽ
hướng chúng ta tới tinh thần cộng sinh và bình đẳng.

Hậu quả khác là lý thuyết không những hướng về an ninh chung
(thí dụ như Uỷ ban Palme) nhưng còn về hợp tác an ninh. Ý
kiến này có thể định hình cho những thể chế quốc tế thí
dụ như Lực Lượng Duy Trì Hoà Bình Liên Hiệp Quốc. Hiện nay,
quan trọng hơn có lẽ là những nỗ lực nhằm xây dựng an ninh
riêng mà không giảm bớt an ninh của nước khác, thí dụ như
thông qua hệ thống với vũ khí phòng thủ hơn là tấn công.

Tóm lại, trong lý thuyết hoà bình, lối suy nghĩ tập thể
định hình cho một hình thức "an ninh của tôi là an ninh của
anh và ngược lại", suy nghĩ này đưa tới một khái niệm kết
hợp hơn là loại trừ. Quan điểm này cho thấy phải vượt qua
mục tiêu quá giản lược là chỉ lo về giải giới như là con
đường dẫn tới hoà bình.

<h3>5. Dị Biệt</h3>

Cơ bản của Phật giáo là lòng bao dung, một phương châm nổi
tiếng trong 84 ngàn pháp môn. Lịch sử cho thấy là không có
một nơi nào gọi là một trung tâm chính thức để bảo vệ
giáo lý Phật giáo, cũng không có toà án dị giáo và chiến
tranh liên tôn. Nhưng Phật giáo có lòng bao dung đối với các
tín ngưỡng khác, tạo cho tôn giáo khác có điều kiện kết
hợp với Phật giáo trong một tầm mức rộng lớn hơn, hoặc
ít nhứt cũng có thể sống chung với Phật giáo. Phật giáo theo
thuyết đa nguyên hơn là đơn thuần, ngay cả khi có ý tưởng
giúp các tôn giáo bạn.

Đó là ý nghĩ hợp nhất trong đa dạng; nhưng cũng có đa dạng
trong hợp nhất được giả định. Có sự cộng sinh trong dị
biệt như người ta chứng kiến khả năng Phật tử có thể
kết hợp các loại suy nghĩ khác trong cách tư duy của mình.
Trước tình trạng dị biệt của những hình thái xã hội và
thái độ con người thì lý thuyết hoà bình muốn nó đặt
thành những điều kiện kiên định trong hệ thống. Nếu lý
thuyết áp dụng được trong mối quan hệ cộng sinh, thì nó sẽ
không những phù hợp cao độ với tư tưởng Phật giáo mà còn
trong tu tập, nhất là tránh được những đường lối đối
nghịch cực đoan. Đó là việc mưu tìm hợp nhất cho phù hợp
với lý thuyết và hành động.

<h3>6. Lý Thuyết Trung Đạo</h3>

Thuyết Trung Đạo là một phương hướng cụ thể cho cuộc
sống. Điểm chính của thuyết này là không quá nhiều hay quá
ít, một cách giúp cho Phật tử có khuynh hướng không cực
đoan. Trong phạm vi thái độ và tín ngưỡng, phương cách này
bao gồm một khuynh hướng xa rời mọi thái độ cực đoan, rất
hữu ích giúp cho Phật tử cũng như tín hữu Quakers trở thành
những người làm nhịp cầu nối kết. Phật tử dễ làm
người trung gian để tiếp xúc cho các phần tử cực đoan, đưa
những phần tử này hướng về một quan điểm Phật giáo thực
dụng hơn, giúp họ cảm nhận là quan điểm cực đoan chỉ là
những nhận thức phiến diện.

<h3>7. Thực Hành Trung Đạo </h3>

Thực hành là một biểu hiện cụ thể điểm Trung Đạo vừa
nêu. Trong cuộc sống vật chất, thực hành điểm này có nghĩa
là không thể có quá it khi chưa đủ để thoả mản cho những
nhu cầu cơ bản, mà cũng không thể tích lũy quá nhiều nhằm
sang giàu, điều nên tránh. Trong đời sống tâm linh, điều này
có nghĩa là không nên làm tự hành hạ làm khổ mình mà cũng
không nên tự bung lung cẩu thả. Ảnh hưởng cuả lối sống
này tạo cho xã hội tương đối công bình, ít quan tâm đến lý
tưởng làm giàu vật chất do bóc lột hay thụ đắc, cẩn
trọng hơn đến sinh hoạt kinh tế, không làm cho tha nhân bị
mất cơ hội đạt được một cuộc sống trung dung. Để giữ
nguyên tắc kết hợp nhất thể, con người sẽ đóng một vai
trò cơ bản trong mối quan hệ. Dù chúng ta thấy đây là một
lý thuyết xã hội, nhưng cũng có thể là một lý thuyết áp
dụng cho các quốc gia trên thế giới: không một quốc gia nào
phải chiụ tiêu thụ quá ít, mà không quốc gia nào được tiêu
thụ quá mức. Nói một cách cụ thể hơn, không quốc gia phải
tiêu thụ quá ít, vì bị quốc gia khác tiêu thụ nhiều đến
độ không còn gì. Một lần nữa, theo lý thuyết hoà bình, quan
điểm này đem lại một cơ sở vững chắc cho những chính sách
hoà bình tích cực dựa trên công bình, và hình thức bình
đẳng trong mọi trao đổi làm cho nguyên tắc bình đẳng không
bị thương tổn, vì dựa trên thái độ hợp tác cộng sinh. Vì
dựa theo triết lý Phật giáo mà có người còn cho là lý
thuyết công bình cần mở rộng định nghĩa cho trộm cắp, phù
hợp hơn với khái niệm bóc lột, nhưng thật ra đây là điểm
còn cần tranh luận.

<h3>8. Hiệu Năng Với Quy Mô Nhỏ </h3>

Nếu chúng ta chấp nhận cần có một khuôn mẫu hợp tác để
hướng về Phật tính, để nhân sinh tương tác trong thường
hằng, cùng tương trợ nhau, điều này chỉ có ý nghĩa trong
những đơn vị có quy mô nhỏ. Ngay cả một phong trào Phật tử
đại chúng như Soka Gakkai, với những cuộc biểu tình rầm rộ,
dường như cũng cho thấy là họ chỉ thành công nhất trong
những nhóm nhỏ có quen biết. Nói chung, lối suy nghĩ này là
tiêu biểu trong phái Tiểu Thừa hơn là Đại Thừa, mà phong
trào Soka Gakkai là một thí dụ.

Theo lý thuyết hoà bình, những đơn vị xã hội có quy mô nhỏ
trong bốn phạm vi (thiên nhiên, con người. xã hội và thế
giới) dường như được nhiều an hoà hơn, vì trong đó có một
cơ chế điều hướng mà người ta có thể nói cho nhau nghe
điều sai lầm, chịu đựng chung hậu quả của tranh chấp và
hưởng chung những lợi lộc do hợp tác đem lại. Trong những
xã hội đại chúng mà cá nhân bị phân tán trầm trọng, giữ
khoảng cách với giới có quyền thế, khó có một cơ chế
điều hướng như vậy.

Nói chung, Phật giáo có khuynh hướng quan tâm đến những đơn
vị có quy mô nhỏ trong tổ chức xã hội, và những đơn vị
nhỏ này ít có chống đối nhau hơn các tổ chức lớn, nếu
không kể đến có những lý do khác thì đơn vị nhỏ có ít
phương tiện sinh ra những hoạt động phá hoại. Nhóm nhỏ tạo
cơ sở tốt hơn cho việc phát huy tình huynh đệ như là những
điều kiện cho nhân tính - con đường dẫn đến Phật tính,
mẫu mực tốt đẹp cho sự kết hợp lý thuyết hoà bình và tu
tập theo Phật giáo.

<h3>9. Tính Tổng Thể </h3>

Phật giáo không có khó khăn trong suy nghĩ cũng như hành động
cho phù hợp theo bốn phạm vi vừa kể, không chấp nhận phân
hoá, nhân tạo, giả tạo của sự kết hợp rộng lớn thành
nhất thể của sinh hoạt hữu tình. Tuy nhiên, trong bốn phạm vi
này, tôi thấy cần giải thích một lần nữa là Phật giáo
trong giáo lý cũng như trong tu tập có sức thuyết phục nhất
trong hai phạm vi con người và thiên nhiên, và ít được triển
khai như là một loại sách cẩm nang về tư tưởng và thực
hành cho phạm vi xã hội và thế giới. Dù trong Phật giáo có
thiếu một cách tương đối về mặt lý thuyết cho thế giới
và xã hội, nhưng khó khăn này được vượt qua dễ dàng nhờ
sự đóng góp của các Phật tử hiện nay và kể cả của các
triết gia. Dù điều kiện cơ bản đã đạt được, nhưng
chuyển hướng về sự kết hợp nhất thể không đưa ra một
giới hạn nào trong nguyên tắc giữa các phạm vi để nói
rằng: "Đây không phải là mối quan tâm của tôi".

Thực vậy, Phật giáo không có đặc điểm siêu hình mà là
một triết lý đạo đức được chứng nghiệm, không có một
phạm vi cho mặc khải thần thánh để phân biệt với con
người. Đức Phật đạt được một sự tĩnh thức sâu xa,
nhưng Ngài cũng là một con người. Khi các tôn giáo phương Tây
triển khai thần học như là một khoa học thần thánh, thì
triết lý Phật giáo (nếu gọi tương phản là Thần học Phật
giáo) được tự do hơn khi đặt trọng tâm vào thế giới này
trong quan điểm nhất thể. Trong lĩnh vực triết học, tâm lý
học, y khoa và dinh dưỡng, nguyên tắc này mạnh nhất, trong khi
trong lĩnh vực xã hội học, kinh tế học và quan hệ quốc tế
thì nguyên tắc này yếu hơn. Nhưng không có gì cản trở cho
các nhà tư tưởng Phật giáo tiến bước trong các lĩnh vực
trên theo nguyên tắc này.

<h3>10. Đại Chúng</h3>

Về phương diện lịch sử, Phật giáo có khuynh hướng trở
thành một tôn giáo của đại chúng, hoặc là một hệ thống
tín ngưỡng của toàn dân, một phong trào cho đám đông, không
là tôn giáo cho giới thượng lưu hay quyền thế. Thực vậy,
Phật giáo bị đưa ra khỏi Ấn Độ vì không thích hợp với
khía cạnh giai cấp của Ấn Độ Bà La Môn giáo. Ở Nhật Bản,
giới lãnh đạo đã thích nghi với Thần Đạo, một quốc giáo
mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc và đối kháng, xem như là một
chuyển hướng cơ bản, cộng thêm với Thiên Chúa giáo. Tại
Đại Hàn, và cũng có một phần tại Trung Quốc, giới lãnh
đạo bám chặt lấy Thiên Chúa giáo, giới trẻ sau này cũng
tiếp thu các quan điểm Tự do, Bảo thủ và Mác Xít.

Tại Đại Hàn ngày nay, người ta còn thấy trong giới lãnh
đạo có người theo Thiên Chúa giáo quá khích tại miền Nam và
Mác xít cực đoan tại miền Bắc, và Phật giáo có ảnh hưởng
lan rộng trong dân chúng - cũng có thể có ở miền Bắc. Điều
này biểu hiện một tiềm năng to lớn cho chính sách hoà bình
nếu những nhà lãnh đạo chịu nhường bước hoặc tự hoà
giải trước sự thôi thúc chung của người Đại Hàn về việc
thống nhất. Lấy Phật giáo làm kim chỉ nam, một chính sách
hoà bình liên hợp của hai phiá dựa trên giáo lý Phật giáo
tạo được một nền tảng vững chắc theo điều kiện có sự
tham gia của đại chúng.

Nhưng Phật giáo tại Đại Hàn suy yếu, cũng có thể là vì quá
tham nhũng và chống lại sự chinh phục của Thần đạo Nhật.
Đó có thể là lý do tại sao giới lãnh đạo đáp ứng lại
tình hình bằng cách bám chặt theo lối suy nghĩ cứng rắn của
phương Tây. Tư duy của phương Tây thường có khuynh hướng ít
nhiều dựa trên cơ sở cá nhân, tự khằng định mình theo
niềm tin của người tín hữu Thiên Chúa giáo, theo thuyết Tự
Do hoặc theo thuyết giai cấp của Mác Xít.

<h3>11. Đấng Sáng Thế và Hoà Bình</h3>

Theo Phật giáo không có sự phân biệt giữa Đấng Sáng Thế và
người được thụ tạo - một điểm chính trong Phật giáo là
sự thống nhất giữa cá thể trong tất cả (và không chỉ có
hình ảnh một con người đơn nhất của thế giới). Từ quan
điểm lý thuyết về hoà bình, điều này có nghĩa là chúng ta
phải dựa vào chính chúng ta mà thôi. Phật tử không hy vọng
đạt được sự an hoà bằng cách đổi lại phải vâng lời
Đấng Tối Cao, xem đây như là một phần ân huệ do Ngài ban
phát. Khi nỗ lực cho lý tưởng, Phật tử cũng không bị ngăn
trở giống như: 'Nếu Đấng Sáng thế muốn có bình an, Ngài
sẽ ban cho sự bình an'. Hoà bình phải là những hành động
của chính chúng ta, như là một phần trong tiến trình sáng tạo
thế gian được tao ra do các sinh vật hữu tình trong quá khứ,
hiện tại và tương lai. Hoà bình không phải là quà tặng, mà
là kết quả khả dĩ của một hành động tập thể có ý thức
sâu xa.

<h3>12. Mối Quan Hệ Gắn Bó</h3>

Trong Phật giáo, ít có sự phân biệt giữa chủ thể và khách
thể. Không phải chỉ có chúng ta quan sát thế giới mà còn có
thế giới quan sát chúng ta. Chúng ta nằm trong thế giới mà còn
thuộc về một thành phần của thế giới. Nói một cách cụ
thể, điều này có nghĩa là có một quan hệ biện chứng đang
xãy ra khi chúng ta ảnh hưởng thế giới và thế giới ảnh
hưởng chúng ta. Hoà bình không phải là một cái gì đó mà
chúng ta tạo ra bằng cách định hình cho thế giới, hoà bình
cũng là một cái gì đó mà thế giới định hình trong chúng ta
trong tiến trình. Nhiệm vụ của chúng ta là sử dụng biện
chứng này một cách tích cực nhất. Và điều này không thực
hiện bằng cách như phương Tây đề ra các câu hỏi thí dụ
như: "Chúng ta bắt đầu từ đâu để thay đổi thế giới
hoặc là để thay đổi chính chúng ta?" Phật tử không làm như
vậy, nhưng bằng cách cổ vũ cho tất cả mọi tiến trình thay
đổi trong cả bốn phạm vi thiên nhiên, con người xã hội và
thế giới cùng chuyển động.

<h3>13. Vô Thường</h3>
Theo tư duy Phật giáo, có tính vô thường trong vạn vật. Thế
giới và vạn vật tăng và giảm mức độ, không luôn ở một
dạng cứng ngắc của một cấu trúc tổng thể - nhưng đúng
hơn là giống như một tiến trình dựa trên dị biệt trong mối
tương tác để cộng sinh. Khi cố làm cô động lại thế giới
trong một hình thái độc nhất và vĩnh cửu, nỗ lực này vô
nghĩa. Dù theo bất cứ một kế hoạch nào để kiến tạo hoà
bình, kế hoạch này phải là một tiến trình, không thể là
một kế hoạch thuộc về cơ cấu. Theo quan điểm về lý
thuyết hoà bình, kế hoạch theo tiến trình thực tế hơn là
theo cấu trúc, vì đề ra chuyện lâu dài mà hoà bình có thể
hình dung ra được, không chỉ cứ xét đến các đặc điểm
của bốn phạm vi trong tổng quát và còn trong sự tương tác
trong từng phạm vi chuyên biệt.

<h3>14. Tương Tác</h3>

Theo tư tưởng của Phật giáo, sự tương tác luôn đến từ hai
chiều. Ý thức của tôi đang hướng về thế giới và thế
giới đang định hình ý thức của tôi. Muốn thành đạt bất
cứ điều gì, chúng ta không bao giờ cố tiến hành trên một
con đường thẳng, đẩy mạnh đòn bẩy, mà quên rằng mọi tác
động luôn có phản ứng. Chúng ta cũng không nên cố dùng một
đòn bẩy để làm chuyển động phần còn lại của toàn hệ
thống, mà đúng hơn là nên làm chuyển động từ mọi các góc
cạnh trong cùng một lúc. Thay vì chỉ đẩy mạnh một chiều,
tốt hơn cần phối hợp nhiều nỗ lực nhỏ, nhưng theo nhiều
chiều hướng trong cùng một lúc, khởi đầu từ mọi góc cạnh
của thực tại từ vật chất đến tinh thần, nhưng luôn nhớ
rằng hệ thống sẽ phản ứng trong một mạng lưới phức
tạp. Hoà bình không phải chỉ là bất khả phân; hoà bình,
phát triển, và quân bình kinh tế là bất khả phân. Toàn bộ
lý luận của hệ thống phải thay đổi theo theo tiến trình tác
động và phản ứng để kiến tạo hòa bình có kết quả hơn.

<h3>15. Mâu Thuẫn</h3>

Theo Phật giáo, thế giới có nhiều tương phản, phương cách
tiếp cận có nhiều nghịch lý. Vì thế mà suy nghĩ của người
Trung Quốc hiện nay có đặt ra 'một quốc gia, hai hệ thống', -
có nghiã là vừa có Xã Hội chủ nghĩa và Tư Bản chủ nghiã
trong cùng một quốc gia. Cộng Hoà Nhận Dân Trung Quốc về cơ
bản là một quốc gia theo Phật giáo và có nhiều tôn giáo,
nhưng chắc chắn là không phải là quốc gia theo Mác xít, với
một hệ thống giáo điều thẳng tấp một chiều như phương
Tây.

Theo quan điểm lý thuyết về hoà bình, không nên chống lại
tất cả mọi tương phản, cố tạo thành một hệ thống thuần
túy, việc này sẽ gây ảnh hưởng. Đa dạng với mọi loại
tương phản là chuyện có thể, ngay cả còn là điều mơ ước.
Điểm này cực kỳ quan trọng, vì chúng ta sẽ luôn luôn sống
trong một hỗn hợp của các hệ thống với những cách lý
luận khác biệt. Hướng về một thực tại không có mâu thuẫn
sẽ là vô nghĩa theo triết lý Phật giáo, vì Phật giáo thấy
sức tác động của nguyên nhân đến từ muôn hướng.

<h3>16. Pháp Luân</h3>

Tư tưởng của Phật giáo kết hợp như một pháp luân. Nó
không theo mô hình kim tự tháp và suy diễn từ những nguyên tác
đầu tiên. Từ những tư tưởng dị biệt như tôi đã đề
cập ở trên, thì không có một nguyên tắc nào được coi như
là nền tảng hơn các nguyên tắc khác. Đứng hơn, những nguyên
tắc này được kết cấu xoay quanh như một bánh xe, mà chúng ta
cần tìm hiểu là mọi đường lối có thể tạo được những
điểm nối kết chung (có điều nguy hiểm là dễ đưa chúng ta
tới tình trạng song phương, chỉ luôn nhìn hai điểm trong cùng
lúc, mà đúng ra có thể là ba, hay bốn hoặc nhiều hơn). Không
có điểm nào là nền tảng hay chung quyết tạo niềm tin, mà
đúng ra toàn bộ hệ thống mở ra những điểm mới, có nghĩa
là ta cần những phương cách tiếp cận mới. Khi bánh xe pháp
luân Phật giáo xoay chuyển qua thời gian, những điểm nối kết
mới sẽ mở ra những mạng lưới mới chặt chẽ hơn về tư
tưởng và hành động.

Chung cục, tổng thể cuả pháp luân chính là vấn đề, một
phương cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc nhất thể và năng
động - đối nghịch với phương cách suy diễn theo mô hình kim
tự tháp nhằm kết hợp với những nhận thức rời rạc hay
những phát minh.
<h3>17. Lạc Quan</h3>

Tư tưởng của Phật giáo cực kỳ lạc quan. Có Phật tính trong
tất cả chúng ta, nếu chúng ta thực hiện Phật tính và tự
thân nỗ lực. Không có ai ở bên ngoài khác hơn. Nhưng có sự
dị biệt giữa Đại Thừa khi nhấn mạnh diệt khổ và Tiểu
Thừa khi nhấn mạnh hạnh phúc. Vì thế, có lập luận cho rằng
Tiểu Thừa hướng nhiều hơn về hoà bình tiêu cực, trong khi
Đại Thừa chú trọng hơn về hoà bình tích cực. Vì cả hai là
những thành tố của khái niệm hoà bình năng động, sự dâng
hiến của Phật giáo cho thế gian phải là sự kết hợp giữa
Đại Thừa và Tiểu Thừa, xem cả hai phương cách tu tập như
là những khuôn mẫu cho sự dị biệt, và hãy để cả hai
tương tác nhau theo cách cộng sinh nhau. Đúng đây là một thách
thức cho Phật giáo.

<h3>18. Tuần Hoàn. </h3>

Quan điểm Phật giáo về tiến trình có tính tuần hoàn hơn là
theo một tuyến tính. Không có một bảo đảm chính xác nào
rằng mọi sự thể sẽ tốt đẹp hay sẽ diễn biến tồi tệ.
Có sự thăng trầm trong bốn phạm vi, sự tình có khi thăng, có
khi giảm, và ngược lại, (hoàn toàn đối nghịch với Thiên
đường và Điạ ngục theo thần học Thiên Chúa giáo, khi xem
cả hai là điểm chung cục trong sự tiến hoá của con người,
một điểm mà người ta không còn chổ thoái lui). Từ trên quan
điểm lý thuyết về hoà bình, thuyết tuần hoàn có thể giúp
cho Phật tử ngăn ngừa mọi lạc quan thái quá khi sự thể tốt
đẹp hay bi quan cùng cực khi khi tình huống xấu đi, mở ra một
vị thế trung dung trong quan điểm này. Mặt khác, đặc biệt
trong Đại Thừa, có một sự lạc quan chừng mực thúc đẩy cho
quan điểm tuần hoàn có yếu tố thăng tiến theo tuyến tính,
như một cách chuyển động theo hình vòng xoắn.

<h3>19. Nỗ Lực Liên Tục</h3>

Điểm chủ yếu trong triết học Phật giáo là nỗ lực tiếp
nối, tự cải thiện, và tinh thần cầu tiến không ngừng, đó
là những điểm tất yếu mà còn khả thi, và - trong trường
kỳ -, đầy đủ. Người ta không kỳ vọng từ một hành vi
thuộc về đức tin, hay do sự thuần phục hoặc ân sủng do nơi
cao cả hoặc các hành vi này là hữu ích theo ý nghĩa nào đó
(nhưng có một ngoại lệ trong Phật giáo A Di Đà). Nhiều nỗ
lực siêng năng là cần thiết, - một lối suy nghĩ hoàn toàn
phù hợp với lý thuyết hoà bình. Hơn thế, hoà bình không
phải là tình trạng tối hậu ở cuối con đường, ổn định
và tự tin khi đạt được, nhưng chỉ là một nỗ lục còn
tiếp nối, nếu có thể.

<h3>20. Niết Bàn</h3>

Và cuối cùng, mục tiêu tối hậu của Phật giáo cho con người
là Niết Bàn, một nơi được coi như một khuôn mẫu để
chuyển hướng trong mọi chuyển động. Khái niệm này không
thể diễn dịch như tình trạng hủy diệt hay dập tắt hay các
hình ảnh ẩn dụ tương tự khác trong các lối trình bày của
phương Tây. Đúng hơn, nên coi Niết Bàn là một loại thực
hiện lý thuyết kết hợp nhất thể trong tất cả, một loại
tự thực hiện khi đạt được tinh thần Vô Ngã với tâm
trạng hạnh phúc hằng cữu. Điều này hoàn toàn phù hợp với
ý tuởng về hoà bình như tôi đã trình bày ở trên trong phần
giới thiệu khái quát về lý thuyết hoà bình. Niết Bàn là
một chuyển hướng trong chuyển động, hoà bình cũng là một
chuyển hướng trong chuyển động.

Do đó, trong một ý nghĩ nào đó, hoà bình là thiên đàng và
thiên đàng là hoà bình. Biên giới được loại bỏ, khi sự
kết hợp nhất thể đã đạt được. Và 19 điểm vừa nêu
trên được cụ thể hoá ở điểm 20.

<h2>Sáu Khuyết Điểm Của Phật Giáo Làm Ngăn Trở Hoà Bình</h2>

Nhưng Phật giáo cũng có những khuyết điểm mà ta giải thích
được tại sao không có đóng vai trò quan trọng như là một
yếu tố kiến tạo hoà bình, một điểm chắc chắn Phật giáo
có tiềm năng thực hiện. Sáu điểm sau đây sẽ minh chứng cho
vấn đề. Những ai sống trong các nước theo Phật giáo có thể
thấy được nhiều hơn.
<h3>1. Khoan Dung Với Quân Phiệt</h3>

Khoan dung là điều tốt, nhưng khoan dung Phật giáo đưa tới
chổ quá mức độ, thí dụ như trong những chế độ quân
phiệt dùng cực kỳ bạo lực - như trong trường hợp Nhật
Bản nơi mà Phật tử cũng bám chặt dễ dàng Thần Đạo và
kết hợp với Khổng giáo trong một cách cực kỳ nguy hiểm và
trợ lực cho giới quân phiệt của Nhật (lối tự tử kamikaze
của cảm tử quân là một thí dụ rõ nhất). Một truờng hợp
khác mà chúng ta nhớ tới là sự hỗ trợ của Phật tử cho
chế độ quân nhân tại Thái.

<h3>2. Bất Động Trước Bất Công</h3>

Khoan dung là điều tốt, nhưng Phật giáo lại khoan dung quá mức
cho những hệ thống sử dụng bạo lực thành một cấu trúc,
thí dụ như trong các chính sách kinh tế, làm cho thuyết Trung
Đạo không thể thực hiện được. Kết quả là có một mặt
có tầng lớp tận cùng nghèo đói, mặt khác có tầng lớp cực
kỳ giàu sang mà Phật tử không tranh đấu chống lại hệ
thống, điểm tất yếu, vì đó có thể là nỗ lực để thực
hành thuyết Trung Đạo. Một lần nữa cho thấy Nhật Bản là
một tấm gương cho cho chính sách kinh tế này.

Nếu xét về phương diện quốc tế, Nhật tự tích luỹ giàu
sang trong khi các nước quanh Nhật chiụ cảnh nghèo, kể cả
tận cùng khổ cực. Nhưng cùng lúc cũng nên đề cập thêm
rằng sự phân phối lợi tức tại Nhật lại là một trong
những nước công bình nhất trên thế giới. Chỉ số về công
bình biến đổi rất ít qua thời gian - điều này có nghịã là
thăng trầm trong lợi tức đối với tầng lớp lãnh đạo và
dân chúng đến từ những cách sống nhiều hơn. Trong một
chừng mực nào đó, có thể quy cho việc cả hai yếu tố này
ảnh hưởng về tư tưởng và tu tập của Phật giáo trong
nước.

Điểm này có thể cho thấy rằng, nếu theo ý nghĩa này, Phật
giáo là một lý thuyết xã hội nhiều hơn là thế giới, trong
khi các lý thuyết quan trọng đề ra những khuôn mẫu thái độ
trong thiên nhiên và cho con người, thì Phật giáo có tác động
ít hơn, vì cho phạm vi cá nhân hơn là vĩ mô. Như tôi đã đề
cập ở trên, Phật giáo có nhiều ưu điểm khi đề ra có
nhiều phạm vi liên hệ nhau.

Điểm này dễ đưa đến sự mù quáng gây ra bao dung quá mức
trước những hành vi đầy bạo lực trong các phạm vi khác.
Một sĩ quan cùng chia sẽ hiểm nguy và đối xử tốt đẹp với
binh sĩ trong khi lại nỗ lực tàn bạo để dẹp tan quân thù,
giám đốc doanh nghiệp cùng chia lương, quyền lực và ưu quyền
với nhân viên nhưng lại bóc lột những doanh nghiệp đối tác
qua hợp đồng và thị trường hải ngoại không thương xót,
đó là thí dụ.

<h3>3. Cách Biệt Xã Hội</h3>

Ý tưởng cho là làm việc trong những đơn vị nhỏ gần chùa,
bên giếng nước, trong thôn làng dưới sự hướng dẫn của sư
tăng là điều tốt đẹp. Trong Tam Bảo thì Phật và Pháp luôn
luôn có trong lòng đại chúng, nhưng Tăng bị đặt ra bên lề
xã hội. Sư tăng, có điều kiện sinh hoạt hoành tráng nhưng
còn là các đơn vị nhỏ, tách biệt với xã hội, điều này
có nghiã là cả hai đặc điểm vừa huy hoàng vừa cách biệt
chính là tạo cho sư tăng thực hành từ bi và bất bạo động
với chính các sư tăng, (không đến giữa lòng xã hội).

Phật giáo trở thành phạm vi riêng biệt, dù không theo ý
nghịã cá nhân hoá, nhưng theo ý nghĩa chỉ thuộc về sinh hoạt
chung cho một nhóm nhỏ, một cách khởi động hợp tác chung
để tu tập hướng về Phật tính. Ảnh hưởng của một xã
hội vĩ mô bị xao lãng, có tác dụng tiêu cực khi đem cá nhân
xa rời con đường tiến tới Phật tính thoát khỏi sinh hoạt
tuần hoàn trong xã hội.

<h3>4. Thoả Hiệp Để Tu Tập </h3>

Phật giáo dễ dàng chấp nhận là giới lãnh đạo đất nước
áp dụng đường lối đối nghịch với Phật giáo mà chỉ cần
cho Phật giaó có đủ tự do hành đạo. Nói một cách khác,
Phật tử giống như những người khác, quá dễ chấp nhận sự
thoả thuận với bạo quyền và dĩ nhìen không tránh khỏi bị
cám dỗ bởi những phúc lợi phụ thuộc, những thu nhập tạo
nên ý thức là cần phải có thỏa thuận. Khi Phật giáo trở
thành quốc giáo, nguy hiểm trở thành hiển nhiên; Thái là
trường hợp này và Sri Lanka có thể cũng là một trường hợp
khác.

<h3>5. Thịnh Suy</h3>

Thuyết thịnh suy được xem như đối nghịch với một tiến
trình theo tuyến tính, điểm này phù hợp với thuyết định
mệnh, chấp nhận bị đánh bại dễ dàng, ngay cả khi trong thâm
tâm không có sự đầu hàng. Theo thuyết thịnh suy, suy tàn là
chuyện không thể tránh. Tuy nhiên, tin vào thuyết thịnh suy cũng
không phải là quá nguy hiểm vì cũng tin là sẽ có sự hưng
thịnh đến đúng lúc. Ý nghĩ làm cho thịnh suy này cũng sẽ
tới bằng một cách nào đó, nên không cần có nỗ lực đích
thực. Tóm lại, những thành kiến của phương Tây về thuyết
đinh mệnh của phương Đông là sự thật, và dĩ nhiên, cũng có
thể là ngược lại.

<h3>6. Nghi Lễ Quá Mức</h3>

Nếu chấp nhận năm điểm trên, thì Phật giáo có thể dễ
trở thành một tôn giáo nhiều nghi thức, huy hoàng, được thêu
dệt lộng lẫy giống như vô số các đền chùa taị Đông Nam
Á và Đông Á. Nhưng đó có thể cũng là tất cả cho vấn đề.
Mục tiêu là hướng về Phật như là một hình tượng được
khâm phục quá mức để chấp tay nguyện cầu, nghiêng mình
đảnh lễ trước hình ảnh của Đấng Như Lai.

Sự tôn trọng về Pháp, những lời dạy của Ngài, chỉ là
những điều được học thuộc lòng, ngay cả bằng những ngôn
ngữ xưa cũ, (thí dụ như tiếng Pali đối người Tích Lan,
tiếng Sankrit đối với người Ấn hoặc cổ ngữ Trung Hoa và
nhiều ngôn ngữ khác). Và Tăng có thể được ngưỡng mộ,
nhưng họ quá cách biệt và không thể bắt chước. Nói một
cách khác, Phật giáo trở thành một đối tượng khách quan hơn
là một caí gì đó chủ quan để đi vào cuộc đời của con
người như là một nơi tích lũy vô biên về nhận thức của
kiếp nhân sinh, một loại triết tâm lý không thể so sánh.
Phương cách thực hiện này chỉ làm cho Phật giaó trì trệ -
hay nói một cách khác, Phật giáo lả một tôn giáo đang suy
tàn.

<h2>Kết Luận</h2>

Nhìn xuyên qua 20 điểm tích cực và 6 điểm tiêu cực vừa
trình bày, bảng tổng kết sau đây cho thấy một điều hiển
nhiên: Phật giáo có một tiềm năng cực kỳ to lớn như là
một nguồn lực đóng góp cho một chính sách hiếu hoà năng
động; trong một tầm mức qui mô hơn, có thể nói Phật giáo
là một tiềm năng chưa được khai thác. Nhưng Phật giáo phải
hồi sinh thoát những ảnh hưởng thâm lạm của một thế giới
sử dụng bạo lực trực tiếp và có tính cấu trúc.

Hiển nhiên, các tiềm năng về hoà bình đều có trong các tôn
giáo khác. Nhưng Phật giáo khác với những tôn giáo khác (thí
dụ như Do Thái, Thiên Chúa và Hồi giáo). Dù không thể nào tin
được, nhưng Phật giáo còn được dùng để biện minh cho
những hành vi trực tiếp sử dụng bạo lực và có tổ chức,
chiến tranh và bóc lột.

Nếu khi Thiên Chúa giáo thay các mặt xấu đi, họ gây chiến.
Nếu Phật giáo muốn thay các mặt xấu đi, họ thoái lui và che
đậy bằng nghi thức. Nhiệm vụ của chúng ta là làm chuyễn
biến cả hai chiều hướng tốt đẹp của cả hai tôn giaó này
và những chiều hướng tốt đẹp này có thể thực sự là phù
hợp đem lại những hậu qủa cho hành động.

Không những nhớ đến cách thực hành giáo lý của Đức Phật,
mà còn nhớ những lời giáo huấn về chính trị và xã hội cho
việc hình thành mối tương tác trong xã hội trong thời của
Ngài, cả hai là điều bổ ích cho chúng ta. Điểm mà chúng ta
còn thiếu sót có thể là: khi ý thức nhiều hơn những gì
Phật giaó mang lại ý nghĩa trong tu tập, thì chúng ta sẽ có
nhiều thực tập hơn để dẫn dắt chúng ta áp dụng những
nhận thức này.

Dĩ nhiên, vai trò lãnh đạo của Phật tử có nhiều mẫu mực,
gây cảm hứng và quan trọng như cố Tổng Thư Ký LHQ U Thant,
người Miến Điện, Soka Gakkai nhà lãnh đạo thế giới, Ikeda
Daikasu, người Nhật, Ariayaratne, nhà lãnh đạo thế giới,
Sarvodaya Shramdadama, người Sri Lanka. Thách thức chắc chắn là
ở điểm này.

Khắp nơi trên thế giới đã có những nỗ lực nhằm kiến
tạo một cấu trúc hoà bình - nhưng những nỗ lực này thường
thiếu đi phần tinh thần đạo đức. Trong việc tìm kiếm một
cấu trúc cụ thể, có lẽ Phật giáo chính là tinh thần đạo
đức này. Có thể cả hai gặp gỡ nhau và đây là một thí dụ
cụ thể về sự hạnh ngộ Đông và Tây mà chúng ta hằng mong
đợi.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140106/johan-galtung-phat-giao-va-hoa-binh-the-gioi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét