<h2>Lời dẫn</h2>
Ba tháng qua tôi đã có thời gian để suy xét lại về những
điều tôi đã cho là đúng và cả những điều tôi đã cho là
sai trước đó. Cũng trong ba tháng qua tôi có điều kiện quan
sát gần hơn, tiếp cận gần hơn, có điều kiện để biết
nhiều hơn, hiểu rõ hơn về các xu hướng vận động của nền
kinh tế – chính trị nước nhà. Đó là khoảng thời gian quý
báu với riêng tôi. Có thể coi đề xuất, chương trình, ý
kiến… gọi là gì cũng được mang tên "MỘT CON ĐƯỜNG CẢI
TỔ" ở dưới là kết quả của 3 tháng vừa rồi. Bài viết
này xuất phát từ ý thức dân tộc, ý thức về trách nhiệm
của một cá nhân, một công dân với vận mệnh dân tộc.
Tôi đã cố gắng giữ cho mình nguyên tắc, đứng ngoài mọi phe
nhóm, mọi tổ chức chính trị, trong hay ngoài nước, trong hay
ngoài Đảng Cộng sản để giữ cho mình một sự độc lập
nhất định về tư tưởng. Hay nói cách khác, tôi chọn cho mình
một con đường tri thức độc lập. Đó là tôn chỉ tôi đã
theo và sẽ theo. Bài viết này, vì thế tôi mong mọi người
được đọc với một tinh thần khách quan như vậy.
Về riêng bản thân tôi, tôi đã hoạch định cho mình một kế
hoạch cá nhân và đã bắt đầu thực hiện kế hoạch này. Tôi
đang theo học tiếng Đức với hy vọng có thể theo học và
nghiên cứu triết học một cách bài bản tại Đức. Triết
học là đam mê của cá nhân tôi, mặt khác, cá nhân tôi cho
rằng, không một quốc gia nào có thể phát triển bền vững
nếu không có nền Triết học, Toán học vững chắc. Tôi hy
vọng rằng, mình có thể đóng góp một phần nhỏ bé vào việc
phục dựng lại, đặt lại những nền móng Triết học cho
nước nhà, công việc mà theo tôi biết, đã có nhiều con
người đáng kính đã làm và đang làm.
Trong quá khứ không xa, miền Nam Việt Nam trước năm 1975, đã
có một thế hệ những người nghiên cứu và làm Triết học
một cách bài bản, tạo ra một trào lưu mà bất cứ ai đọc
lại những tác phẩm của họ tôi vẫn thấy một niềm kỳ
vọng, một sự khích lệ lớn lao, đó là những tên tuổi như:
Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung… và miền
Bắc là Trần Đức Thảo, Trường Chinh, Hồ Chí Minh… Thời
qian qua, tôi cũng có tìm đọc lại các tác phẩm của Trường
Chính, nếu bỏ qua các định kiến ý thức hệ, thì ta có thể
tìm thấy ở Trường Chinh, Hồ Chí Minh nhiều nhân tố triết
học thực hành có giá trị. Tôi cũng có điều kiện tiếp cận
với ý tưởng triết học rất thú vị của Lê Quý Đôn. Riêng
Lê Quý Đôn tôi nghĩ mình cần thêm nhiều thời gian để nghiên
cứu ông và có thể từ ông sẽ khơi gợi, phục dựng được
nhiều giá trị văn hóa, triết lý mang bản sắc Việt.
Người ta vẫn thường hô hào "Giữ gìn bản sắc dân tộc",
lĩnh hội "Tinh hoa văn hóa nhân loại"… nhưng tôi chưa thấy
họ thực sự đã làm gì để đạt được những mục tiêu
này. Cá nhân tôi cho rằng, việc học tập những phương pháp
nghiên cứu, tinh thần dân chủ, khoa học phương tây, đặc
biệt với giới trẻ là điều kiện tiên quyết. Chúng ta không
thể cứ ngồi một chỗ, giữ khư khư những thứ mà ta cho là
hay, là tốt mà lại không biết nó thực sự có vị trí như
thế nào trong thế giới tư tưởng nhân loại. Tôi thấy rằng,
mỗi khi chúng ta quên mình đi nhiều nhất, mở rộng lòng mình
ra nhiều nhất, gỡ bỏ những định kiến, những thói quen xưa
cũ nhiều nhất, là mỗi khi mình nhìn thấy mình rõ nhất, ta
mình tự nâng mình lên nhiều nhất.
Tôi cũng sáng lập ra một nhóm gọi là <a
href="http://nhomthuba.wordpress.com/">Nhóm Thứ-Ba</a>. Đây không
phải là một nhóm chính trị. Mọi người có thể thấy rõ
điều đó khi đọc nguyên tắc nhóm. Mục tiêu của tôi khi lập
ra nhóm này là muốn khơi gợi tinh thần trung thực, ý chí tự
cường, tinh thần dám phiêu lưu khám phá những chân trời mới,
dù là trong cuộc sống hay trên con đường truy tầm chân lý.
Tôi cho rằng, đó sẽ là những tinh thần mà người Việt chúng
ta cần trên con đường chấn hưng đất nước.
Những giá trị này tôi đã tìm thấy khi tiếp cận triết học
F.Nietzsche. Tôi đã từng đặt những câu hỏi, tại sao phương
Tây phát triển như ngày nay, tại sao họ có được nền khoa
học, tinh thần dân chủ, khoa học như ngày nay? Tại sao phương
Đông lại đứng lại lâu thế? Những động lực nào thúc
đẩy xã hội con người tiến lên? Tôi nghĩ rằng, mình có thể
tìm được những câu trả lời căn bản khi đọc F.Nietzsche.
Thời gian qua, được tiếp cận nhiều hơn với những con
người dân chủ, tiến bộ (quan facebook, blog…), tôi cũng có
dịp tiếp cận nhiều hơn với các luồng thông tin, tri thức
mới, nhận thấy rõ hơn những con người tri thức cao quý,
tiến bộ… những con người này mang lại cho tôi kỳ vọng
lớn lao nếu có thể tập hợp lại được dưới ngọn cờ dân
tộc thống nhất.
Do công việc học tập và nghiên cứu của mình, tôi cũng hy
vọng mọi người có thể ưu ái cho tôi một thời gian yên tĩnh
cần thiết không phỏng vấn, không mời gọi ra nhập nhóm này,
nhóm kia. Tôi xin nhắc lại tôi chọn con đường tri thức độc
lập.
Trân trọng
Nguyễn Đắc Kiên
<h2>MỘT CON ĐƯỜNG CẢI TỔ</h2>
<h2>Chương 1
Tình thế hiện nay</h2>
<h2> 1. Nhận diện nhóm cấp tiến</h2>
Hội nghị Trung ương 6 và 7 của Đảng cho thấy phe bảo thủ,
muốn kiên trì định hướng XHCN theo học thuyết Marx-Lenin đang
ở thế yếu.
Cuộc vận động tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992
trong quần chúng cho thấy, một bộ phận không nhỏ người dân
đã ý thức mạnh mẽ về quyền lực chính trị của mình. Họ
sẵn sàng là lực lượng đi đầu thúc đẩy tiến trình dân
chủ, tự do cho đất nước.
Nhưng sẽ là quá lạc quan nếu ai đó, đưa ra một dự đoán
nhất quyết về một cuộc cải tổ trong tương lai ngắn hạn
ở VN.
Tình thế hiện nay, trong nội bộ ĐCS, nhóm lợi ích đang tỏ ra
chiếm ưu thế hơn nhóm bảo thủ. Nhưng cả hai nhóm này đều
sẽ là trở lực cho tiến trình dân chủ. Nhóm lợi ích đôi khi
tỏ ra cấp tiến, tuy nhiên những người theo dõi chính trường
VN đã quá quen với những thủ đoạn, những trò lật lọng
của nhóm này. Sẽ chẳng ai ngạc nhiên nếu khi nhóm này đã
đạt được mục đích thâu tóm quyền lực sẽ quay mũi giáo,
chống lại nhân dân, đàn áp lực lượng dân chủ.
Lực lượng bảo thủ trong đảng, nhóm lợi ích cùng với thế
lực bành trướng Bắc Kinh rõ ràng sẽ là những trở lực lớn
nhất cho dân chủ, cũng là hiểm hoạ lớn nhất đẩy VN vào
đêm dài lạc hậu, suy thoái, thậm chí hỗn loạn.
Sự đối đầu giữa phe bảo thủ và phe nhóm lợi ích, đặc
biệt trong hai Hội nghị Trung ương vừa qua làm người ta nhầm
tưởng rằng trong chóp bu ĐCS hiện chỉ có hai lực lượng này.
Tuy nhiên, ngày càng có những chỉ dấu rõ ràng cho thấy, trong
thượng tầng nội bộ đảng còn có nhóm thứ ba – nhóm cấp
tiến. Việc Hội nghị Trung ương 6 không kỷ luật "đồng chí
X", Hội nghị Trung ương 7 không bầu hai ông Nguyễn Bá Thanh
và Vương Đình Huệ, hai ứng cử viên do Bộ Chính Trị giới
thiệu có thể coi là một chỉ dấu cho thấy sự tiến bộ về
ý thức dân chủ của các uỷ viên trung ương. Việc hai ông
Thanh và Huệ không trúng ghế ủy viên BCT chưa chắc đã là do
nhóm lợi ích mạnh. Nhóm lũng đoạn có thể chỉ làm một
động tác phá quấy là đưa thật nhiều ứng viên ra tranh cử,
sau đó các Ủy viên Trung ương, với ý thức đã tiến bộ về
quyền lực của mình làm nốt phần việc còn lại là loại ông
Thanh và ông Huệ. Việc các Ủy viên TƯ không bỏ phiếu cho hai
ông này, cũng không thể quy kết ngay cho họ là ủng hộ nhóm
lợi ích. Họ chọn ông Nguyễn Thiện Nhân và bà Nguyễn Thị
Kim Ngân có thể đơn giản chỉ là do họ thấy những vị này
thích đáng hơn.
Những đảng viên cấp tiến, có thể ngay ở trong Bộ Chính
Trị, ngay trong các vị Ủy viên TƯ có thể tạo ra những diễn
tiến bất ngờ khi họ bỏ tấm mạng che bước ra ánh sáng
chính trường.
<h2> 2. Phe dân chủ ngoài Đảng thiếu một lực lượng
vật chất</h2>
Việc nhận diện ra lực lượng thứ ba, lực lượng tiến bộ
trong nội bộ nhóm lãnh đạo của ĐCS hiện nay là rất quan
trọng. Nếu có thể vận động được lực lượng này gắn
kết lại với nhau, cùng với lực lượng tiến bộ ngoài đảng
tiến hành cải tổ đất nước thì đây có lẽ sẽ là phương
án ít mạo hiểm có thể thu được các bước tiến vững chắc
nhất.
Không khó để nhận thấy lực lượng dân chủ ngoài đảng cả
trong và ngoài nước hiện nay phân tán. Nếu có thể quy tụ
lại cũng dễ tan vỡ. Lực lượng trong nước thì gặp cản
trở từ phía chính quyền, định kiến xã hội. Lực lượng
ngoài nước có môi trường thuận lợi hơn nhưng lại dễ bị
chia rẽ, thậm chí xung đột.
Sự phân tán này sẽ hiển hiện khi ta đặt câu hỏi: Lực
lượng vật chất nào? Khối quần chúng nào có đủ sức mạnh
đối kháng thách thức quyền lãnh đạo ĐCS hiện nay?
Tìm kiếm sự hỗ trợ vật chất từ các nước phương Tây
cũng là một sự lựa chọn mạo hiểm và khó khả thi trong các
mối quan hệ quốc tế hiện nay. Hơn nữa, một mang một lực
lượng đối kháng đủ mạnh để đương đầu với chính
quyền hiện hành luôn mang theo nguy cơ bạo loạn, tốn xương
máu mà chính quyền mới được dựng lên nếu có thể cũng
không có gì đảm bảo là sẽ ít độc tài hơn chính quyền
cộng sản hiện nay.
Vận động để nhóm cấp tiến trong nội bộ ĐCS lên nằm
quyền và tiến hành cải tổ có thể là lựa chọn sáng suốt
nhất trong tình hình hiện nay. Nhận định này nhiều khả năng
sẽ ngay lập tức bị phản đối với những người có nhiều
ân oán với cộng sản cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nếu
điềm tĩnh lại để suy nghĩ thì họ sẽ thấy lựa chọn này
thật sự không tồi. Và bản thân những định kiến của họ
cũng không phải là không thể vượt qua. Rào cản lớn nhất,
lâu dài nhất, ám ảnh dai dẳng nhất có lẽ là rào cản ý
thức hệ. Rào cản do cả hai phe Quốc gia và Cộng sản đã cố
công dựng lên đến giờ vẫn như bóng đen bao trùm, cản trở
mọi nỗ lực cải tổ, hoà hợp.
<h2> 3. Ngọn cờ dân tộc thống nhất</h2>
Có thể còn một số ít người trong phe bảo thủ vẫn thực
lòng muốn bảo vệ học thuyết cũ. Với phe nhóm lợi ích học
thuyết cũ cũng có giá trị khi nó còn giúp họ núp bóng, trục
lợi, vì thế họ cũng có lí do để lớn tiếng bảo vệ ĐCS
khi cần phải chống lại nhóm cấp tiến.
Nhóm cấp tiến, cách gọi có thể khiến nhiều người cảm
thấy băn khoăn trong thời điểm hiện nay khi hình thù của nó
vẫn mờ mịt, những đại diện của nó vẫn lặng câm trong
bóng tối. Điều này cũng dễ hiểu. Ngoài uy thế lấn lướt
của nhóm bảo thủ và nhóm lợi ích, những người cấp tiến
trong ĐCS hiện nay, tự bản thân họ cũng phải vượt qua rào
cản ý thức hệ. Cũng như những người Quốc gia không dễ gì
xoá bỏ định kiến ý thức hệ Cộng sản, những người cấp
tiến trong đảng hiện nay cũng không dễ gì tuyên bố thẳng
thừng việc rời bỏ con đường Marx – Lenin, dù họ có biết
chắc chắn con đường đó chỉ dẫn dân tộc đến lạc hậu,
tăm tối, bại vong. Cũng như những người chống cộng cực
đoan, họ cần sự trợ giúp.
Đây có thể chính là thời điểm để khối quần chúng tiến
bộ trong và ngoài đảng thể hiện vai trò vận động của
mình. Đây có thể là thời điểm thích hợp nhất để ngọn
cờ dân tộc thống nhất một lần nữa lại cần phất lên.
Lực lượng tiến bộ trong hay ngoài đảng, quần chúng hay lãnh
đạo, đương chức hay đã nghỉ hưu, trong hay ngoài nước…
cần đứng lại với nhau, cùng một chiến tuyến, không phân
biệt người Quốc gia, người Cộng sản, bỏ hết mọi định
kiến ý thức hệ, chỉ hướng đến một ngọn cờ duy nhất,
ngọn cờ dân tộc thống nhất, vì một nước Việt Nam thống
nhất phát triển.
Sự vững vàng về mặt an ninh quốc gia hiện nay cần được xem
như một lợi thế để tiến hành cải tổ. Tình hình có thể
sẽ xấu đi khi nhóm lợi ích ra tay hành động, gây hỗn loạn
để thừa nước đục thả câu, sẽ đặc biệt nguy hiểm nếu
có thêm bàn tay can thiệp của nước ngoài, đặc biệt là Trung
Quốc.
<h2>Chương 2
Cải cách kinh tế</h2>
<h2>1. Loại bỏ sự thao túng của nhóm lợi ích</h2>
Tình trạng nền kinh tế VN hiện nay khá giống với Đài Loan
những năm 1940-1950 (khi đó Đài Loan là một tỉnh của Trung Hoa
Dân Quốc). Nền kinh tế Đài Loan khi đó nằm trong tay nhóm lợi
ích của Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn. Cũng giống như
Việt Nam hiện nay, nhóm lợi ích của Khổng, Tống lộng quyền,
tham ô, hết thao túng các công ty quốc doanh, tài nguyên quốc gia
vơ vét vào túi riêng đến nắm các ngân hàng, "chuyển trọng
tâm tư bản nhà nước sang kinh doanh tiền tệ vàng bạc và
đầu cơ". Nhóm Khổng, Tống khi đó cũng áp dụng các chính
sách vơ tận, vét sạch, phát hành trái phiếu, "vay nợ nước
ngoài một số tiền lớn để ăn chiết khấu và trưng thu đủ
các loại thuế, cưỡng bức vơ vét tài sản của dân". Nền
kinh tế Đài Loan khi đó cũng bị khủng hoảng trầm trọng.
Chỉ sau khi Khổng Tường Hy và phe nhóm của ông ta tháo chạy
sang Mỹ, Trần Thành và Tưởng Kinh Quốc lên nắm quyền mới
tiến hành những cải cách căn bản, đặt nền móng cho một
Đài Loan cất cánh sau này (Tham khảo: Phùng Gia Thụ – Đài Loan
tiến trình hóa rồng).
Cải cách của Trần Thành, Tưởng Kinh Quốc khi đó đặt
trọng tâm vào hai chính sách lớn: Thứ nhất cải cách ruộng
đất; thứ hai nâng đỡ khối dân doanh.
Ruộng đất ở Đài Loan trước cải cách đa phần nằm trong tay
địa chủ, chính quyền Đài Loan đã đặt ra cơ chế hạn
điền, buộc những điạ chủ chiếm nhiều đất hơn hạn mức
phải bán lại cho những nông dân không có ruộng. Tiền bán
ruộng do người mua trả dần, chính phủ cũng đứng ra hỗ trợ
thu mua hỗ trợ nhưng không trả bằng tiền mặt mà bằng cổ
phiếu trong các doanh nghiệp quốc doanh. Cũng nằm trong chiến
lược nâng đỡ khối dân doanh ở Đài Loan khi đó, song song
với cải cách ruộng đất Đảng Quốc dân tiến hành "chuyển
công doanh sang tư doanh", đem bán cổ phiếu của 4 ngành xi măng
giấy, mỏ và nông lâm để trả thay tiền trưng mua ruộng
đất. Kết quả biến một số điạ chủ trước cải cách
thành các nhà công nghiệp lớn, mà nổi tiếng nhất là "tứ
đại hào chủ": Cố Chấn Phố, Lâm Do Long, Lâm Bá Thọ, Trần
Khởi Thanh.
Sau năm 1950 nguyên tắc chỉ đạo của chính quyền Đài Loan là
"hết sức thu hẹp phạm vi quốc doanh trong công nghiệp dân
sinh", "phân rõ phương hướng kinh doanh khác nhau giữa nhà
nước và nhân dân". Theo đó doanh nghiệp nhà nước chủ yếu
kinh doanh ngành năng lượng, giao thông, công nghiệp quốc phòng,
công nghiệp chế tạo quy mô lớn, tiền tệ… Có quan hệ
nhiều đến vận mệnh nền kinh tế và đầu tư lớn, những
ngành tư nhân không tiện kinh doanh. Còn những mặt hàng dân
dụng, trực tiếp quan hệ đến đời sống như: dệt, giấy, xi
măng, đồ sinh hoạt hàng ngày… Giao hết cho tư bản tư nhân
kinh doanh.
Kết quả, đến năm 1985, tỷ trọng giá trị sản lượng các
doanh nghiệp dân doanh đạt 86% giá trị tổng sản lượng ngành
công thương nghiệp, quốc doanh chỉ chiếm 14%. Hoàng Gia Thụ
trong cuốn Đài Loan tiến trình hóa rồng đánh giá: "Sự phồn
vinh của tư bản tư doanh đã cung cấp sức sống mạnh mẽ cho
việc chấn hưng kinh tế Đài Loan".
Tuy nhiên, việc thu hẹp quốc doanh và nâng đỡ dân doanh sẽ
không thể nào đạt kết quả nếu song song với quá trình đó
không có một chiến dịch "bàn tay sạch" của Đảng Quốc
dân.
Đảng Quốc dân trước hết cách chức các giám đốc hữu danh
vô thực, thay thế bằng những người "thích thú với sự
nghiệp, có tinh thần trách nhiệm và khả năng thực tế phụ
trách". Sau khi áp dụng biện pháp này, những người chỉ
đứng tên ăn lương nhờ quan hệ cá nhân làm giám đốc, chánh
văn phòng… nhất là những người núp sau Tống Tử Văn, Khổng
Tường Hy, Trần Quả Phu lần lượt bị đào thải.
Liên hệ với tình hình VN hiện nay, rõ ràng cần một người
đủ sức mạnh, trí tuệ, sự đảm lược và tinh thần vì dân
tộc tiến hành thanh lọc, cải cách, loại bỏ những kẻ ngồi
không ăn bám trong các doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh đó, cần khôi phục Ban cố vấn của Thủ tướng
trước đây, tập hợp các chuyên gia trong và ngoài đảng, trong
và ngoài nước, tham gia nghiên cứu, tư vấn và khuyến nghị
chính sách.
Để tránh sự thao túng thị trường tiền tệ, tránh hiện
tượng biến tài sản nhà nước thành tài sản tư nhân của
nhóm tư bản thân hữu, cần tham khảo một phương pháp mà Đài
Loan đã áp dụng là thành lập chế độ Hội đồng tài chính
một cách nghiêm khắc, tách rời quyền quản lý và quyền sở
hữu ra. Ngân hàng nhà nước hiện nay cũng cần được cải tổ
để trở thành ngân hàng trung ương đích thực, độc lập với
chính phủ, có thể thuộc quyền giám sát trực tiếp của quốc
hội, không tồn tại như một cơ quan của chính phủ như hiện
nay.
<h2> 2. Nâng đỡ khối dân doanh phát triển</h2>
Không giống như Đài Loan những năm 1950, VN hiện nay, không có
nhu cầu cải cách ruộng đất bức thiết, tuy nhiên, mô hình
cánh đồng mẫu lớn của Công ty CP Bảo vệ thực vật An Giang
cần được nhà nước hỗ trợ nhân rộng. Quy định sở hữu
toàn dân về đất đai hiện nay cũng cần phải thay đổi, theo
đó cần quy định đa sở hữu về đất đai với các chủ
thể: Nhà nước, tư nhân, tổ chức, tập thể… làm thế vừa
tránh chuyện lạm dụng, tham ô đất công, vừa giúp người dân
bảo vệ hiệu quả quyền sở hữu tư nhân về đất đai của
mình.
Một khía cạnh nữa trong nông nghiệp, có thể cũng cần bàn tay
nhà nước đó là "Lựa chọn nhóm hàng nông nghiệp mục tiêu
– đẩy mạnh công nghiệp chế biến". Bởi vì việc lựa
chọn nhóm hàng mục tiêu, đi liền với đầu tư về nghiên
cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, đòi hỏi vốn lớn,
thời gian lâu dài, các doanh nghiệp tư nhân khó mà đảm đương
trong một sớm một chiều.
Không chỉ trong nông nghiệp, đảm đương việc nghiên cứu,
phát triển, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật, chuyên
gia cho khối dân doanh cũng cần được áp dụng cho các khu vực
sản xuất khác.
Hãy tham khảo một đoạn mô tả rất có ý nghĩa sau đây của
Hoàng Gia Thụ về các chính sách Đài Loan đã thực thi: "Đến
những năm 70, Chính quyền Đài Loan lại xúc tiến quá trình
liên hợp của các xưởng cùng sản xuất một mặt hàng, tổ
chức các công ty mậu dịch lớn có một mạng lưới cơ sở
sản xuất và bán sản phẩm. Như vậy, vừa thống nhất được
qui cách, chất lượng của các sản phẩm cùng loại, vừa mở
rộng được quy mô sản xuất, lại tránh được trong tỉnh tàn
sát nhau để người nước ngoài hưởng lợi.
Để khuyến khích sự hợp tác kỹ thuật giữa các hãng tư
doanh với ngoại thương, chính quyền Đài Loan có đãi ngộ
thích đáng đối với ngoại thương, cung cấp kỹ thuật tiên
tiến và license cho Đài Loan, đồng thời cấp những khoản
tiền lớn cho các hãng học tập và mua kỹ thuật mới. Thí
dụ, để dẫn dắt cho sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu, chính
quyền trước hết đầu tư cho cơ cấu nông nghiệp trồng thử
ngô đường, thử nuôi cá quả Mỹ , thử chế biến bột tảo
Chlorena và tinh tảo Chlorena… có hiệu quả rồi mới mở rộng.
Để phát triển hàng cơ khí và đồ điện, chính quyền Đài
Loan đã bỏ ra 20 triệu đài tệ mới để khuyến khích làm
thử sản phẩm mới. Để thâm nhập vào thị trường đồ chơi
quốc tế, chính quyền Đài Loan bỏ ra 200.000 đài tệ mới để
thu thập mẫu đồ chơi ở các nơi trên thế giới, cung cấp cho
các nhà sản xuất quan sát và bắt chước.
Về mặt xuất khẩu, chính quyền Đài Loan đặt trụ sở và
mạng lưới mậu dịch ở hơn 80 nước và các khu vực, tham gia
các triển lãm, hội chợ quốc tế, thường xuyên mời khách
nước ngoài và các nhà kinh doanh đến Đài Loan tham quan, và
cũng thường xuyên cử người đi chào hàng ở nước ngoài.
Để mở rộng mạng lưới mậu dịch quốc tế, Đài Loan đã
xây dựng các "Trạm phục vụ mậu dịch quốc tế" cung cấp
cho ngoại thương các đường dây điện thoại và khuyến khích
ngoại thương đặt các đại lý ở nước ngoài. Chính quyền
còn treo các "phần thưởng ngoại thương" trao cho hãng nào
xuất khẩu được nhiều".
Tất nhiên, khối doanh nghiệp dân doanh của VN hiện nay đã
trưởng thành hơn nhiều so với các nhà tư bản tư nhân của
Đài Loan khi đó, tuy nhiên sự việc tính đến các biện pháp
hỗ trợ vẫn cấn thiết.
Nhưng điều cốt yếu hơn là nhà nước trước tiên đừng cản
trở. Mở rộng tràn lan các doanh nghiệp nhà nước thời gian qua
là một cản trở, vì nguồn lực một nền kinh tế có giới
hạn, khi các doanh nghiệp nhà nước chiếm dụng vốn, tài
nguyên lại có lợi thế độc quyền, lợi thế thao túng chính
sách thì khố doanh nghiệp tư nhân đương nhiên sẽ không còn
đất để thở. Sẽ có các nhà doanh nghiệp khôn ngoan, bám vào
sân sau các tập đoàn, các ông ty nhà nước để hưởng lợi,
nhưng một nền kinh tế như thế chỉ dẫn đến lụn bại, vì
nó không thể khuyến khích sáng tạo, cải tiến kỹ thuật,
đổi mới phương thức phục vụ để cạnh tranh sòng phẳng.
Cản trở thứ hai với khối dân doanh ở VN hiện nay là thủ
tục hành chính, thuế khoá, hải quan, nhưng đây là những cản
trở doanh nghiệp có thể thích ứng. Cản trở thứ ba, quan
trọng hơn, đã đánh gục các doanh nghiệp mấy năm qua đó là
chính sách tiền tệ. Khi ngân hàng nhà nước bị thao túng,
chính sách tiền tệ chỉ phục vụ nhóm lợi ích hoặc sai lầm
mà không được sửa chữa kịp thời thì các doanh nghiệp dan
doanh phải gánh hết hậu quả. Lãi suất vốn vay có thời
điểm lên đến 20-30% là bản án tử hình với các doanh gnhiệp
dân doanh, với mức lãi suất này, họ không thể nào cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác như doanh nghiệp FDI được vay vốn
giá rẻ ở nước ngoài. Rào cản về tiền tệ này, chẳng khác
nào chính sách ngăn sông cấm chợ cuối thời nhà Nguyễn mà
hậu quả khi đó là nền kinh tế, thương mại rơi hết vào tay
người Hoa, các thương gia VN bị bóp nghẹt đồng thời mở ra
cơ hội cho người Hoa thâu tóm, trục lợi. Những thành quả
gần 20 năm Đổi mới vừa qua, có bị cuốn trôi hết chỉ với
một cơn khủng hoảng hiện nay nếu chúng ta không kịp thời
cải tổ.
<h2>Chương 3
Cải tổ chính trị</h2>
<h2>1. Đổi tên Đảng</h2>
Lịch sử cho thấy ĐCS còn tồn tại được đến ngày nay là
nhờ biết thay đổi, thích ứng, cải tổ trong những thời
điểm quyết định. Khả năng đó mang lại kỳ vọng cho một
cuộc cải tổ ở thời điểm hiện tại. Ở trên tôi đã nói
về ám ảnh ý thức hệ của người Quốc gia, ở đây tôi sẽ
nhấn mạnh đến ám ảnh này với người Cộng sản. Bản thân
những người Cộng sản cũng đang bị nỗi ám ảnh ý thức hệ
chưa buông tha. Muốn gỡ bỏ nó thật không dễ. Nhưng cứ thử
xem.
Hãy nghe lại lời cố TBT Trường Chinh khi nói về việc đổi
tên đảng thành Đảng Lao động VN: "Một số đồng chí ta
chưa thông về việc đặt tên Đảng ta là Đảng Lao động VN.
Có đồng chí băn khoăn vì tình cảm, cho rằng biết bao đồng
chí ta đã hy sinh cho Đảng cộng sản Đông Dương, nay bỗng
chốc phải từ biệt cái tên thân mến ấy thì đau đớn biết
bao! Hoặc cho rằng tên "đảng lao động" đã bị quần chúng
không ưu thích ở Anh rồi, ta giây vào cái tên ấy làm gì cho
mệt!
Cố nhiên, bỏ tên Đảng cộng sản Đông Dương là một sự hy
sinh. Hy sinh nào cũng đau đớn. Nhưng hy sinh vì lời ích cách
mạng là hy sinh cần thiết. Ta không nên đứng về mặt tình
cảm nhỏ hẹp mà nhận xét vấn đề đặt tên Đản, nên
đứng về lợi ích cách mạng mà nhận xét thì đúng hơn".
Chính cố TBT Trường Chinh là một tấm gương đáng nhắc lại
để học tập về tinh thần tự đổi mới tư duy, tinh thần hy
sinh vì lợi ích chung. Hiện nay kêu gọi hy sinh vì lợi ích cách
mạng là không hợp lý. Hai chữ "cách mạng" thậm chí còn
gây phản cảm. Nhưng lợi ích dân tộc thì sao? Tại sao các
đảng viên cộng sản hiện nay không hy sinh vì lợi ích dân
tộc. Tại sao không một lần nữa mạnh dạn đổi tên đảng,
thành "Đảng Lao động mới" chẳng hạn. Làm như thế có
dễ hoà giải, dễ đoàn kết dân tộc hơn không? Cương lĩnh
chính trị cũng vậy, sao không thay kiên trì học thuyết
Marx-Lenin đã lỗi thời bằng con đường "dựa trên nền tảng
học thuyết Marx-Lenin, tiếp thu tinh thần những học thuyết kinh
tế chính trị khác". Học thuyết Marx-Lenin không phải sai
hết, thành tích xoá đói giảm nghèo, phổ cập giáo dục, phát
triển y tế cộng đồng… của VN hiện nay và nhiều nước
phát triển không thể không ghi nhận phần đóng góp của học
thuyết này. Như thế, sau này ai thấy học thuyết Marx-Lenin có
điểm gì hay, tiến bộ thì cứ nghiên cứu, phổ biến. Ai thấy
các học thuyết khác có điểm gì hay, tiến bộ thì cũng ra
công học hỏi, mang ra áp dụng. Làm như vậy chúng ta sẽ dễ
dàng hơn để cởi trói tư tưởng, chữa bệnh quan liêu, duy ý
chí. Thực tế cuộc sống hiện nay, khối quần chúng nhân dân
đã quen với đa nguyên tư tưởng, quen với các luồng ý kiến
khác biệt, ĐCS cũng cần thay đổi để thích ứng.
<h2>2. Địa phương tự trị</h2>
Những thay đổi như đổi tên đảng, điều chỉnh cương lĩnh
đòi hỏi nhiều hy sinh của các đảng viên cộng sản vì lợi
ích dân tộc, nhưng những người Quốc gia, những tri thức cấp
tiến, để đứng cùng đảng mới dưới lá cờ dân tộc thống
nhất, họ còn phải hy sinh nhiều hơn. Có những rào cản vô
hình nhưng vì vô hình nên cũng vô cùng khó vượt qua. Chỉ có
sự thành thật mới có thể trợ giúp cho các bên trong những
hoàn cảnh như thế. ĐCS phải thành thật muốn cải tổ, những
người đối lập phải thực muốn thành tâm hợp sức.
Những lời cam kết đôi khi không quan trọng, những thay đổi
lớn ngay tức khắc dễ dụ ngọt nhưng lại thường không bền
vững. Với hiện trạng VN bây giờ, những thay đổi nhỏ, nhưng
căn bản có thể sẽ có ích hơn cho sự thành thực của các
bên. Tôi muốn nói đến việc nâng cao tính tự trị của địa
phương. Mô hình chính quyền đô thị đã được thử nghiệm
cần được mang ra mổ xẻ, rút kinh nghiệm để áp dụng cho
toàn quốc. Những thành công trong việc xây dựng chính quyền
ở Đà Nẵng cần được tham khảo. Những thay đổi, dù nhỏ
nhất, nhưng sẽ rất khó đảo ngược nếu được người dân
tiếp nhận trực tiếp. Đó là cơ sở cho đề xuất cải tổ
tính tự trị của địa phương. Người dân mỗi tỉnh, huyện
cần được bầu trực tiếp chủ tịch tỉnh, chủ tịch huyện,
nghị viên hội đồng nhân dân tỉnh, nghị viên hội đồng
nhân dân huyện.
Các tỉnh, huyện tự xây dựng và thực hiện cho mình các chính
sách giáo dục, y tế, công thương nghiệp, giao thông, nông lâm,
tài chính… miễn sao các chính sách này không trái với Hiến
pháp, pháp luật trung ương.
<h2>3. Cải tổ Quốc hội – chế độ bầu cử</h2>
Một Quốc hội mạnh, thực sự đại diện cho ý chí nhân dân
là điều kiện tiên quyết cho tính bền vững của những cải
tổ dân chủ.
Đại biểu Quốc hội cần là những đại biểu chuyên trách.
Không một đại biểu Quốc hội nào được kiêm nhiệm các
chức vụ trong bộ máy hành pháp trung ương hay địa phương.
Đại biểu Quốc hội nên phân theo địa phương. Số đại
biểu mỗi địa phương căn cứ theo dân số, một số địa
phương đặc thù có thể được xem xét tăng thêm về số
lượng, việc này phải do Quốc hội quy định. Nên quy định
đại biểu địa phương nào, nhất thiết phải cư trú tại
địa phương đó, quy định này vừa có ý nghĩa với việc tăng
quyền lực tự trị địa phương, vừa có ý nghĩa giúp cử tri
giám sát đại biểu của mình tốt hơn, bản thân đại biểu
vì cư trú tại địa phương cũng sẽ có nhiều áp lực hơn, có
trách nhiệm hơn với tiếng nói, lá phiếu của mình tại Quốc
hội. Tuy đại diện cho địa phương, nhưng đại biểu phải
phục vụ cho lợi ích chung của quốc gia, không phải cho lợi
ích cục bộ địa phương.
Ứng cử viên đại biểu Quốc hội có thể do Đảng mới đề
cử, do Mặt trận tổ quốc đề cử hoặc tự ứng cử với
điều kiện thu thập được một số lượng chữ ký ủng hộ
nhất định. Nhất thiết phải bỏ quy định hiệp thương phi
dân chủ hiện nay.
Cần quy định rõ chế độ nguyên thủ quốc gia. Với cơ cấu
hiện hành, điều chỉnh cho phép nhân dân bầu trực tiếp Chủ
tịch nước là có khả năng thực thi cao nhất. Chủ tịch
nước sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhân dân, khi
nhận chức cần tuyên thệ trung thành tuyệt đối với tổ
quốc, hơn mọi đảng phái, ý thức hệ. Chủ tịch nước
thống lĩnh lực lượng vũ trang, chịu trách nhiệm đối ngoại,
đề xuất thành viên nội các.
Nội các có một Thủ tướng đứng đầu, chủ yếu lo công tác
đối nội, điều hành nền kinh tế. Thủ tướng và các Bộ
trưởng do Chủ tịch nước đề cử, phải được Quốc hội
thông qua, sẽ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và có thể
bị bãi miễn bởi Chủ tịch nước.
Ứng cử viên Chủ tịch nước do Đảng mới, hoặc Mặt trận
tổ quốc đề cử, hoặc ứng viên có thể tự ứng cử với
điều kiện thu thập được một số chữ ký nhất định. Dù
trong trường hợp nào cũng phải có ít nhất hai ứng viên cho
một cuộc bầu cử.
Nguyên tắc tương tự được áp dụng cho các cuộc bầu cử
tỉnh trưởng, huyện trưởng ở địa phương.
Việc vận động tranh cử là bắt buộc. Người dân cũng
được tự do tham gia quá trình đề cử, vận động, tham gia
vào công việc chính trị như mọi việc khác. Đó là quyền cơ
bản của mọi người dân. Việc người dân bày tỏ thái độ
ủng hộ người này, phê phán người kia là chuyện bình
thường ở một quốc gia có dân chủ. Không thể quy kết họ
phe phái, gây rối để bắt bớ khi họ bày tỏ thái độ chính
trị. Cần chấm dứt ngay tình trạng độc quyền hoạt động
chính trị của ĐCS hiện nay.
<h2>4. Chấm dứt tình trạng một quốc gia – hai nhà
nước</h2>
Hiện nay, cơ cấu đảng và các hội đoàn của nó tồn tại
như một nhà nước thứ hai ở VN, song song, thậm chí bên trên
nhà nước pháp định. Mỗi người dân VN nghiễm nhiên phải
gánh trên vai một lúc hai nhà nước. Tình trạng này cần chấm
dứt.
Các hội đoàn quốc gia, tiêu tốn ngân sách như: Đoàn thanh
niên, Hội phụ nữ… cần giải thể, nếu không giải thể thì
phải tự túc kinh phí hoạt động của mình. Ngân sách nhà
nước cần dùng cho các việc khác cần thiết hơn là chi vào
những hội đoàn quốc gia mà sự tồn tại của nó chỉ tạo ra
sự bất bình đẳng giữa những người trong và ngoài hội, gây
ra sự mất đoàn kết sâu rộng, trong các khối quần chúng nhân
dân.
Có thể trong giai đoạn đầu, sẽ chỉ có hai tổ chức được
cấp ngân sách hoạt động là Đảng mới và Mặt trận tổ
quốc. Nhưng ngân sách cấp cho các tổ chức này phải được
công khai và do Quốc hội quyết định, giám sát. Mặt khác,
Quốc hội có thể đề ra hạn định để hai tổ chức này
cũng phải có lộ trình để tự túc kinh phí hoạt động, chấm
dứt việc sử dụng ngân sách quốc gia.
Vấn đề quân đội phải trung thành với Đảng bây giờ mới
được đề nghị đưa vào Hiến pháp, nhưng thực tế bộ máy
chính trị trong quân đội hiện nay đã mang bản chất Đảng
trị quân đội từ lâu. Không một quốc gia dân chủ thực sự
nào có một thể chế Đảng trị quân đội như thế. Tuy nhiên,
việc ngay lập tức loại bỏ hệ thống này trong quân đội là
rất khó. Có thể bắt buộc điều chỉnh cương lĩnh tuyên
truyền của hệ thống chính trị theo hướng, loại bỏ các tôn
chỉ ý thức hệ, quy định: "Quân đội phải tuyệt đối
trung thành với tổ quốc, bảo vệ hạnh phúc, sự bình an của
nhân dân".
Hội đoàn quốc gia, cũng như chế độ công chức – biên chế
thực chất là những "hầm trú ẩn" nó giúp chính quyền
củng cố quyền lực của mình nhưng với các công chức trong
đó, nó làm nhụt ý chí tự do, động lực lao động sáng tạo.
Một công chức đã yên vị trong biên chế, anh ta có thể không
cần một chút cố gắng nào cũng sẽ có một cuộc sống bình
an và với anh ta bất cứ thay đổi nào cũng sẽ là một lựa
chọn không khôn ngoan. Anh ta sẽ bám vào biên chế bằng bất
cứ giá nào. Trên một bình diện rộng, cơ chế công chức,
biên chế hiện nay là thứ thuộc độc hại làm suy đồi sức
sống của quốc gia. Chưa kể, cơ chế này còn tạo ra một sự
bất bình đẳng, những lợi thế phi lý và những mâu thuẫn
ngấm ngầm trong tổ chức, cộng đồng xã hội. Vì thế, cùng
với việc giải thể các hội đoàn quốc gia, cần xóa bỏ cơ
cấu biên chế hiện nay. Một biện pháp mà chính quyền Đài
Loan đã áp dụng khá thành công theo Hoàng Gia Thụ là chế độ
luân chuyển công chức. Chẳng hạn, công chức phòng công chứng
quận A, có thể sẽ được luân chuyển sang quận B sau hạn kỳ
2 năm, để tránh nguy cơ công chức hành chính ngồi lâu một
chỗ cấu kết, lũng đoạn. Một kinh nghiệm khác của Đài Loan
là luân chuyển kế toán trong các doanh nghiệp nhà nước. Do
tính chất tương đồng của công việc kế toán, tránh sự cấu
kết giữa kế toán và giám đốc doanh nghiệp, khi cải cách
doanh nghiệp nhà nước, Đài Loan đã đặt ra chế độ luân
chuyển kế toán giữa các doanh nghiệp theo hạn kỳ 2 hoặc 3
năm. Đó cũng có thể là một cơ chế chúng ta có thể tham
khảo để áp dụng.
<h2> 5. Cải cách hệ thống tư pháp – thực thi tự do
ngôn luận, báo chí, xuất bản</h2>
Nhất thiết phải có một tòa án Hiến pháp độc lập, để
mọi người dân có thể bảo về quyền hợp hiến của mình.
Tổ chức lại hệ thống tư pháp, đảm bảo tính độc lập,
khả năng phán xét theo công lý của tòa án, đó là cơ sở quan
trọng cho việc xây dựng tinh thần thượng tôn pháp luật.
Nhất thiết phải bỏ ngay các điều luật phản dân chủ, bóp
nghẹt tự do ngôn luận như Điều 79, 88 và 258 Bộ luật Hình
sự. Tuyên bố thả ngay những người bị án vì lí do chính
trị.
Cải cách tư pháp có thể sẽ cần thời gian dài và gặp nhiều
vấp váp, nhưng việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, xuất bản có thể thực hiện ngay. Trước hết, là
mở cửa cho báo chí tư nhân, thực tế đã tồn tại dưới
nhiều hình thức ở nước ta. Cổ phần hóa các đơn vị báo
chí trực thuộc nhà nước hiện hành. Chuyển các cơ quan tuyên
truyền, tuyên giáo thành cơ quan nghiên cứu thuần túy. Chấm
dứt các tiêu chuẩn ý thức hệ trong kiểm duyệt xuất bản.
<h2> 6. Tổ chức cơ quan thống kê độc lập</h2>
Thiết kế Tổng cục thống kê trực thuộc Bộ Kế hoạch –
Đầu tư hiện nay có nguy cơ bị lũng đoạn cao, ở khía cạnh
các con số có thể bị làm sai lệch một cách có chủ đích
để bảo vệ lợi ích của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa
phương liên quan. Trong một nền kinh tế hội nhập, những con
số thống kê hết sức phức tạp và quan trọng. Nó đặc biệt
quan trọng với những quốc gia như VN, khi trong trường hợp có
cải tổ thì khu vực kinh tế nhà nước, bàn tay nhà nước trong
nền kinh tế vẫn sẽ giữ vị trí quan trọng. Các con số
thống kê khách quan, chính xác sẽ là cơ sở để các quyết
sách đúng đắn được đưa ra, cơ sở để các chuyên gia độc
lập đưa ra các khuyến nghị chính xác.
Vì thế nhất thiết cơ quan thống kê cần được độc lập
với chính phủ, có thể hoạt động như một cơ quan độc lập
của Quốc hội, chịu sự giám sát của Quốc hội.
<h2>Chương 4
Cải cách giáo dục – chấn hưng văn hoá</h2>
<h2>1. Thiết kế hệ thống giáo dục theo nguyên tắc
"Tự trị – Thực hành"</h2>
Tôi thấy những thảo luận về triết lý giáo dục là chủ
đề vô cùng theo nghĩa có nhiều trường phái, luôn xuất hiện
các trường phái mới và kết quả có thể là đi đến những
lý luận vòng quanh mà những sửa đổi quan trọng thì lại
không thể đưa ra. Vì thế ở đây tôi sẽ chú trọng đến
việc "Thiết kế Hệ thống giáo dục". Hệ thống giáo dục
của Pháp đã áp dụng ở Việt Nam trước năm 1945 cần được
coi là có giá trị tham khảo tốt. Hệ thống giáo dục của này
đã được hình thành và áp dụng trong một quá trình dài lâu
cùng với quá trình khai thác thuộc địa ở VN, nên sẽ có
những cơ sở cho niềm tin vào sự thích ứng tương đối với
thực trạng VN hiện nay.
Mặt khác, nếu bỏ qua những yếu tố khai thác thuộc địa thì
hệ thống giáo dục này vẫn giữ những tinh thần tự do cơ
bản của nước Pháp trong giáo dục và đặc biệt, vì mục
tiêu khai thác của nó, trong nhiều thiết kế của hệ thống
này có giá trị thực tiễn, tính thực thi cao với chi phí thấp
cho chủ thể nhà nước, đặc biệt trong khu vực đào tạo
nghề chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
Cơ sở của hệ thống này là nguyên tắc tự trị. Khi đề
cập đến nguyên tắc tự trị, tức là đồng thời chúng ta
phải gỡ bỏ những rào cản hiện nay của giáo dục nước ta.
<h3>Rào cản đầu tiên là rào cản ý thức hệ.</h3>
Đất nước Việt Nam là của người Việt Nam hay là của ông
Marx-Lenin?
Là của người Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam là của người Việt Nam hay của ông
Marx-Lenin?
Là của người Việt Nam.
Vậy tại sao chương trình giáo dục từ phổ thông đến đại
học, cao học… học thuyết Marx-Lenin phải chiếm vị trí độc
tôn như hệ thống triết học, đạo đức, tư tưởng duy nhất?
Cần loại bỏ tình trạng này trong thiết kế chương trình giáo
dục mới. Cần đặt học thuyết Marx-Lenin đúng vị trí của
nó, chỉ là một phần nhỏ trong thế giới tư tưởng nhân
loại, trong hệ thống tư tưởng, học thuyết cần cho sự giáo
dục đào tạo người Việt Nam.
Rào cản thứ hai là rào cản biên chế. Việc loại bỏ biên
chế đã nói ở trên đương nhiên cũng cần áp dụng cho ngành
giáo dục. Tôi thấy cơ chế biên chế hiện đang tạo ra một
sự bất bình đẳng và tiêu cực lớn trong ngàng giáo dục. Nó
là một trong những nguyên nhân làm giảm chất lượng, suy đồi
đạo đức giáo viên và qua đó là chất lượng giáo dục. Rất
khó đòi hỏi một giáo viên phải mất hàng chục, thậm chí
hàng trăm triệu đồng để chạy vào biên chế một sự lành
mạnh, nguyên vẹn trong tâm hồn mình.
Rào cản thứ ba là rào cản ngân sách và sự phụ thuộc của
địa phương, các trường đại học, cao đẳng vào ngân sách
nhà nước. Đây thực chất là mô hình quản lý nhà nước tập
trung, xuyên suốt từ trung ương đến địa phương. Trong một
trình độ phát triển thấp, số lượng trường lớp, học sinh,
sinh viên có giới hạn mô hình này có thể phát huy hiệu quả.
Nhưng trong một trình độ giáo dục phát triển cao, nhu cầu
đào tạo đa dạng, số lượng trường lớp, học sinh sinh viên
lớn mô hình này sẽ trở thành một rào cản, ngáng trở sự
phát triển.
<h3>Với hệ thống giáo dục phổ thông</h3>
Loại bỏ được sự độc quyền ý thức hệ là cơ sở để
gỡ bỏ sự độc quyền viết, xuất bản phổ biến sách giáo
khoa, sách tham khảo ở các cấp học.
Trong nền giáo dục Pháp thuộc cũ, chương trình học do nhà
nước quy định có tính cách bắt buộc trong việc giảng dạy
nhưng sách giáo khoa lại hoàn toàn do các nhà xuất bản mời
người biên soạn. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều giáo trình
do các học giả VN, Pháp soạn thảo theo nguyên tắc này như:
Văn học Sử yếu của Dương Quảng Hàm, Việt Nam Sử lược
của Trần Trọng Kim… Thiết kế này vừa tạo ra tính tự chủ
cho các soạn giả, nhà giáo trong việc lựa chọn và thiết kế
bài giảng, khuyến khích các học giả, nhà giáo nghiên cứu
phát triển học thuật, sáng tạo tự do trong bài giảng. Mở
cửa việc soạn thảo sách giáo khoa cho các cá nhân, tổ chức
đồng thời tạo ra một khả năng lựa chọn đa dạng, cơ sở
để có những sản phẩm sách tốt.
Thiết kế này đi liền với tính tự chủ của trường học,
địa phương. Chẳng hạn cùng một chương trình toán cấp 3,
sẽ có 5 bộ sách tham khảo của 5 nhóm tác giả khác nhau. Khi
đó, việc chọn sách nào để dạy cho học sinh trong một
trường A sẽ do Hội phụ huynh học sinh trường đó biểu
quyết, quyết định. Nếu Hội phụ huynh không tự biểu quyết
có thể trao quyền cho Hội đồng nhà trường. Việc lựa chọn
sách có thể phân chia theo các nhóm học khác nhau nếu theo
chương trình phân ban. Điểm cốt yếu trong thiết kế này là
sự tự chủ của nhà trường, phụ huynh học sinh (đại diện
cho học sinh), trong việc lựa chọn sản phẩm giáo dục cho con
em mình.
Địa phương tự chủ về giáo dục, nghĩa là các địa phương
hoàn toàn tự chủ trong việc chi ngân sách, chiến lược phát
triển cơ sở hạ tầng, thu hút đào tạo nhân lực… dưới
sự giám sát của hội đồng nhân dân địa phương. Địa
phương tự chủ về giáo dục đồng nghĩa với việc để địa
phương chủ động trong việc chi trả lương cho giáo viên cấp
học phổ thông. Mức lương có thể cần được quy định để
đảm bảo một cuộc sống ổn định cho giáo viên trong mọi
hoàn cảnh. Với những địa phương có khó khăn về ngân sách,
trung ương có thể có những cơ chế hỗ trợ đặc thù.
<h3>Với hệ thống đào tạo nghề chuyên nghiệp, cao đẳng,
đại học</h3>
Thứ nhất, chúng ta có thể cân nhắc tiếp tục phát triển các
trường vừa học vừa làm theo mô hình hiện nay. Theo mô hình
này, những học sinh chỉ cần tốt nghiệp phổ thông cơ sở
(lớp 9) có thể vào học các trường này, vừa tiếp tục học
văn hóa tương đương cấp phổ thông trung học, vừa học
nghề.
Thứ hai, hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng. Từ Cao
đẳng ở đây tôi dùng theo nghĩa Cao đẳng École Supérieure –
khác với trường gọi là cao đẳng hiện nay ở VN.
Tôi thấy xu thế bỏ các trường cao đẳng (cao đẳng của
Việt Nam hiện nay), trung cấp nghề hiện nay của Việt Nam là
phù hợp. Các trường này có thể gộp trung vào các trường
đào tạo nghề vừa học vừa làm đã nói ở trên.
Trong hệ thống đào tạo cao nhất, chỉ nên gồm các trường
Đại học (Université) và Cao đẳng (École Supérieure).
Chúng ta hãy tham khảo học chế đã được người Pháp áp
dụng tại Việt Nam cho bậc học Cao đẳng và Đại học.
Trường Cao đẳng (École Supérieure) là loại trường chuyên
nghiệp, nhập học phải hội đủ điều kiện văn bằng đòi
hỏi (tốt nghiệp phổ thông trung học) và qua một kỳ thi
tuyển (concours). Trúng tuyển được cấp học bổng ăn học
suốt học trình. Tốt nghiệp phải làm việc cho chính quyền
một thời gian ấn định, nếu không, theo nguyên tắc, phải
bồi thường tiền học bổng. Các trường cao đẳng, đào tạo
các chuyên viên có nghề nghiệp nhất định như bác sĩ, kỹ
sư, công chức, giáo sư… Đây là những nghề nghiệp đòi hỏi
trình độ chuyên môn cao, cần những tiêu chuẩn khắt khe về
nghề nghiệp, người ra trường thường chỉ có thể làm
được đúng nghề mình được đào tạo (khó có thể làm trái
ngành). Các trường này có thể coi là thuộc hệ thống trường
công do nhà nước bỏ chi phí đào tạo (một phần) và phục
vụ các mục tiêu chiến lược của nhà nước.
Chúng ta, hiện nay có thể áp dụng mô hình này trong việc quản
lý chất lượng giáo dục, về chi phí đào tạo, có thể nhà
nước chỉ chi trả (dưới dạng cấp học bổng) cho những
ngành đào tạo này gắn với nguồn nhân lực nhà nước cần,
mà thị trường đào tạo không hoặc khó có khả năng cung cấp
như: Kỹ sư nông nghiệp, bác sỹ cộng đồng, công chức hành
chính, giáo viên phổ thông… Ngoài ra các ngành nghề khác mà
thị trường có nhu cầu cao, có khả năng kiếm việc dễ và thu
nhập cao, sinh viên phải tự túc học phí, nhà nước chỉ hỗ
trợ thông qua các chương trình cho vay vốn. Đương nhiên khi
đó, ra trường sinh viên tự túc tìm việc làm.
Hệ thống trường Đại Học (Université) có thể xếp vào hệ
thống trường tư muốn nhập học các trường đại học chỉ
cần đủ điều kiện về văn bằng đòi hỏi mà không phải qua
một kỳ thi tuyển. Việc thu nhận sinh viên không hạn định
tuổi tác và số lượng. Sinh viên phải tự túc về học phí
(ngoại trừ những sinh viên xuất sắc được học bổng). Khi
tốt nghiệp chính quyền không có nhiệm vụ cung cấp việc làm,
cá nhân phải tự tìm kiếm. (Tham khảo: Trần Bích San – Thi
cử giáo dục Việt Nam dưới thời Pháp).
Đất nước ta không thể đứng một mình một cõi. Dân số
nước ta cũng không thể đông như người Trung Quốc để có
thể lấy số đông mà áp chế người. Ai cũng biết chúng ta
cần hội nhập, cần phát triển. Hội nhập, phát triển thì
không thể đóng khung tư tưởng con em mình, đóng khung nền giáo
dục nước nhà như những "Con ngựa già của chú Trịnh"
chỉ thấy một bầu trời nhỏ hẹp qua khe mắt.
<h2>2. Chấn hưng văn hóa</h2>
Cải cách giáo dục, gỡ bỏ áp chế về tư tưởng cần đi
đôi với việc chấn hưng văn hóa. Học giả Nguyễn Khắc Viện
trong cuốn Đạo và Đời có kể một câu chuyện rất đáng suy
nghĩ như sau: Ông kể rằng thời trẻ, ông một anh học trò Tây
học, dù biết rằng mình hơn hẳn những anh nhà nho quần chùng
áo dài khi đó về kiến thức khoa học, thậm chí địa vị
trong xã hội, nhưng vẫn có một cái gì đó mặc cảm. Vẫn
thấy ở anh nhà nho kia cái gì đó nể vì, dù biết rằng anh ta
hủ lậu. Sau đó, Nguyễn Khắc Viện đã giải thích sự nể vì
đó là hồn cốt, là cái cao quý của nhà nho, là cái văn hóa
của dân tộc. Với chương trình Tây học Nguyễn Khắc Viện
học được thật nhiều kiến thức, nhưng lại thật ít đạo,
đạo làm người, đạo trời đất, đạo ở đời, những thứ
mà bất kỳ anh khóa nào cũng vượt trội hơn hẳn mình. Điều
đó không khó giải thích vì những bài học chữ nghĩa đầu
tiên của các nhà nho đã đều là các bài học đạo lý thâm
sâu về trời đất con người "nhân tri sơ, tính bản
thiện". Không chỉ học, các nhà nho, các anh khóa còn áp dụng
và có ý thức áp dụng ngay những đạo lý mình đã học thành
châm ngôn hành động của mình.
Ngày nay, ta có thể gặp không ít người nhiều năm sống ở
trời Tây, theo học có bằng cao học, tiến sỹ ở châu Âu mà
vẫn mang một đầu óc đầy định kiến và ấu trĩ. Tinh thần,
văn hóa phương Tây không dễ gì tiếp nhận được ngày một
ngày hai. Phương pháp khoa học, phương pháp nghiên cứu chỉ
cần cố gắng trong vài tháng vài năm là có thể lĩnh hội
được, nhưng cái tinh thần, hồn cốt căn bản thì đòi hỏi
rất nhiều.
Để có được tinh thần khoa học, tinh thần dân chủ tự do
bây giờ người phương Tây đã có một lịch sử phát triển
dài lâu, hồn cốt của tinh thần này họ truyền qua thế hệ
con cháu từ thói quen, tập tục đến những tác phẩm nghệ
thuật, thơ ca, văn chương, hội họa, âm nhạc… Hiểu và lĩnh
hội những thứ đó cần một sự nỗ lực thực sự và một
thời gian đủ lớn để trải nghiệm.
Nền nho học cũ của chúng ta đã không giúp quốc gia chống
chọi với đại bác thực dân Pháp, nhưng ít ra nó, với lực
lượng đông đảo các nho sinh, ông tú, ông cử trải rộng, đi
sâu khắp xã hội, cũng giúp phổ biến, gìn giữ, những phẩm
giá cao quý của con người. Nền nho học, có thể cần được
nhìn nhận theo cách khác, không phải chỉ đào tạo ra những
người đi làm quan, mà còn đạo tạo ra những người quân tử
trong cộng đồng. Nhà nho trong một cộng đồng, dù ở chức
vị nào cũng là biểu trưng cho văn hóa, cho những giá trị cao
đẹp và bản thân họ cũng ý thức, gìn giữ những giá trị
này, khác hẳn với các quan chức công quyền hiện nay. Đó là
điều chúng ta cần suy nghĩ nghiêm túc.
Chúng ta cùng suy nghĩ lại thật nghiêm túc về nền giáo dục,
về sự nghiệp chấn hưng văn hóa ngày nay, khi có lẽ chúng ta
ngày nay đã chỉ "hớt váng" những thành quả khoa học
phương Tây, chưa đi sâu được vào căn cốt, lại đồng thời
mai một những giá trị, những hồn cốt cao quý của dân tộc.
Cũng học giả Nguyễn Khắc Viện đã đánh giá, sau cách mạng
tháng 8, đặc biệt là sau phong trào đưa trí thức về nông
thôn, văn học VN đã tiếp nhận được một làn gió mới với
các sáng tác từ đồng ruộng đi ra. Người nông dân rũ bùn,
gạt mồ hôi bước vào văn học, các sáng tác về người nông
dân, của chính những người nông dân nở rộ hơn bao giờ
hết, đẩy lùi trào lưu văn học lãng mạn tiểu tư sản những
năm 1930. Bỏ qua một vài khía cạnh tích cực của trào lưu này
thì tôi cho rằng hệ quả tiêu cực của nó, cùng với Nhân văn
Giai phẩm, cùng với nạn Sùng bái cá nhân, nền văn học, văn
hóa nước nhà đã có một cuộc đảo lộn ngoạn mục và kinh
khủng, văn hóa tiểu nông lên ngôi. Những tri thức, những tinh
hoa dân tộc bị đẩy lùi, bị giam hãm vào một góc tối không
thể nào cựa quậy được. Đó là bi kịch cho bất cứ một
dân tộc nào gặp phải.
Trong Việt Nam văn hóa sử cương học giả Đào Duy Anh đã nhận
định trong mỗi người Việt Nam có một ông quan và một nhà
thơ. Một ông quan có vẻ gì đó kiêu bạc và một nhà thơ có
tâm hồn mơ mộng. Tôi hiểu ý của Đào Duy Anh là phê phán,
chính ông quan và nhà thơ này, vì kiêu bạc, vì mơ mộng đã
thực không phải là những con người hành động, để cải
tổ, để canh tân để đổi mới đất nước, mà gần nhất
(thời Đào Duy Anh) là giúp dân tộc VN tránh được gần 100 năm
nô lệ thực dân.
Nhưng cũng với "ông quan và nhà thơ" ngày nay, nếu một mặt
"ông quan ngày nay" vẫn giữ được cốt cách của người
quân tử, một mặt vẫn không ngừng cởi mở học hỏi không
ngừng, không chịu thua kém tụt hậu với bạn bè lân bang thì
lại là tốt. Còn "nhà thơ", chẳng phải cả người châu Âu
hiện nay đang tìm lại bản năng xúc cảm, đề cao trí tưởng
tượng hay sao? Sao không biến tinh thần nhà thơ này thành tinh
thần tiến thủ, tinh thần dám phiêu lưu mạo hiểm, dám đối
mặt với mọi nguy nan, dám thám hiểm, khám phá mọi chân trời
mới dù đó là chân trời địa lý hay tri thức – khoa học?
Tôi đã thấy những xu hướng mới đáng khích lệ, các bậc cha
mẹ ngày nay đã quan tâm hơn đến sự phát triển trí tuệ, văn
hóa của con mình, không chỉ dừng ở việc học trên lớp.
Nhiều bàn luận về văn hóa đọc, cách đọc, khuyến khích con
đọc sách đã được đưa lên báo chí, diễn đàn thảo luận.
Theo tôi cách tốt nhất để tạo cho con mình có thói quen đọc
sách là bản thân mình hãy có thói quen đọc sách. Khi con cái
thấy mình đọc thì tự chúng sẽ tìm đến sách mà đọc. Khi
con cái thấy nhà có tủ sách đủ loại thì tự chúng nó có
hứng mà đọc, tò mò mà đọc. Đọc sách cũng đừng cầu mong
tìm ngay tri thức như tìm hòn ngọc, viên kim cương. Tôi chẳng
thấy có quyển sách nào có thể là kim chỉ nam cho cả đời
người. Sách chỉ nên coi là bạn, bạn đường, bạn tâm sự,
những ý tưởng, những gợi cảm từ cuốn sách chỉ nên coi là
chất xúc tác cho ta suy tư hơn là tìm kiếm dễ dãi một phương
thức hành động, một triết lý để ta bám vào đó mà theo.
Tự ta phải suy tư là căn bản.
Tôi cũng thấy nhiều người quá chú trọng vào việc chọn
sách, cách đọc sách. Theo tôi thì mỗi người có một cách
đọc khác nhau, mỗi người có một gu đọc khác nhau, hình
thành trong chính quá trình tìm, đọc sách của họ. Hãy bắt
đầu bằng những cuốn sách, những vấn đề mình quan tâm
thích thú, dần dần bạn sẽ có cách đọc, có gu đọc sách
của riêng mình. Những bài điểm sách, những bài giới thiệu
sách của các học giả có uy tín có thể giúp bạn nhanh chóng
hơn trong việc tìm kiếm các chủ đề, cuốn sách mình quan tâm,
nhưng điều đó không thể thay thế cho việc đọc. Có một
học giả đánh giá cao ông Tập Cập Bình – TBT Trung Quốc vì
"ông Bình là lãnh đạo biết đọc sách. Người đọc sách có
khả năng tư duy các vấn đề phức tạp".
Google, Vikipedia ngày nay có thể cung cấp cho ta ngay lập tức
hầu như mọi kiến thức phổ thông; báo chí, đặc biệt là
báo điện tử có thể cung cấp cho chúng ta thông tin 24/24; nhưng
việc kiên nhẫn đọc hết một quyển sách đọc, lĩnh hội
được ý nghĩa toàn thể của nó chắc chắn sẽ là một trải
nghiệm tư duy khác, một sự rèn luyện trí tuệ khác.
Nói về chuyện đọc sách mở mang kiến thức là nói đến thị
trường sách, môi trường học thuật. GS Trịnh Văn Thảo trong
cuốn Ba thế hệ tri thức người Việt đã có ý nuối tiếc và
cả kỳ vọng về một trào lưu học thuật, tư tưởng của
một thế hệ tri thức người Việt vừa nhen nhóm và đã vội
lụi tắt ở miền Nam trước năm 1975.
Vậy sao chúng ta ngày không cùng chung tay để khơi lại những
mạch nguồn này. Đừng chờ đợi. Chúng ta không muốn làm nô
lệ thì chúng ta phải tự thân vận động. Hãy làm những việc
chúng ta coi là có ích trong phạm vi năng lực của mình và sẵn
sàng hợp tác với những người đồng chí hướng. Khi chúng ta
chờ đợi và trông cậy vào chính quyền vào nhà nước là
chúng ta đã chui một nửa người vào vòng áp chế, nô lệ của
chính quyền. Người Mỹ không làm thế.
Khi nghiên cứu về nền dân trị Mỹ A.Tocqueville đã thấy tinh
thần tự chủ của từng người dân Mỹ chứ không phải thiết
kế khôn ngoan đã giúp người Mỹ có một nền dân trị tốt
đẹp. Trước khi kêu gọi sự trợ giúp của chính quyền, dù
đó là một việc làm vì lợi ích chung, người Mỹ sẽ tự
làm, tự vạch ra kế hoạch hành động và kêu gọi người khác
cùng chung tay. Tinh thần tự chủ này, đến nay ta vẫn còn
thấy, qua các cơn khủng hoảng như sau vụ khủng bố 11/9,
người ta thấy những người dân Mỹ tự tập hợp nhau thành
nhóm để bảo vệ các cửa hàng, cửa hiệu của ngưởi Ả
Rập trước khi chờ đợi lực lượng cảnh sát của chính
quyền tìm đến.
Ngày nay, Việt Nam chúng ta cũng có thể tìm thấy những tấm
gương tự chủ như thế, nhóm Cánh Buồm trong giáo dục, chương
trình Tủ Sách Nông Thôn của anh Nguyễn Quang Thạch, nhóm Cơm
Có Thịt của nhà báo Trần Đăng Tuấn, nhóm Áo ấm biên
cương… cùng rất nhiều các nhóm từ thiện khác. Đó là
những ví dụ tiêu biểu cho tinh thần tự chủ. Chúng ta cần
thật nhiều, những con người, những nhóm có tinh thần tự
chủ như thế ở nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt trong
lĩnh vực học thuật. Việc xuất bản các tập san, các tạp
chí được tổ chức tốt, có tính học thuật cao sẽ không
chỉ là môi trường để những nhà nghiên cứu, học giả thi
thô tài năng, khuyến khích nghiên cứu, sáng tạo.. mà còn giúp
xã hội nhìn nhận ra những giá trị đích thực, những học
giả đích thực. Đừng chờ đợi chính quyền, chúng ta, mỗi
người hãy thử nghĩ xem liệu có thể làm được những gì thì
hãy bắt tay ngay vào làm.
<h2>Lời kết</h2>
Đề ra một chương trình cải tổ cho cả một đất nước,
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng là một sự mạo hiểm to
lớn. Nhưng vì e ngại mạo hiểm mà tất cả bó tay, chùn gối
thì đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ đi đến đâu?
Trên tinh thần tự chủ, bắt tay ngay vào việc đã thúc đẩy
chính tôi quyết định viết ra chương trình này. Tôi cũng xin
hết sức lưu ý, những ý kiến đưa ra ở đây cần được
nhìn nhận thật đúng mức, đó là ý kiến của một cá nhân
đưa ra để cùng thảo luận, chia sẻ, vì thế, nó mang mọi
hạn chế của cá nhân đề xuất ra nó và mọi tính khả nghi
chân lý. Tôi cho rằng, bất cứ ý kiến nào đưa ra sai hay
đúng, nếu được thảo luận dân chủ, tự do cuối cùng chân
lý sẽ lộ diện, đó cũng chính là ưu thế của dân chủ, tự
do mà độc tài, áp chế không thể có.
Nhà thơ Gia Hiền đã ngậm ngùi viết: "Thế hệ tôi/một thế
hệ cúi đầu".
Nhưng tại sao? Tại sao? Tại sao?
Tại sao chúng ta không phải là một thế hệ ngẩng mặt? Một
thế hệ dấn thân? Một thế hệ thay đổi?
Chỉ cần ngay hôm nay mỗi người, hãy thử thay đổi thái độ
của mình, thử một lần vượt lên lợi ích cá nhân, lợi ích
phe nhóm. Hãy thử một lần vượt lên oán thù, vượt lên
định kiến ý thức hệ. Hãy thử một lần đặt dân tộc lên
trên hết, chúng ta, dân tộc chúng ta sẽ có một tương lai
khác.
<strong>Nguyễn Đắc Kiên</strong>
Tải xuống bản pdf: <a
href="http://dackien.files.wordpress.com/2013/05/document-f.pdf">MỘT CON
ĐƯỜNG CẢI TỔ</a>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/node/20321), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét