Nhà nước đảng trị – Nền chuyên chính của đảng là linh hồn, trí tuệ và bản chất của hệ thống

<blockquote><div class="boxleft200"><img
src="http://www.procontra.asia/wp-content/uploads/2013/03/Milovan-Dilas_-Nova-klasa.jpg"
/></div>
<strong>pro&contra</strong> – Điều 4 trong Hiến pháp Việt Nam là
một trở ngại căn bản cho tiến trình dân chủ hóa đất
nước, điều đó không có gì cần bàn cãi. Song ngay cả khi nó
phải rút lui về mặt hình thức khỏi văn bản này và cánh
cửa thủ tục quan trọng đầu tiên cho tiến trình dân chủ
được mở ra thì đằng sau cánh cửa đó, nền chuyên chính
của Đảng Cộng sản vẫn còn được bảo tồn mạnh mẽ bằng
trùng trùng lớp lớp những định chế khác, trong đó một
phần rất lớn là những định chế bất thành văn. Những
nhận định cách đây gần 60 năm của nhà bất đồng chính
kiến Milovan Đilas, từng là Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng
sản Nam Tư và hoạt động ở thượng tầng phong trào cộng
sản quốc tế, cho chúng ta thấy nền tảng của chuyên chính
đó. Đoạn trích sau đây rút từ tác phẩm <em>Giai cấp mới.
Phê phán hệ thống cộng sản</em> (<em>Nova klasa. Kritika savremenog
komunizma, </em>1955). <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=5503&amp;rb=08">Bản
dịch tiếng Việt của Phạm Minh Ngọc</a> đăng trên talawas năm
2005.</blockquote>

<strong>1.</strong>

Cơ chế quyền lực cộng sản có thể là cơ chế đơn giản
nhất mà người ta có thể nghĩ ra được, kết quả là nó tạo
ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man
nhất.

Cơ chế này cực kì đơn giản, tại chóp bu của mọi hoạt
động chính trị, kinh tế và tư tưởng là một đảng duy
nhất, đảng của những người cộng sản. Xã hội giậm chân
tại chỗ, hay vận động với tốc độ rùa bò hay lao vào
những khúc quanh chóng mặt, tất cả phụ thuộc vào các quyết
định của tổ chức đảng.

Vì vậy công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều
gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là
luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và
thần dân của nó đã trở thành "phương hướng hành động"
chung cho tất cả mọi người.

Ai cũng hiểu rằng quyền lực, bất chấp luật pháp, nằm trong
tay các tổ chức đảng và cảnh sát mật. "Vai trò lãnh đạo
của đảng" không thấy ghi trong bất kì điều luật nào,
nhưng lại thấm vào mọi tổ chức và mọi lĩnh vực hoạt
động; không thấy ở đâu nói rằng cảnh sát mật của đảng
có quyền theo dõi các công dân, nhưng cảnh sát vẫn là lực
lượng đầy uy quyền; không có tài liệu nào nói rằng toà án
và viện kiểm sát phải báo cáo với tổ chức đảng và cảnh
sát mật, nhưng sự thật là như thế. Sự thật là như thế
đối với nhiều người đã không còn là bí mật, đa số đều
biết. Người ta cũng biết rằng cái gì được phép, cái gì
bị cấm và ai có quyền cấm. Đấy là lí do vì sao người ta
có thể thích ứng được với hiện thực và bất kì vấn đề
gì họ cũng giải quyết với tổ chức đảng hoặc tổ chức
nằm dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng.

Việc quản lí các tổ chức xã hội được thực hiện bằng
một phương pháp đơn giản sau đây: các đảng viên ở đó
thành lập đảng đoàn và đưa ra mọi quyết định sau khi đã
thoả thuận với cấp lãnh đạo bên trên. Đấy chỉ là sơ
đồ chung. Trong thực tế, nếu tổ chức do một người có
quyền lực trong đảng lãnh đạo thì nó không cần phải thoả
thuận về những vấn đề không quan trọng với ai hết. Ngoài
ra, những đảng viên đã quen với hệ thống sẽ biết vấn
đề nào là quan trọng, vấn đề nào không vì cấp trên chỉ
quan tâm đến những vấn chung, có tính nguyên tắc hay có tính
chất đặc biệt mà thôi. Đảng đoàn tồn tại để khi cần
có tiếng nói cuối cùng của đảng, còn những người bầu ra
tổ chức ấy nghĩ gì thì nó không thèm quan tâm.

Cội nguồn của phương pháp quản lí và thực thi quyền lực
của đảng, cũng như của chế độ toàn trị cộng sản và giai
cấp mới xuất phát từ giai đoạn chuẩn bị cách mạng của
đảng. Chính những đảng đoàn trước đây đã phát triển,
phân nhánh, hoàn thiện và đóng vai trò lãnh đạo trong các cơ
quan chính quyền và tổ chức xã hội. Chính lí thuyết về vai
trò tiên phong của đảng của giai cấp công nhân tạo ra "vai
trò lãnh đạo của đảng" trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trước cách mạng, lí thuyết này đã trui rèn
nên lực lượng cán bộ cho cách mạng, nay nó lại đóng vai trò
biện hộ cho chế độ toàn trị của giai cấp mới. Thật ra
cũng có một chút khác biệt. Trước đây, cách mạng và những
hình thức của nó là việc không tránh khỏi, thậm chí là nhu
cầu của bộ phận xã hội nhằm hướng đến tiến bộ kinh
tế và kĩ thuật.

Nhưng thoát thai từ cách mạng, bạo lực toàn trị và ách
thống trị của giai cấp mới đã trở thành núi đá đè lên
xã hội, làm cho xã hội kiệt sức vì mất bao mồ hôi, xương
máu. Một vài hình thức cách mạng đã trở thành phản động.
Đảng đoàn là một trong những hiện tượng như thế.

Việc điều hành dưới chế độ cộng sản được bộ máy nhà
nước thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất: theo chức năng
như đã nói ở trên. Về nguyên tắc đây là phương pháp chủ
yếu. Nhưng trên trên thực tế phương pháp thứ hai: một số
chức vụ của chính quyền chỉ được giao cho các đảng viên
lại hay được áp dụng. Đấy là những vị trí được coi là
quan trọng đối với mọi chính quyền, đặc biệt là chính
quyền cộng sản: cảnh sát, trước hết là cảnh sát mật,
ngoại giao đoàn và tầng lớp sĩ quan, nơi công tác chính trị
và tình báo được coi là công tác chủ yếu. Chỉ các cơ quan
trung ương của ngành tư pháp mới bị kiểm soát một cách
nghiêm ngặt: cơ quan này thuộc quyền các tổ chức đảng và
cảnh sát nhưng lương thấp nên không hấp dẫn. Xu hướng chung
là làm cho ngành này trở thành hấp dẫn hơn, có nhiều bổng
lộc hơn để lôi kéo các đảng viên. Khi đó việc quản lí
ngành tư pháp sẽ dễ dàng hơn hoặc thậm chí không cần thiết
nữa: toà án sẽ xử theo đúng đường lối chung của đảng,
nghĩa là theo đúng "tinh thần xã hội chủ nghĩa".

Chỉ có trong chế độ cộng sản mới có việc một số ngành
chức năng (đã liệt kê và cả những ngành khác nữa) mới bị
các đảng viên hoàn toàn khống chế. Chính quyền cộng sản dù
mang tính giai cấp về nội dung lại mang tính đảng về hình
thức, quân đội của đảng, nhà nước do đảng lãnh đạo.
Nếu nói cho thật đúng thì người cộng sản có xu hướng coi
nhà nước và quân đội là vũ khí của riêng mình.

Dù không được thể hiện trên bất cứ tài liệu nào nhưng
chỉ có đảng viên mới có quyền trở thành cảnh sát, sĩ quan
quân đội, trở thành các nhà ngoại giao, nghĩa là các đảng
viên và chỉ có các đảng viên mới có quyền giữ các chức
vụ quyền lực, thực thi quyền lực, điều đó không chỉ tạo
ra một tầng lớp quan liêu, tầng lớp ưu tú mà còn đơn giản
hoá cơ chế quản lí. Bằng cách đó đảng đoàn đã bao gồm
ở mức độ này hay mức độ khác tất cả những người làm
việc trong các lĩnh vực này. Kết quả là các cơ quan đó trở
thành một trong những bộ phận của công tác đảng, đảng
đoàn biến mất.

Vì vậy trong các chế độ cộng sản không có sự khác biệt
của các cơ quan đó với các tổ chức đảng, nhất là giữa
đảng và cảnh sát mật. Đảng và cảnh sát liên hệ mật
thiết với nhau trong hoạt động hàng ngày, sự khác nhau chỉ
còn là phân công lao động. Đảng, có thời đã là người tổ
chức quần chúng, thì nay đã trở thành một bộ máy.

Toàn bộ cơ chế quyền lực được thực hiện theo sơ đồ sau:
các cơ cấu chính trị là đặc quyền của các đảng viên, các
cơ quan ban ngành khác thì hoặc do các đảng viên nắm giữ
hoặc bị họ kiểm soát một cách gắt gao. Chỉ cần ở trung
ương diễn ra cuộc họp hoặc công bố một bài báo là toàn
bộ bộ máy sẽ đi vào vận hành. Chỉ cần một nơi nào đó
có trục trặc là đảng và cảnh sát sẽ can thiệp ngay.

<strong>2.</strong>

Nếu đảng cộng sản không phải là một đảng đặc biệt thì
hình thức nhà nước đó không thể nào tồn tại được.

Trên kia đã nói đến tính chất đặc biệt của đảng cộng
sản. Nhưng vẫn cần phải nói thêm một loạt biểu hiện đặc
thù nữa ngõ hầu làm rõ bản chất của nhà nước cộng sản.

Đảng cộng sản là đảng đặc biệt không chỉ vì nó là
đảng cách mạng, tập trung, có kỉ luật nhà binh, có những
mục tiêu cụ thể… Tất cả những điều vừa nói đều là
những tính chất đặc biệt của nó cả.

Có cả những đảng khác với những tính chất gần như thế.

Nhưng chỉ có trong đảng cộng sản thì sự thống nhất về tư
tưởng, sự thống nhất về thế giới quan và quan điểm trong
việc xây dựng xã hội mới là bắt buộc với mọi đảng
viên. Dĩ nhiên là mệnh lệnh này chỉ là bắt buộc đối với
các cơ quan đầu não, các cơ quan cấp cao mà thôi. Các cấp bên
dưới về hình thức cũng phải tuân thủ sự thống nhất về
tư tưởng nhưng thực ra trách nhiệm của họ chính là: thực
thi các nghị quyết. Nhưng xu hướng chung là phải nâng cao trình
độ của cấp dưới để họ luôn nắm được quan điểm của
lãnh tụ.

Dưới thời Lenin sự bất đồng quan điểm vẫn còn được
chấp nhận. Lenin không cho rằng tất cả các đảng viên đều
bắt buộc phải có quan điểm hoàn toàn giống nhau, mặc dù
chính ông là người khởi xướng việc lên án và loại bỏ
khỏi hàng ngũ của đảng những quan điểm mà ông cho rằng
không hoàn toàn mác-xít, hay thiếu tính đảng, nghĩa là những
quan điểm mà theo ý ông là không có tác dụng củng cố đảng.
Ông đã xử lí các nhóm đối lập trong đảng không phải theo
kiểu của Stalin: không bắn giết mà chỉ bịt miệng. Dưới
quyền ông người ta còn được thảo luận và biểu quyết.
Chế độ toàn trị chưa hoàn toàn thắng thế.

Đối với Stalin thì sự thống nhất về tư tưởng, thống
nhất về chính trị là điều kiện để trở thành đảng viên.
Đấy là đóng góp trực tiếp của Stalin vào lí luận về
đảng kiểu mới. Điều đáng chú ý là luận điểm về sự
thống nhất tuyệt đối về tư tưởng được ông ta phát biểu
ngay từ khi còn rất trẻ. Dưới triều Stalin sự thống nhất
về tư tưởng là điều kiện bắt buộc của tất cả các
đảng cộng sản và điều đó vẫn còn tác dụng cho đến tận
hôm nay.

Các lãnh tụ Nam Tư, ban lãnh đạo Liên Xô cũng như các đảng
cộng sản khác hiện vẫn giữ quan điểm như vậy. Sự kiên
trì tính thống nhất về tư tưởng trong đảng không chỉ là
dấu hiệu của sự trì trệ mà còn chứng tỏ rằng trong các
ban "lãnh đạo tập thể" hiện nay không có sự trao đổi ý
kiến hoặc rất ít khi có trao đổi ý kiến.

Sự thống nhất bắt buộc như vậy nói lên điều gì và sẽ
dẫn đến đâu?

Sẽ dẫn đến hậu quả thật là tai hại.

Trước hết là bất kì đảng nào, đặc biệt là đảng cộng
sản, quyền lực cũng nằm trong tay lãnh tụ hoặc các cơ quan
lãnh đạo. Sự thống nhất là mệnh lệnh (đặc biệt là đối
với đảng cộng sản, một đảng có kỉ luật theo kiểu nhà
binh) nhất định sẽ dẫn tới việc bao cấp về tư tưởng
của trung ương đối với các đảng viên thường. Nếu dưới
thời Lenin tư tưởng chỉ được thống nhất sau các cuộc
đấu tranh dữ dội ở các cấp cao nhất, thì Stalin bắt đầu
tự mình quyết định tư tưởng nào là đúng, còn "ban lãnh
đạo tập thể" hiện nay lại chỉ cần ngăn chặn không cho
những tư tưởng mới xuất hiện là được. Chủ nghĩa Marx đã
trở thành lí luận của các ông trùm cộng sản như thế đấy.
Một chủ nghĩa Marx hoặc chủ nghĩa cộng sản khác không thể
nào xảy ra được, trong hiện tại và có thể cả trong tương
lai nữa.

Hậu quả của sự thống nhất về tư tưởng thật là tai hại:
nền chuyên chế của Lenin dĩ nhiên là khắc nghiệt, nhưng nó
chỉ trở thành toàn trị dưới trào Stalin. Việc chấm dứt
cuộc đấu tranh tư tưởng trong nội bộ đảng đã dẫn đến
sự tiêu diệt tự do trong toàn xã hội. Sự bất dung đối với
các trào lưu tư tưởng khác và việc khăng khăng khẳng định
tính khoa học giả tạo của chủ nghĩa Marx-Lenin đã tạo ra sự
độc quyền tư tưởng của ban lãnh đạo chóp bu của đảng và
cuối cùng là sự thống trị tuyệt đối của nó đối với xã
hội.

Thống nhất về tư tưởng thực chất là sự đè nén mọi sáng
kiến không chỉ trong phong trào cộng sản mà trong toàn xã hội
nữa. Tất cả những gì mang tính mới mẻ đều phải được
đảng cho phép, xã hội bị đặt hoàn toàn dưới sự giám sát
của đảng, còn trong đảng thì không có chút tự do nào.

Sự thống nhất về tư tưởng không xảy ra ngay lập tức,
điều đó, cũng như những điều khác trong chế độ cộng sản
đã phát triển một cách tuần tự và nó chỉ đạt được
sức mạnh tuyệt đối khi các xu hướng khác nhau của phong trào
đấu tranh quyết liệt với nhau để giành quyền lực. Và không
phải vô tình mà vào giữa những năm 20 của thế kỉ XX chính
Trotsky bị yêu cầu từ bỏ quan điểm của mình. Stalin bắt
đầu tập hợp lực lượng.

Sự thống nhất về tư tưởng là cơ sở của độc tài cá
nhân, thiếu sự thống nhất đó thì độc tài cá nhân không
thể nào tồn tại được. Cái này tạo ra cái kia và củng cố
lẫn nhau. Điều này được giải thích như sau: tư tưởng là
kết quả của sự suy tư sáng tạo của từng cá nhân riêng
biệt, còn sự độc quyền tư tưởng chỉ là mặt nạ của
chế độ độc tài. Mặc dù sự thống nhất về tư tưởng và
chế độ độc tài đã song song tồn tại ngay từ khởi thủy
của phong trào bolshevik, phong trào cộng sản hiện đại, nhưng
chúng chỉ được củng cố khi chế độ bước vào giai đoạn
trưởng thành và sẽ là xu hướng chủ đạo cho đến ngày
diệt vong của chế độ đó.

Việc diệt trừ các quan điểm khác nhau trong ban lãnh đạo
đảng tự động dẫn đến việc loại bỏ các trào lưu, xu
hướng trong nội bộ phong trào và như vậy đồng nghĩa với
việc giết chết dân chủ trong các đảng cộng sản. Trong chế
độ cộng sản "lãnh tụ là người biết tuốt" đã trở
thành nguyên tắc: những kẻ có quyền dù ngu dốt đến đâu
cũng đều trở thành nhà tư tưởng hết.

Khi người ta tiến hành các biện pháp nhằm tăng cường sự
thống nhất về tư tưởng trong đảng cũng là lúc sự độc
tài cá nhân hay độc tài của một nhóm những kẻ cầm đầu
đang được củng cố. Nhóm này có thể tạm thời thoả thuận
với nhau hoặc cùng tồn tại khi có sự cân bằng lực lượng
tạm thời.

Trong quá khứ người ta đã từng thấy xu hướng thống nhất
về tư tưởng của các đảng khác nữa, đặc biệt là các
đảng xã hội. Nhưng đây chỉ là xu hướng và cũng không kéo
dài như những đảng cộng sản. Đảng viên không chỉ là một
người mác-xít mà phải là mác-xít theo quan điểm và chỉ thị
từ trung ương. Từ một tư tưởng có tính cách mạng và tự
do, chủ nghĩa Marx đã trở thành một giáo lí không khác gì
trong các chế độ độc tài phương Đông, nơi vương triều có
toàn quyền qui định và giải thích giáo lí, còn nhà vua đóng
luôn vai trò Giáo chủ.

Sự thống nhất bắt buộc về tư tưởng, đã phát triển qua
nhiều giai đoạn và mang nhiều hình thức khác nhau, đã và vẫn
là đặc điểm cơ bản của đảng bolshevik.

Nhưng sự thống nhất bắt buộc như thế sẽ không thể nào
xảy ra được nếu như đảng không phải là cha đẻ của giai
cấp mới và nếu như nó không đặt ra cho mình nhiệm vụ lịch
sử chưa từng có.

Lịch sử hiện đại chưa có giai cấp nào hay đảng phái nào
thực hiện được sự thống nhất tuyệt đối về tư tưởng
trong hàng ngũ của mình như đảng cộng sản. Nhưng ngoài họ
thì cũng chưa ai có ý định cải tạo toàn bộ xã hội chủ
yếu bằng các biện pháp chính trị và hành chính. Chỉ có
những người có niềm tin tuyệt đối, có niềm tin mù quáng
vào sự đúng đắn và trong sáng của các quan điểm và mục
đích của mình mới dám làm những việc như vậy. Nhiệm vụ
này khó khăn đến nỗi nó đòi hỏi không chỉ thái độ không
khoan nhượng đối với các tư tưởng khác và các nhóm xã hội
khác mà còn đòi hỏi sự khuất phục của toàn xã hội và sự
cố kết của chính giai cấp cầm quyền. Đấy chính là lí do
vì sao đảng cộng sản cần một sự ổn định vững chắc về
tư tưởng.

Sau khi đã đạt được rồi, sự thống nhất về tư tưởng
sẽ trở thành một định kiến. Người cộng sản được dạy
rằng thống nhất về tư tưởng (thực ra là các tư tưởng
được truyền từ trên xuống) là điều thiêng liêng bất khả
xâm phạm, bè phái trong đảng là hoạt động xấu xa nhất.

Như vậy là không thể tạo được chế độ toàn trị nếu
không đàn áp các nhóm xã hội khác, cũng như sự thống nhất
về tư tưởng không thể xảy ra được nếu không tiến hành
thanh trừng ngay trong hàng ngũ của mình. Hai quá trình này diễn
ra đồng thời và quyện chặt vào nhau một cách "khách quan"
trong nhận thức của những người sáng lập chế độ toàn
trị, mặc dù đấy là hai việc khác nhau, một đằng là tiêu
diệt kẻ thù và mặt khác là "giải quyết quan hệ" trong
nội bộ. Dĩ nhiên Stalin biết rằng Trotsky, Bukharin hay Zinoviev
không phải là gián điệp hay những kẻ phản bội. Nhưng việc
họ bất đồng với ông ta đã tạo nhiều khó khăn cho việc
thiết lập chế độ toàn trị và ông ta phải tiêu diệt họ,
tất cả chỉ có thế mà thôi. Tội lỗi của ông ta đối với
đảng chính là ông ta đã biến sự tranh chấp, bất đồng
khách quan về tư tưởng và đường lối chính trị trong đảng
thành tội lỗi chủ quan của từng người và từng nhóm khác
nhau và vu cho họ những hành động tội ác mà họ không phạm.

Nhưng đối với chế độ cộng sản thì đấy là con đường
bắt buộc phải đi qua. Có thể thiết lập chế độ toàn trị,
nghĩa là tạo ra sự thống nhất về tư tưởng, bằng những
biện pháp mềm dẻo hơn biện pháp mà Stalin đã áp dụng, nhưng
thực chất vẫn chỉ là một. Ngay cả trong những trường hợp
khi mà công nghiệp hoá không phải là biện pháp cũng như điều
kiện để tạo ra chế độ toàn trị – Tiệp và Hung là những
thí dụ – thì đảng cộng sản vẫn áp dụng những biện pháp
không khác gì những biện pháp được áp dụng ở các nước
chậm phát triển, thí dụ như Liên Xô. Đấy không phải là do
Liên Xô áp đặt cho các đảng đàn em mà là bản chất của
các đảng cộng sản, bản chất của tư tưởng cộng sản.
Quyền lực tối thượng của đảng đối với xã hội, đồng
nhất chính quyền và bộ máy quyền lực với đảng, chỉ
những cấp nào đó mới được quyền có tư tưởng là những
đặc thù của tất cả các đảng cộng sản cầm quyền.

Đảng là sức mạnh của chính quyền và nhà nước cộng sản.
Đảng là người tạo nên tất cả, là cội nguồn và sức
mạnh cố kết giai cấp mới, quyền lực, tài sản và tư
tưởng của giai cấp ấy.

Chính vì vậy mà trong chế độ cộng sản không thể xảy ra
độc tài quân sự mặc dù ở Liên Xô có vẻ như đã từng có
các âm mưu cướp quyền của giới tướng lĩnh. Nếu giả dụ
chế độ độc tài quân sự có thuyết phục được xã hội
về sự cần thiết phải tập trung toàn bộ sức mạnh và chấp
nhận hi sinh trong một thời gian nào đó thì nó cũng không thể
kiểm soát được toàn bộ xã hội. Chỉ có một đảng duy
nhất làm được chuyện đó, đấy là đảng tuyên truyền cho
những lí tưởng cao cả, sự độc đoán chuyên quyền của nó
được các đảng viên và tất cả những ai tin vào lí tưởng
ấy coi không những là cần thiết mà còn là hình thức tổ
chức nhà nước, tổ chức xã hội cao nhất.

Nếu xét theo khía cạnh tự do thì độc tài quân sự trong chế
độ cộng sản là một tiến bộ lớn. Nó đồng nghĩa với
việc cáo chung của chế độ toàn trị của đảng, của nhóm
chóp bu nắm quyền của đảng đối với xã hội.

Về lí thuyết, độc tài quân sự chỉ xảy ra khi đất nước
gặp thất bại năng nề về quân sự hoặc có khủng hoảng
chính trị nghiêm trọng. Lúc đó hình thức khởi thuỷ của nó
sẽ là độc tài của đảng hay dưới danh nghĩa độc tài của
đảng. Nhưng điều đó nhất định sẽ dẫn tới sự thay đổi
của toàn bộ hệ thống.

Chế độ độc tài toàn trị của nhóm đầu sỏ trong đảng
trong các chế độ cộng sản không phải là kết quả nhất
thời của cuộc tranh chấp chính trị mà là kết quả của một
quá trình phức tạp và kéo dài. Sự cáo chung của chế độ
độc tài không chỉ có nghĩa là sự thay thế hình thức cai
trị này bằng hình thức cai trị khác mà còn là sự thay đổi,
đúng hơn là khởi đầu của sự thay đổi của cả hệ thống.
Nền chuyên chính của đảng chính là hệ thống, là linh hồn,
trí tuệ và bản chất của cả hệ thống.

Dịch từ<strong> </strong>bản tiếng Nga, tại&nbsp;<a
href="http://dzhilas-milovan.viv.ru/index.htm"
target="_blank">http://dzhilas-milovan.viv.ru/index.htm</a>

<strong>Nguồn</strong>: <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=5503&amp;rb=08">talawas,
2005</a>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130401/nha-nuoc-dang-tri-nen-chuyen-chinh-cua-dang-la-linh-hon-tri-tue-va-ban-chat-cua-he),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét