Phạm Gia Minh - Tản mạn chuyện Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam (2)

<h2>Phần 2: Trung Quốc cải cách</h2>

<b><i>Những đặc thù Trung Hoa</i></b>

Đối với Phương Tây nói riêng và người nước ngoài nói
chung thì Trung Quốc trong lịch sử xa xưa không đơn thuần là
một quốc gia mà đó là cả một thế giới riêng biệt, khó
nắm bắt, khó tiên liệu, huyền bí và thực dụng… Thế giới
đó ngày nay tuy đã cởi mở hơn nhưng có lẽ chưa "phẳng"
như thế giới Phương Tây bên ngoài nên hẳn vẫn còn ẩn chứa
nhiều điều bất ngờ.

Cũng bởi sự khác biệt với bên ngoài nên chính người TQ
luôn nhấn mạnh tới những đặc thù mang "màu sắc Trung Hoa"
của mình. Tuy vậy, nếu đánh giá theo "tháp nhu cầu" của
Maslow (1) thì chắc họ cũng có những khát vọng rất con người
như chúng ta và không phải ngẫu nhiên, trong những năm gần
đây có tới 46% người giàu TQ mong muốn chuyển sang các quốc
gia phát triển Phương Tây sinh sống (2).

Nét nổi bật nhất là người TQ có lối nghĩ và hành động
nói chung là rất khác Phương Tây và sẽ là không quá lời nếu
như đặt tên cho sự khác biệt đó là "phong cách Trung Hoa".

<center> <img src="http://viet-studies.info/kinhte/PGMinh_TrungQuoc.jpg"
width="427"></center>
<center> <b> Hình 1: </b>Biểu đồ mô tả "Phong cách Trung Hoa"
</center>

Trung Hoa có Kinh Dịch, thuyết Âm-Dương, Ngũ hành (một số
luận cứ cho rằng Hán tộc đã tiếp thu thuyết này từ Bách
Việt trong quá trình thôn tính và đồng hóa Phương Nam) và binh
pháp Tôn Tử là những công cụ tư duy độc đáo mang tính thực
tiễn cao. Trải qua hàng ngàn năm được mài giũa, những công
cụ đó đã góp phần hình thành nên một dạng "tiềm thức
dân tộc" và văn hóa hành xử rất thâm thúy, luôn có tầm
nhìn chiến lược, linh hoạt thích nghi nhưng cũng thực dụng
không thua kém Tây phương.

TQ trong lịch sử hơn 5000 năm luôn là một xã hội thiếu vắng
quyền tự do cá nhân theo cách hiểu của Phương Tây hoặc có
thì rất hạn chế, và do vậy, TQ là hình mẫu kinh điển của
một nhà nước toàn trị, chuyên quyền dẻo dai, nơi mà hệ
thống đạo đức cá nhân Khổng giáo chẳng khác gì những sợi
dây xích mạ vàng lóng lánh nhằm trói chặt mọi thần dân vào
cỗ xe cai trị của các vị Hoàng đế - Thiên tử.

Nhà nước toàn trị đó lại chăm sóc các thần dân của mình
bằng thứ dinh dưỡng tinh thần đặc biệt, đó là tư tưởng
dân tộc Đại Hán - ta là trung tâm thiên hạ.


<b><i>Các ngành dịch vụ giao dịch phục vụ thị trường và
công cuộc chuyển đổi kinh tế</i></b>

Khác hẳn với nước Nga bắt đầu chuyển đổi kinh tế từ
hệ thống kế hoạch hóa tập trung, phi thị trường sang nền
kinh tế thị trường bằng một " cú nổ lớn" (Big Bang) với
chính sách tự do hóa triệt để giá cả và tư nhân hóa hàng
loạt, TQ lại thận trọng từng bước vận dụng cơ chế thị
trường, trước hết ở những vùng nông thôn rộng lớn và sau
đó là ở các khu vực hộ gia đình ở thành phố, trong khi vẫn
giữ nguyên sở hữu nhà nước trong các ngành then chốt. Không
giống như chính quyền mới ở Nga xóa bỏ kiểm soát nhà nước
đối với nền kinh tế ngay từ giai đoạn đầu của quá trình
chuyển đổi kinh tế, chính quyền TQ, vốn là chế độ kế
hoạch hóa tập trung giống Nga tiếp tục lập kế hoạch cho các
hoạt động kinh tế chủ yếu trong những năm đầu quá trình
chuyển đổi. Việc kiểm soát các doanh nghiệp nhà nước vừa
và nhỏ chỉ được từ bỏ vào giữa những năm 90 thế kỷ
trước tức là 15 năm sau khi công cuộc chuyển đổi bắt đầu.
Hiện nay chính quyền TQ vẫn nắm các doanh nghiệp nhà nước
lớn sau hơn 30 năm cải cách (4).

Quá trình chuyển đổi kinh tế của TQ đã ngay lập tức dẫn
đến tốc độ tăng trưởng cao, trong khi quá trình tương tự
ở Nga đã dẫn tới hậu quả suy thoái nghiêm trọng. Trong 10
năm từ 1990 tới 2000, GDP của TQ đã tăng với tốc độ bình
quân 10,3%/năm, trong khi GDP của Nga lại giảm trung bình
4,8%/năm(3).

Khó có thể dùng các lý luận của trường phái kinh tế học
Tân cổ điển để giải thích thỏa đáng quá trình chuyển
đổi kinh tế từng bước thành công của TQ. Đúng là thông qua
các biện pháp tự do hóa và tư nhân hóa triệt để, Nga đã
tiến gần hơn tới một hệ thống thị trường tự do so với
TQ. Tuy nhiên, nền kinh tế được tự do hóa từng phần của TQ
lại hoạt động tốt hơn nhiều so với nền kinh tế được
tự do hóa triệt để của Nga.

Theo phần tích ở <i><a
href="https://danluan.org/tin-tuc/20131113/pham-gia-minh-tan-man-chuyen-lien-xo-trung-quoc-va-viet-nam">Phần
1 – chuyện Liên Xô sụp đổ</a></i> (2.1) việc kinh tế Nga sụt
giảm nhanh chóng có lẽ sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta đánh
giá đúng mức tầm quan trọng của các dịch vụ giao dịch
phục vụ thị trường trong nền kinh tế<i>. Nói cách khác, lý
thuyết chi phí giao dịch là chìa khóa để giải thích những
vấn đề phức tạp của quá trình chuyển đổi kinh tế.
</i>Thị trường tự do không hoàn toàn " tự do" và có những
chi phí khổng lồ gắn với những trao đổi khách quan trên thị
trường. Mức độ chuyên môn hóa và phân công lao động càng
cao và các trao đổi càng phức tạp thì xã hội sẽ phải đối
mặt với các chi phí giao dịch càng lớn. Như đã đề cập
trong <i>Phần 1</i> (2.1) các ngành dịch vụ giao dịch của nền
kinh tế Mỹ, nền kinh tế thị trường có trình độ phát
triển cao nhất, chiếm tới hơn 50% GDP của Mỹ vào năm 1970.

Khi bắt đầu quá trình chuyển đổi, Liên Xô cũ đã đạt
được trình độ phát triển công nghiệp ngang bằng với các
nước Phương Tây có trình độ chuyên môn hóa cao. Tuy nhiên
mức độ chuyên môn hóa cao cần phải có các hoạt động trao
đổi hay nói rộng ra là khu vực dịch vụ giao dịch thị
trường ở trình độ tương xứng. Trong hệ thống kế hoạch
hóa tập trung, bộ máy hành chính cồng kềnh đã xử lý tất
cả các trao đổi hoặc giao dịch giữa các công ty cũng như
giữa các chủ thể kinh tế nhà nước với người tiêu dùng.
Là một hệ thống phi thị trường, nền kinh tế Liên Xô chủ
yếu dựa trên các lĩnh vực phi giao dịch và thiếu trầm trọng
nhiều ngành dịch vụ giao dịch.

Rõ ràng độ "lệch" khá lớn giữa trình độ chuyên môn
hóa cao của nền kinh tế Liên Xô với thực trạng phát triển
yếu kém của các ngành dịch vụ giao dịch là một khó khăn
lớn cho quá trình chuyển đổi ở Liên Xô trong những năm
đầu. Chủ trương tự do hóa thị trường và tư nhân hóa theo
kịch bản " vụ nổ lớn" đã làm cho bộ máy kế hoạch
từng điều phối tất cả các hoạt động sản xuất và trao
đổi trong một nền kinh tế chuyên môn hóa cao đột ngột bị
sửa đổi trong khi đó các ngành dịch vụ cần thiết cho một
nền kinh tế thị trường hiện đại lại hầu như hoàn toàn
thiếu vắng. Sự sụp đổ của bộ máy hành chính đã tạo ra
một "khoảng trống thể chế" ở nước Nga dẫn đến sự
ngưng trệ toàn bộ nền kinh tế công nghiệp hóa trình độ cao.

Sai lầm mang tính nhận thức chủ quan lớn nhất của các lãnh
đạo Xô Viết thời "cải tổ- Perestroika" chính là họ đã
không nhìn ra vai trò của khu vực dịch vụ giao dịch phục vụ
thị trường nên đã đồng loạt làm tê liệt hoặc giải tán
các cơ cấu của ĐCS cùng với bộ máy hành chính đồng cấp
trên bình diện ngành và lãnh thổ toàn Liên bang trong quá trình
chuyển đổi kinh tế.

<i>Về nguyên tắc, có thể giảm nhẹ đáng kể tấn bi kịch
xã hội trong giai đoạn đầu chuyển đổi nếu bảo lưu có
chọn lọc và từng bước trao thêm những chức năng điều hành
kinh tế cho bộ máy hành chính sẵn có, tách vấn đề hệ tư
tưởng và đảng phái chính trị ra khỏi kinh tế một cách ôn
hòa, đồng thời nhanh chóng tạo dựng các ngành dịch vụ giao
dịch thị trường</i>.

Quá trình tự chuyển biến này có thể diễn ra êm thấm nếu
xã hội dân sự (XHDS) ở Liên Xô đã đạt một trình độ phát
triển thích hợp cho phép các tổ chức tự nguyện của người
dân hỗ trợ và bổ sung cho những khiếm khuyết tạm thời của
bộ máy hành chính.(Một ví dụ đáng nhớ tại nước Bỉ sau
cuộc thỏa thuận bất thành ngày 13/6/2010, suốt 485 ngày đất
nước này không có chính phủ nhưng mọi hoạt động diễn ra
vẫn bình thường do XHDS ở đây đã đạt trình độ tự quản
khá cao). Điều đáng tiếc là dưới thời Xô Viết XHDS đã bị
hiểu sai và do đó không được tự do phát triển.

Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, di sản XHCN hơn 70 năm
quá nặng nề của Liên Xô đã là vật cản lớn đối với
tiến trình chuyển đổi ôn hòa và hiệu quả như mong muốn.

Ngược với Nga, trình độ phát triển ban đầu thấp của nền
kinh tế TQ là một điều may mắn trên thực tế đối với
việc chuyển đổi kinh tế của nước này. Ngoài ra, chính sự
lựa chọn phương thức chuyển đổi từng bước, trước hết
ở khu vực nông thôn có trình độ chuyên môn hóa thấp với
các biện pháp tương đối mạnh bạo, sau đó tiến tới khu
vực thành thị với các cải cách ôn hòa hơn và cơ bản vẫn
giữ lại các hệ thống kế hoạch chủ yếu. Lợi ích lớn
nhất của phương thức cải cách trên là giữ được sự liên
tục của sản xuất ở khu vực thành thị có trình độ chuyên
môn hóa cao trong khi bộ máy kế hoạch xử lý giao dịch hầu
như không bị ảnh hưởng. Trong khi đó sản lượng ở nông
thôn nơi chiếm 70% lực lượng lao động đã tăng lập tức vì
các lực lượng thị trường dễ dàng tăng sản xuất ở kinh
tế nông thôn, nơi cần ít dịch vụ giao dịch vì trình độ
chuyên môn hóa thấp.

Việc tự do hóa sớm ở khu vực nông thôn kết hợp với chính
sách mở cửa đã dẫn tới quá trình công nghiệp hóa nhanh
chóng các ngành kinh tế truyền thống nơi đây và tạo động
lực lan tỏa cho tăng trưởng kinh tế của TQ trong 20 năm đầu
chuyển đổi.

Một nguyên nhân rất quan trọng giải thích sự thành công phát
triển kinh tế TQ là việc nước này mở rộng quan hệ kinh tế
với các nước tư bản phát triển rất đúng cách và bài bản
nhờ vai trò trung gian của vùng lãnh thổ Hồng Kông. Mô hình
chuyên môn hóa hướng vào xuất khẩu mà các nước công nghiệp
mới nổi ở Đông Á áp dụng thành công cũng là nguồn thông
tin định hướng có ích cho TQ với vị thế là người đi sau.

TQ đã biết tận dụng Hồng Kông như một địa điểm cung
cấp các loại dịch vụ giao dịch quan trọng, vốn gần như
không tồn tại trong nền kinh tế kế hoạch tập trung trước
đây để giúp TQ tham gia thị trường thế giới. Theo nhà kinh
tế học Milton Friedman, Hồng Kông là "hình mẫu hiện đại
của thị trường tự do", nơi mà quyền sở hữu được đảm
bảo, xã hội dân sự cởi mở theo các chuẩn mực Anh – Mỹ,
pháp luật quy định minh bạch, kinh doanh và thương mại tự do
trong môi trường pháp trị. Nhờ có Hồng Kông, TQ đã học
tập được hình mẫu cho việc phát triển ở Trung Quốc Đại
lục các dịch vụ phụ trợ thương mại đa dạng như kiểm tra
và thử nghiệm sản phẩm, giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài, cung cấp tài chính cho hoạt động thương mại, hậu cần
Logistic và bảo hiểm phục vụ xuất khẩu …

Hồng Kông còn có vai trò quan trọng cho sự hình thành và phát
triển các thị trường tài chính của TQ vốn không tồn tại
dưới chế độ kế hoạch hóa tập trung.

Chính quyền TQ đã hướng tới Hồng Kông để có được kiến
thức chuyên sâu và kinh nghiệm trong việc xây dựng các định
chế tài chính, hình thành các thị trường chứng khoán, đề ra
những nguyên tắc và quy ước kinh doanh trong ngành tài chính
giúp điều phối hoạt động của các ngân hàng thương mại và
các công ty quản lý quỹ ở TQ.

Hồng Kông cũng cung cấp nhiều loại dịch vụ giao dịch khác
thông qua đầu tư trực tiếp vào TQ ví dụ như quảng cáo, phân
phối bán buôn, bán lẻ,bảo hiểm, tư vấn luật và kế toán
v.v…

Nếu như trình độ chuyên môn hóa lao động thấp ở nông thôn
TQ là một điều kiện ban đầu thuận lợi, tạo đủ thời gian
cho việc phát triển các dịch vụ giao dịch trong lĩnh vực công
nghiệp của nền kinh tế TQ vốn dĩ gắn bó chặt chẽ với mô
hình kế hoạch hóa tập trung, thì Hồng Kông đã thực sự
chuyển các dịch vụ giao dịch tới nền kinh tế đại lục ở
bất cứ nơi nào cần các dịch vụ này. Điều này là một
yếu tố có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển của TQ
trong tương lai(3).

Hơn thế nữa Hồng Kông còn là cửa ngõ để giới tư bản
đại diện cho cộng đồng hơn 20 triệu người Hoa trên thế
giới chuyển vốn, công nghệ và kỹ năng kinh doanh vào đại
lục theo sự điều phối của quy luật "bàn tay vô hình" và
tinh thần dân tộc mạnh mẽ.

Nhưng có lẽ điều kiện khách quan bên ngoài có tính chiến
lược cho sự chuyển đổi thành công của TQ đó là sự ủng
hộ hiệu quả của Hoa Kỳ. Sau cuộc gặp lịch sử năm 1972
với "thông cáo chung Thượng Hải", Mỹ đã bắt tay với TQ
để bao vây và làm suy yếu Liên Xô – một đối thủ ở ngay
sát nách của TQ lại cùng theo hệ tư tưởng Mác- Lê trong cuộc
đua giành vị trí lãnh đạo phong trào Cộng sản quốc tế.
Đối với Mỹ thì Liên Xô là đối thủ đáng gờm nhất trong
chiến tranh lạnh sau Thế chiến II.

Quan hệ nồng ấm ngoạn mục giữa hai cựu thù Mỹ - Trung là
biểu hiện rõ nét chủ nghĩa thực dụng Hoa Kỳ, mặt khác nó
cũng phản ánh trung thực lối suy nghĩ và hành động theo
"phong cách Trung Hoa" rất uyển chuyển, mưu lược nhằm phục
vụ tối đa cho lợi ích cốt lõi và bất biến của một thể
chế toàn trị, chuyên chế dẻo dai mang tinh thần Đại Hán.

<b><i>Quá trình chuyển đổi còn dang dở</i></b>

Nền tảng tư tưởng cho quá trình chuyển đổi kinh tế ở TQ
trong những năm qua được nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận là
một hình thái của chủ nghĩa Tư bản nhà nước kiểu Lê nin
(Corporate Leninism) (4), nó có nhiều điểm tương đồng với
truyền thống toàn trị và chuyên chế Á Châu thời hiện đại.

Chính vì vậy, sau hơn 30 năm cải cách nền kinh tế TQ ngày
càng trở thành một nền kinh tế thị trường "dựa vào
quyền lực của chính quyền". Cơ cấu của hệ thống kinh tế
- chính trị hiện nay được xây dựng để bảo đảm ĐCS TQ
sẽ luôn luôn là trung tâm chi phối, điều tiết mọi cơ hội
trong tất cả các lĩnh vực. Tại TQ hiện nay nhà nước nắm
giữ 10 lĩnh vực kinh tế trọng yếu như Tài chính – ngân
hàng, bảo hiểm, hạ tầng,Viễn thông …Trong số 2037 công ty
niêm yết trên 2 thị trường chứng khoán ở TQ chỉ có 100 công
ty tư nhân. Tuy khu vực nhà nước nắm giữ hơn 75% vốn đầu
tư nhưng chỉ sản xuất dưới 50% GDP (4).

Việc duy trì doanh nghiệp nhà nước là hình thức sở hữu
chủ đạo đối với tư liệu sản xuất đồng thời được ưu
ái về cấp vốn, đất đai v.v… là không phù hợp với cơ
chế khuyến khích "bàn tay vô hình" <b><i>Adam Smith</i></b>
nhưng lại bảo đảm cho ĐCS TQ những công cụ quyền lực cần
thiết.

Các doanh nghiệp tư nhân "có máu mặt" phần lớn là do các
cựu quan chức hoặc người nhà của họ nắm giữ mặc dù cũng
tồn tại những doanh nghiệp tư nhân "đích thực". Tuy nhiên,
thành công trong kinh doanh chủ yếu được quyết định bởi quan
hệ của người chủ với các quan chức chính quyền trung ương
và địa phương nói chung để có được những đặc ân và sự
bảo trợ. Mặt khác, lợi nhuận của các công ty tư nhân phải
chịu một hình thức chiếm đoạt dưới dạng những khoản thu
khác nhau của chính quyền địa phương. Quan hệ tốt với địa
phương sẽ giúp các công ty này không bị chiếm đoạt quá
nhiều.

Khiếm khuyết chủ yếu của nền kinh tế thị trường "dựa
trên quyền lực" là sự méo mó tiêu chuẩn phân phối thu
nhập khiến những người có địa vị hoặc quan hệ cá nhân
gần gũi với các quan chức chính quyền được hưởng lợi
nhiều hơn.

Tình trạng này khuyến khích các hành vi tìm kiếm hối lộ hơn
là nỗ lực cải tiến sản xuất kinh doanh theo quy luật tiến
hóa <b><i>Schumpeter</i></b> và về lâu dài nó gây nên tình trạng
bất bình đẳng về thu nhập, hạn chế tăng trưởng, kìm hãm
đổi mới và sáng tạo mang tính đột phá trong công nghệ, kinh
doanh. Thậm chí nó còn nuôi dưỡng mầm mống bất ổn xã hội.

Trong những năm gần đây căng thẳng xã hội ở TQ ngày một
gia tăng, trung bình hàng năm có hơn 10 vạn cuộc biểu tình.
Điều này rất trùng hợp với hệ số phân hóa giàu-nghèo Gini
ở TQ là khá cao – 0,47 (2).

Để duy trì chi phí sản xuất thấp nhằm tăng sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế và tăng lợi nhuận cho giới chủ
doanh nghiệp, TQ đã áp dụng nhiều biện pháp, trong đó có
việc áp dụng chế độ hộ khẩu mang tính phân biệt và phó
mặc việc phát triển mạng lưới an sinh – xã hội đối với
người lao động. Hiện nay ước tính chỉ có khoảng 80 triệu
lao động có chế độ an sinh – xã hội, còn lại hơn 70% tổng
số lao động làm thuê có thu nhập thấp ước tính khoảng hơn
150 triệu (cũng có nguồn ước tính khoảng 260 triệu) "dân
công " (lao động đa số từ nông thôn lên thành thị) không
những không được hưởng chế độ an sinh - xã hội mà còn
không có quyền đình công theo quy định của Hiến pháp TQ và
không được phép tự tổ chức bảo vệ quyền lợi của mình
một cách tập thể. Chênh lệch thu nhập có tính cả các khoản
an sinh–xã hội giữa người có hộ khẩu và không có hộ
khẩu có thể lên đến 6 lần (5).

Nếu như tại các nước Phương Tây mâu thuẫn chủ-thợ
được giải quyết thông qua các tổ chức dân sự như các
nghiệp đoàn ngành nghề v.v… thì tại TQ Luật lao động quy
định không có thương lượng tập thể!

Trên thực tế, bạo loạn đã nổ ra khi người lao động quá
bức xúc mà không có cách nào khác để thể hiện quyền lợi
của mình. Phản ứng trước hành động này, nhà nước TQ đã
tăng ngân sách cho ngành công an để củng cố sức mạnh đàn
áp.Riêng ngân sách an ninh nội địa dành cho ngành công an năm
2011 đạt 90 tỷ USD, lần đầu tiên vượt ngân sách quốc phòng
(5).

Rõ ràng sự ổn định chính trị đạt được bằng đàn áp
không mang tính bền vững vì thiếu tính cơ cấu (6). Giải pháp
toàn diện, ít tốn kém và bền vững hơn chính là xây dựng
những tổ chức XHDS hoạt động trong khuôn khổ tôn trọng
Hiến pháp nhằm giải tỏa một cách ôn hòa những mâu thuẫn
xã hội và thể hiện trung thực ý nguyện của các nhóm dân
khác nhau trong các cuộc đối thoại có tính xây dựng với
chính quyền.

Có lẽ vấn nạn lớn nhất trong nền kinh tế chuyển đổi còn
dang dở ở TQ hiện nay là tham nhũng. Với việc chấp nhận sở
hữu tư nhân và kinh tế thị trường trong điều kiện đất
đai và các tư liệu sản xuất, vốn đầu tư công vẫn thuộc
sở hữu toàn dân nhưng lại được ủy thác và phân cấp cho
các doanh nghiệp nhà nước cùng các địa phương quản lý, sử
dụng đã tạo những "lỗ hổng thể chế" cho tham nhũng nở
rộ. Khi mà hệ thống giám sát hành chính được hình thành
thời kế hoạch hóa tập trung không theo kịp độ phức tạp và
tinh vi của kinh tế thị trường thì các giám đốc doanh nghiệp
nhà nước và người đứng đầu địa phương có muôn vàn cơ
hội biến của chung thành tài sản cá nhân và giàu lên rất
nhanh. Người chủ tài sản thực sự là nhân dân trên toàn
quốc và cư dân ở các cộng đồng không có trong tay cơ chế
bảo vệ quyền sở hữu của mình. Chính việc thiếu vắng các
tổ chức XHDS giúp chính quyền giám sát việc ủy thác và phân
cấp sở hữu toàn dân đã là một cơ hội bị bỏ lỡ khiến
cuộc chiến chống tham nhũng sau nhiều năm vẫn kém hiệu quả.

Tuy nhiên, việc không tách rời chính quyền với việc quản lý
các doanh nghiệp nhà nước, nhất là nhiều doanh nghiệp chủ
chốt đóng vai trò công cụ quyền lực của ĐCS và nhà nước
đã không cho chính quyền đóng vai trò là một thực thể khách
quan để đạt được các mục tiêu quản lý độc lập của
mình. Chính vậy mà tham nhũng vẫn có đất phát triển.

<i>Sự hình thành và phát triển khu vực dịch vụ giao dịch
thị trường là yếu tố mang tính thể chế. Không phải ngẫu
nhiên tại các nền kinh tế thị trường tiên tiến hàng đầu
thế giới đều có các XHDS cởi mở với truyền thống lâu
đời và khu vực dịch vụ giao dịch phát triển đa dạng, ngày
càng tinh vi. Đây có lẽ là "tài sản thể chế" quý giá
nhất trong quá trình theo đuổi mục tiêu phát triển của các
nền kinh tế phát triển trước</i>.

Tuy TQ đã học hỏi hình mẫu khu vực dịch vụ giao dịch thị
trường Hồng Kông ngay từ giai đoạn đầu quá trình chuyển
đổi nhưng với bản chất cố hữu của nền kinh tế thị
trường "dựa trên quyền lực" nhằm phục vụ một thể
chế chuyên quyền toàn trị, nơi mà XHDS bị hạn chế và cấm
đoán nên khu vực dịch vụ này tự thân nó không thể phát
triển mạnh mẽ ở Đại lục. Ở đây chúng ta cần liên
tưởng lại các điều kiện cần và đủ trong nền kinh tế Xô
Viết được đề cập ở <a
href="https://danluan.org/tin-tuc/20131113/pham-gia-minh-tan-man-chuyen-lien-xo-trung-quoc-va-viet-nam">Phần
1 – <i>chuyện Liên Xô sụp đổ</i></a> (2.1)

Hội nghị Trung ương 3 khóa 18 (kỳ 2) ĐCS TQ gần đây trên cơ
sở cân nhắc kỹ lưỡng những nguy cơ và thách thức của xã
hội TQ đã đề ra những định hướng tiếp tục cải cách
toàn diện và sâu rộng nền kinh tế TQ theo hướng thúc đẩy
mạnh mẽ yếu tố thị trường, cho nông dân nhiều quyền hạn
hơn trong sở hữu đất đai …

Tuy nhiên vẫn còn bỏ ngỏ câu hỏi về tính mâu thuẫn giữa
nguyên tắc thị trường tự do với vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước. Nguyện vọng của hàng trăm triệu "dân công"
về cải cách chế độ hộ khẩu vẫn chưa được thỏa mãn
khiến tiến trình đô thị hóa và hiện đại hóa sẽ gặp
chắc trở.

Mối quan tâm hàng đầu mà trước đây nguyên Thủ tướng Ôn
Gia Bảo đã nhiều lần khuyến cáo về sự cần thiết phải
cải cách thể chế chính trị song hành với cải cách kinh tế
hầu như vẫn chưa được quan tâm trong lần hội nghị quan
trọng này.

Các nhà quan sát quốc tế đều có chung nhận định: TQ làm ra
nhiều sản phẩm nhưng không phát minh ra cái mới mang tính đột
phá do xã hội TQ không chấp nhận phê phán, phản biện.

Cảm nhận được sâu sắc nét đặc thù đó nên một nhà
nghiên cứu đã viết: "<i>Trung Quốc sẽ không theo một con
đường quen thuộc hướng tới một điểm đến nhất định
theo cách nghĩ của chúng ta chỉ vì các nhà quan sát Phương Tây
quá lười biếng hoặc tự mãn về văn hóa để hình dung ra
những khả năng khác nữa" (5).</i>

Và phải chăng, đó cũng là điều phù hợp với "bản sắc"
và "phong cách Trung Hoa"?

(<i>còn phần 3 tiếp theo và hết</i>)

<strong>Phạm Gia Minh</strong>

<b>Thăng long - Hà nội 20/11/2013</b>

Tác giả gửi cho <i>viet-studies</i> ngày 20-11-13

<h2>Tài liệu tham khảo</h2>

(1) Wikipedia. " Maslow's Hierachi of Need.

(2) <b>Phạm Gia Minh</b>. " Mấy lời bàn về mô hình Trung
Quốc: Thư ngỏ gửi GS Francis Fukuyama".

<a
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/PhamGiaMinh_ThuFukuyama.htm">www.viet-studies.info/kinhte/PhamGiaMinh_ThuFukuyama.htm</a>

(2.1) <b>Phạm Gia Minh.</b> " Tản mạn chuyện Liên Xô, Trung
Quốc và Việt nam" Phần 1: Liên Xô sụp đổ.

<a href="http://www.viet-studies.info/kinhte/PGMinh_TanManPhanI.htm">
www.viet-studies.info/kinhte/PGMinh_TanManPhanI.htm</a>

(3) <b>Li Tan</b>. " Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp"
NXB "Trẻ". 2008

(4) <b>John Lee</b>. " Chủ nghĩa hợp doanh Lê Nin của Trung
Quốc"

<a
href="http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai24/201224_JohnLee.pdf">www.tapchithoidai.org/ThoiDai24/201224_JohnLee.pdf</a>

(5) <b>Trần Hải Hạc</b>. " Bàn về chuyển hóa mô hình tăng
trưởng kinh tế của Trung quốc"

<a
href="http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai23/201123_TranHaiHac.pdf">www.tapchithoidai.org/ThoiDai23/201123_TranHaiHac.pdf</a>

(6) <b>Bùi Mẫn Hân</b> (MinXin Pei). " Sự cai trị của ĐCS TQ
là mong manh hay bền vững".

www.tapchithoidai.org/ThoiDai25/201225_buiManHan.pdf



***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20131120/pham-gia-minh-tan-man-chuyen-lien-xo-trung-quoc-va-viet-nam-2),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét