[video:http://youtu.be/W8fcxB0Yb2A]
http://youtu.be/W8fcxB0Yb2A
Boston, nơi tôi ở, trời đã cuối thu. Những cơn mưa đêm tuốt
đi những chiếc lá cuối cùng. Lá rơi đầy trên những con
đường trong xóm, trên mặt hồ và hàng cây trước mặt nhà
chỉ còn những cành trơ trụi. Sáng thức dậy là nghe tiếng
chổi vọng về từ phía sân thiền viện bên kia đường. Những
cánh chim Cardinal màu đỏ thắm, Blue jay màu xanh mới hôm nào
nhộn nhịp đã không về nữa. Bầy ngỗng không còn kêu trên
mặt hồ lạnh giá. Khu vườn chỉ còn là một thảm lá dày. Cô
con gái út lặng lẽ đem cất bình đựng thức ăn dành cho chim
vào trong kho đựng đồ đạc góc vườn và bảo chúng đã di cư
về miền nam, hy vọng sang mùa nắng ấm chúng sẽ nhớ đường
về.
Hôm trước, ngồi nghe ca sĩ Ánh Tuyết hát <a
href="http://www.youtube.com/watch?v=67maIyxaSJg">Lá Đổ Muôn Chiều</a>
của Đoàn Chuẩn lòng chợt nghĩ về một nghệ sĩ khác có lần
đã hát bài hát đó mà tôi nghe qua youtube. Bỗng dưng muốn
viết về anh.
Tên anh là Nguyễn Văn Lộc, chủ quán Cà phê Lộc Vàng ở ven
hồ Tây, Hà Nội. Tôi chưa gặp, chưa quen anh nhưng có thể tôi
nghĩ về anh nhiều hơn những nghệ sĩ tôi đã gặp và quen. Hai
tuần trước lại một lần nữa tâm sự với một người bạn
trên Facebook về anh. Mới biết, tâm hồn con người là một
thế giới tinh thần kỳ diệu, có điểm hẹn hò và có lối đi
riêng, tưởng như vô hình và xa xôi nhưng lại vô cùng cụ thể
và gần gũi.
Con người và con vật giống nhau ở chỗ sống theo bản năng
nhưng khác nhau ở chỗ con người có tâm hồn mà con vật thì
không. Trong một góc kín của tâm hồn có những người tôi
thương mến dù biết có thể không bao giờ gặp nhau, vẫn nghe
ấm lòng khi nghĩ đến dù có thể sẽ chẳng bao giờ được
cầm lấy bàn tay nhau. Bởi vì, trong không gian vô cùng của ý
thức có một sợi nhân duyên nối lại những tâm hồn mang
nặng tình thương, tình yêu, tình đồng bào và tình nhân loại.
<img
src="https://fbcdn-sphotos-g-a.akamaihd.net/hphotos-ak-frc3/1424560_687930084564314_2039163571_n.jpg"
width="600" />
Nếu anh Nguyễn Văn Lộc sống ở các nước Đông Âu hay một
trong 15 nước thuộc Liên Xô cũ, có thể nhiều tác phẩm đã
viết về anh và nhiều phim ảnh được dựng quanh cuộc đời
gian nan, cay nghiệt, đầy nước mắt nhưng cũng đầy huyền
thoại của anh, nhưng tại Việt Nam, anh chỉ là một nghệ sĩ
và chắc anh cũng chỉ mơ ước làm một nghệ sĩ cho đến cuối
đời.
Những lời ca của anh chảy ra từ giòng suối tự do bất
tuyệt. Giữa tiếng đạn réo bom rơi của hận thù tiếng nước
vẫn reo róc rách. Không một Joseph Goebbels hay Heinrich Himmler của
Đức Quốc Xã, không một Nikolai Ivanovich Yezhov hay Lavrentiy Beria
của Liên Xô, không một Lê Đức Thọ hay Trần Quốc Hoàn của
Việt Nam có thể làm suối tự do khô cạn trong lòng người khao
khát tự do.
Tại Việt Nam dòng suối tự do trong lòng các Phan Thắng Toán,
Nguyễn Văn Đắc, Nguyễn Văn Lộc đã chảy dù nhiều khi chảy
rất cô đơn. Các anh cô đơn bởi vì tuy giống nhau về khát
vọng so với phong trào Nhân văn giai phẩm, các anh lẻ loi và
đơn độc hơn nhiều. Những Phan Khôi, Trần Dần, Hữu Loan v.v.
có trong tay võ khí là cây bút, có trong tay phương tiện là tạp
chí Nhân Văn, có ảnh hưởng ít nhiều trong quần chúng, các anh
không có gì cả ngoài tiếng hát, lời ca.
Những người tôi quen đều biết đến anh và hẹn nhau nếu có
dịp về Hà Nội sẽ đến quán Lộc Vàng nghe anh hát. Tôi cũng
vậy, mơ được ngồi trong góc của quán Lộc Vàng để nghe anh
hát như những ngày trước năm 1975 lang thang ở Sài Gòn với Cà
phê Hân trên đường Đinh Tiên Hoàng, Cà phê Da Vàng gần Cổng
xe lửa số 6 và vô số quán không tên dọc Thư viện Quốc Gia,
trường Luật hay hẻm 220 trên đường Trương Minh Giảng. Sài
Gòn ngày đó là Sài Gòn chiến tranh, Sài Gòn biểu tình, Sài
Gòn <em>"đại bác ru đêm"</em> nhưng vẫn có một Sài Gòn
với trái tim rung động theo từng nốt nhạc trong những tình ca
của Đoàn Chuẩn, Văn Cao.
Nghe anh Lộc Vàng hát, tôi chợt nghĩ đến tiếng dương cầm
của nhạc sĩ Do Thái Władysław Szpilman trổi lên từ căn gát
nơi ông đang trốn ở Bá Linh trong những ngày cuối của thế
chiến thứ hai. Phim The Pianist được dựng từ câu chuyện thật
của đời ông. Nhạc sĩ Do Thái Władysław Szpilman may mắn hơn
nghệ sĩ Việt Nam Nguyễn Văn Lộc. Viên sĩ quan Đức đứng nghe
Władysław Szpilman chơi đàn có một trái tim nhân bản và lòng
yêu âm nhạc nên Władysław Szpilman được cung cấp bánh mì và
cho phép sống yên ở đó, nhưng những tên công an rình nghe
nghệ sĩ Nguyễn Văn Lộc hát là những kẻ không có trái tim mà
chỉ có cái đầu u mê cuồng tín nên anh phải chịu bản án
mười năm lao động khổ sai trong các trại tù.
Cay nghiệt của đời anh bắt đầu từ thập niên 1960 khi anh và
hai người bạn đam mê âm nhạc thường gặp nhau trong những
tối và đàn hát nhau nghe những bản tình ca, nhiều nhất là
của Đoàn Chuẩn. Mùa thu Hà Nội đi vào tâm hồn anh qua những
ca từ lãng mạn <em>"Anh mong chờ mùa thu, dìu thế nhân dần
vào chốn thiên thai, và cánh chim ngập ngừng không muốn bay,
mùa thu quyến rũ anh rồi."</em> Anh không vào chốn thiên thai
mà vào Hỏa Lò. Anh bị bắt ngày 27 tháng 3 năm 1968, mới 23
tuổi, và ba năm sau bị kết án 10 năm tù cộng 4 năm mất
quyền công dân chỉ vì cái tội hát tình ca. Quãng thời gian
đẹp nhất của một đời người, từ đó, bị đóng khung trong
bốn vách tường rêu.
Trong những bài phỏng vấn anh mà tôi được đọc, không ai
hỏi anh hay vì không muốn gây khó cho anh, có bao giờ anh đã
hát tình ca trong tám năm sống trong tù. Chắc là có dù có thể
không hát lớn. Anh hát khi đứng nhìn những chiếc lá vàng bay
qua cửa sổ nhà tù. Anh hát khi thức dậy nửa đêm nhìn ánh
trăng thu soi bóng trong sân nhà tù vắng lặng. Và anh hát vì
biết ngoài kia có một người con gái đang vượt qua bao nhiêu
khổ đau để chờ đợi anh về. Ngày đó anh chị chưa cưới
nhau nên những bản tình ca, ngoài ước mơ về một mái ấm gia
đình còn mang nhiều mơ mộng phiêu du của hai trái tim son trẻ.
Làm sao ngăn được nhất là những đêm trăng anh nghe lòng cất
lên <em>"Chờ trăng lên ánh trăng e lệ mãi, vương vấn mong lá
rơi bên thềm vắng, gió thu như cùng chia mối âu sầu của bóng
cây tàn lá, trong đêm hờ hững, rồi trăng lên ánh trăng mơ
huyền quá, âu yếm hoa ý tơ dịu dàng say"</em> trong nhạc
phẩm Ánh Trăng Mùa Thu, hay <em>"Gửi gió cho mây ngàn bay, gửi
bướm muôn màu về hoa, gửi thêm ánh trăng màu xanh"</em> trong
bài Gởi Gió Cho Mây Ngàn Bay.
Chị đã chờ đợi và chờ đợi cho đến ngày anh ra khỏi nhà
tù. Họ cưới nhau và sống với với nhau những ngày vô vàn
khổ cực nhưng cũng vô vàn hạnh phúc. Hạnh phúc của anh chị
không phải trong một lâu đài mà chỉ là căn phòng vỏn vẹn 9
mét vuông, nhưng không gian nhỏ hẹp đó đã chứa được cả
quả địa cầu của tình yêu chung thủy. Chị qua đời về thể
xác nhưng vẫn mãi mãi sống trong anh một tình yêu tròn như
trăng mười sáu.
Các anh vào tù là phải. Những năm 1960 không phải là thời
của tình ca mà là thời <em>"chủ nghĩa anh hùng cách
mạng"</em> được tiêm vào trong máu, phà trong từng hơi thở
của mỗi con người miền Bắc.
Đó là thời thịnh hành của những nhạc phẩm cỡ <em>"Xin
khắc tên anh trên vách chiến hào"</em> của Huy Du để ca tụng
một <em>"liệt sĩ Nguyễn Văn Bé" "như bông hoa rực sáng
bầu trời, hương toả ngát nơi nơi, tiếng mìn anh vang
dội..."</em> dù lúc đó anh Nguyễn Văn Bé đang sống bình an
ở Sài Gòn và cũng chưa hề ôm mìn, ôm bom gì cả mà chỉ
trốn dưới con lạch nhỏ cho đến khi bị khám phá và kéo
đầu lên.
Đó là thời của những bài thơ như <em>"Hãy nhớ lấy lời
tôi"</em> của Tố Hữu vinh danh một <em>"anh hùng Nguyễn Văn
Trỗi"</em>, người thợ điện không phân biệt được cực âm
dương nhưng lại có phép thần thông để <em>"giật phắt
mảnh băng đen"</em> dù cảnh sát tư pháp VNCH đã <em>"trói
Anh vào cọc, mấy vòng dây"</em>. Đất nước có một thời
đã sống trong niềm tin ngoại cảm như thế và vẫn còn tiếp
tục sống cho đến ngày nay.
Giống như tại Liên Xô chỉ trong vòng hai năm, 1917 đến 1918,
Agitprop, bộ tuyên truyền của Liên Xô, đã phát hành 3600 mẫu
bích chương tuyên truyền, tại khắp nơi ở miền Bắc Việt
Nam, từ mọi cửa hàng, đường phố, cơ quan, đâu cũng dán
truyền đơn, bích chương, biểu ngữ tuyên truyền đập vào
mắt, xoáy vào nhận thức người đọc bằng một khẩu hiệu,
một mệnh lệnh, một giáo điều tuyệt đối. Chính sách tẩy
não đạt đến mức triệt để và tận cùng.
Giữa một xã hội mà sự lừa dối chế ngự mọi lãnh vực
của đời sống, các anh như dòng sông chảy ngược trong đau
nhức để tìm lại cội nguồn nhân bản và sự thật từ trái
tim mình.
Cách đây hai tuần, trên đường từ phi trường đến khách
sạn ở Las Vegas, tôi bắt chuyện với anh tài xế taxi gốc Nam
Mỹ vào tuổi trung niên. Anh đang tính đưa gia đình về miền
tây nam vì sau 23 năm làm tài xế taxi ở Las Vegas anh vẫn chưa
dành dụm được gì. Anh than thở, 23 năm ở khu sòng bài này
thật là lãng phí. Tôi khuyên anh nên đi vì ở lại thành phố
cờ bạc này đến cuối đời anh cũng chỉ là tài xế taxi
nhưng đừng hối tiếc 23 năm lãng phí. Không ai biết được con
đường ngày mai sẽ có ít hay nhiều gai góc nhưng nếu không
gặp bất trắc anh sẽ có ít nhất 23 năm nữa để sống, và
nếu có quyết tâm anh sẽ xây dựng cho anh chị và gia đình
một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Thời gian 23 năm tới mới
là quan trọng chứ không phải 23 năm đã qua. Khi bước xuông xe,
tôi khuyên anh một điều, thời gian không bao giờ mất khi chúng
ta còn sống.
Thật vậy. Thời gian trôi trên sông đời bất tận và chúng ta
cùng trôi với thời gian. Không mất gì cả. Bầy chim bay về
hướng nam tìm nơi ấm, người tài xế taxi dời về nam để
tiếp nối cuộc đời và anh Lộc Vàng mỗi đêm vẫn hát tình
ca.
<strong>Trần Trung Đạo</strong>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20131120/tran-trung-dao-tieng-hat-loc-vang),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét