Nhận thức được nguy cơ xuất phát từ những khủng hoảng
hệ thống nội tại về lý luận, tư tưởng, tổ chức, đạo
đức cán bộ đảng viên, chất lượng và phương pháp lãnh
đạo xã hội, dẫn đến sự mất niềm tin nghiêm trọng trong
nhân dân, đảng đã tung ra giải pháp lớn là sửa đổi Hiến
pháp 1992. Ngoài mục đích nhân dịp này đảng đưa ra một tu
chính Hiến pháp thể chế hoá một số điểm trong cương lĩnh
chính trị mới vừa thích ứng với những thay đổi của tình
hình trong nước và thế giới, vừa thể hiện sự kiên trì
giành quyền lãnh đạo tuyệt đối thông qua một qui trình hợp
hiến hoá; đồng thời, ngay từ đầu, đảng cũng muốn tạo ra
một kiểu sinh hoạt dân chủ có kiểm soát, nhằm xả xú páp
những căng thẳng kéo dài trong thời gian qua thể hiện bằng
những xung đột lợi ích có thực giữa nhà cầm quyền với
nhân dân trong cưỡng chế thu hồi, bồi thường đất đai, tham
nhũng, kinh tế suy thoái…
Với những ý đồ được thiết kế đó, đảng muốn nhốt
toàn bộ công cuộc góp ý của nhân dân trong 02 tháng và chỉ
bằng những kênh đã dự kiến là các cuộc hội thảo, họp
đại diện "nhân dân" có tổ chức để bày tỏ sự thống
nhất về nội dung và sự biết ơn vì đã được ban cho cái
quyền góp ý. Tuy nhiên, sự kiểm soát của đảng đã bị vô
hiệu hoá khi diễn biến của những cuộc góp ý tự phát nhưng
hoàn toàn hợp pháp, hợp lệ, có tính đại diện cao, có sức
thuyết phục lớn đã đảo chiều trong các nội dung góp ý
không có lợi cho đảng. Bản kiến nghị 72 cùng với dự thảo
Hiến pháp tham khảo, Lời tuyên bố của nhóm các công dân tự
do, Bản góp ý và kiến nghị của Hội đồng Giám mục Việt
Nam đã điểm vào những hiểm huyệt của chế độ: bỏ hiến
định về quyền lãnh đạo của đảng, xây dựng nhà nước
pháp quyền tam quyền phân lập, đổi quốc hiệu, phục hồi
chế độ tư hữu và quyền tư hữu đất đai của nhân dân,
xây dựng quân đội phi đảng hoá. Những kênh góp ý đó đã
được chuyển đến một cách công khai, đúng luật cho các cơ
quan chức năng của cuộc góp ý, đồng thời lan truyền mạnh
mẽ trên mạng thông tin, ngấm vào dư luận xã hội và tạo ra
một cơn lốc chính trị thật sự.
Đáp lại, đảng, thông qua người đứng đầu, cùng với bộ
phận chóp bu chính trị của đảng, đã qui chụp cho toàn bộ
các tổ chức góp ý đó là bộ phận suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống, phải xử lý. Đồng thời,
đảng cũng huy động một lực lượng đông đảo các nhà ăn
lương làm lý luận, số trí thực kiên định với sổ hưu và
sợ mất sổ hưu, một số Việt kiều giả danh hoặc dấu tên,
đội ngũ dư luận viên cò mồi… tung ra cuộc phản công lúng
túng, yếu ớt, thiếu trí tuệ, thiếu sức thuyết phục với
những xu thế nói trên. Đơn cử, việc bảo vệ Điều 4 về
quyền lãnh đạo của đảng, lập luận bảo vệ phải vận
dụng đến cả lý và tình, kêu gọi sự mủi lòng của nhân
dân, kể công lịch sử, lấy lịch sử để hợp lý hoá hiện
tại, trong khi đúng ra vấn đề phải được giải quyết ở
yêu cầu chính trị của nó, tứ là sự đồng thuận dân chủ,
là trưng cầu ý dân, là sự đánh giá một cách trí tuệ của
toàn dân với uy tín của đảng so với xu thế của thời đại.
Rốt cuộc, sợi chỉ đỏ của toàn bộ quá trình gọi là dân
chủ, hợp hiến đó là đảng, bằng mọi cách, vẫn giành
quyền lãnh đạo của mình. Đã giành cái quyền mà nhân dân
không đồng thuận, tức là đoạt, cướp. Khi giành quyền lãnh
đạo độc tôn, duy nhất, với định hướng xã hội chủ mù
mờ, giả hiệu, tất sẽ không có một kiểu nhà nước tam
quyền phân lập nào cả; quyền tư hữu đất đai lịch sử
của nhân dân Việt Nam sẽ không được trả lại; quân đội
phải trung thành với đảng. Cướp quyền lãnh đạo, sẽ cướp
cả tự do, dân chủ, nhân quyền, cướp đi sự đa dạng, đa
phương sinh động và sáng tạo trong đời sống tư tưởng, tinh
thần của nhân dân, cướp tài sản lịch sử của nhân dân, và
dĩ nhiên, muốn như thế phải cướp luôn công cụ bạo lực,
biến nó thành một lực lượng bị khống chế, phải trung
thành. Một nhóm lợi ích không còn nhận được sự tin tưởng
tuyệt đối của nhân dân, tiến hành sự lãnh đạo của mình
như một hình thức cướp đoạt bằng cách sử dụng quân
đội, công an làm phương tiện bạo lực đe doạ và trấn áp,
về bản chất, nó gần hoặc đã là một tổ chức mafia.
Khi thực hiện bước đi như vậy, đảng đã chấp nhận sự phi
lý xét cả trên bình diện đồng đại và lịch đại. Về
đồng đại, đảng bỏ qua nhu cầu tự do, dân chủ, nhân quyền
như một nhu cầu tức thì, có thực, hợp thời và được thể
hiện một cách công khai của nhân dân; bỏ qua xu thế chính
trị được áp dụng một cách thành công, hợp lòng dân ở
rất nhiều quốc gia phát triển và muốn phát triển bình
thường. Về lịch đại, người dân Việt Nam chưa bao giờ phát
ngôn, thể hiện ý kiến một cách có tổ chức, trực tiếp và
tự do về việc trao quyền lãnh đạo cho đảng; cho đến nay,
đảng cũng không dám tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về
vấn đề hết sức hệ trọng này. Tương tự, nhân dân cũng
chưa bao giờ trực tiếp giao đất, giao quyền tư hữu đất đai
để xây dựng cái chế độ sở hữu hết sức mù mờ là sở
hữu toàn dân. Trong khi đó, cùng là đối tượng cải tạo xã
hội chủ nghĩa, song khi đổi mới, đảng cho phục hồi quyền
sở hữu tư sản và tư bản, hình thành một giai cấp tư sản
kiểu mới trong hệ thống mafia, với các loại tài sản trừ đi
đất; còn "giai cấp" nông dân, rủi ro sở hữu loại tài
sản và tư liệu sản xuất đất đai, đã xem như vĩnh viễn
bị cướp đoạt.
Song song với quá trình đấu tranh hiến pháp, đấu tranh chính
trị không cân sức đó, một số động thái trong công tác cán
bộ, nhân sự thời gian qua của đảng cũng góp phần chứng minh
cho xu thế mafia và quan liêu.
Từ năm 1954 trên miền bắc và 1976 trên cả nước, công tác
cán bộ của đảng được thực hiện trong hệ thống 4 cấp
của đảng: trung ương, tỉnh, trên cơ sở và cơ sở. Tương
ứng về lãnh thổ là trung ương, tỉnh/thành phố, huyện/quận
và xã /phường. Toàn bộ nhân sự lãnh đạo của mỗi cấp là
do đại hội thường kỳ của cấp đó bầu ra theo trật tự
từ dưới lên trên. Theo cách đó, mặc dù vẫn có chỉ đạo
nhân sự từ cấp trên và không thực sự dân chủ, những
người được bầu ra ít nhất là tại chỗ, được chọn ra
từ chính tập thể đó, là thế hệ lớn tuổi hơn, và cũng có
chút ít uy tín để chọn cột cờ. Về nguyên tắc, công tác
nhân sự như vậy là bảo đảm tính lêninít về chính đảng,
vốn được xem là hình thức dân chủ phù hợp nhất cho những
đảng cầm quyền độc tôn có hệ thống lấp đầy các cấp
chính quyền / lãnh thổ.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, do khủng hoảng chất lượng
nhân sự, khủng hoảng thế hệ tuổi tác, nhắm trước những
hẫng hụt cán bộ lãnh đạo trong tương lai và để xử lý
những nhu cầu bộ máy mới, đảng đã đẩy mạnh việc đào
tạo, qui hoạch và luân chuyển, điều động các bộ lãnh đạo
một cách quan liêu, tập quyền và không tuân thủ cách thức
bầu qua đại hội thường kỳ như trước. Bộ chính trị ở
trung ương và Ban thường vụ ở cấp dưới đã sử dụng
quyền chỉ định, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ như kiểu
một tổ chức hành chính quan liêu không hơn không kém. Đơn cử
như việc hình thành 02 ban mới ở trung ương đã ngốn vào đó
hàng chục uỷ viên trung ương vốn là bí thư của các tỉnh;
một số uỷ viên trung ương khác lại được luận chuyển từ
trung ương về làm bí thư các tỉnh mà không cần phải so đũa
gì. So với hệ thống nhà nước, sự luân chuyển lên xuống
như vậy của đảng mạnh hơn nhiều và thực sự quá trình đó
chứng tỏ cán bộ lãnh đạo không còn cần là đại diện ưu
tú cho một cấp đảng và thuần tuý chỉ là một công chức
chính trị có giá trị mặc nhiên và có thể cử bổ nhiệm
bất cứ đâu trên cả nước.
Nghe đâu ở thời điểm giữa nhiệm kỳ này, ở một tỉnh
miền trung nọ, người ta đang làm một cuộc náo động nhân
sự với vài ba chục trường hợp luân chuyển lãnh đạo các
sở ban ngành và các huyện. Hầu hết những trường hợp điều
luân chuyển đó không chứng tỏ được yêu cầu đào tạo,
bồi dưỡng hoặc nhằm mục tiêu ổn định, phát triển, thực
hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm kỳ gì; tất cả như một
kiểu đánh cờ người tuỳ tiện. Một ông được vào thường
vụ tỉnh uỷ, được cử tri bầu là đại biểu nhân dân,
được các đại biểu nhân dân khác bầu là Phó chủ tịch
tỉnh, bỗng dưng bị miễn nhiệm chức danh này vì chức danh
phía đảng cao hơn so với yêu cầu của chức danh chính quyền
và không đúng cái qui hoạch rất khoa học của đảng. Cái hội
đồng nhân dân vốn 100% bầu ra ông bây giờ cũng 100% miễn
nhiệm ông theo ý đảng. Rất dân chủ, tuy hài hước.
Cũng phải nói thêm là đàng sau cái công tác đào tạo, qui
hoạch, luân chuyển, điều động đó là vô số những tiêu
cực, chạy chọt chức tước hoặc chạy chọt để tránh chức
tước. Đây cũng là mảnh đất ngon lành cho những toan tính
nhân sự vì lợi ích nhóm, bè phái, đồng hương, đồng khoa và
con cháu trong gia đình.
Thất bại trong triển khai nghị quyết chỉnh đốn, thất bại
trong công cuộc góp ý Hiến pháp, thất bại khi phải tốn mỗi
năm hàng trăm tỉ cho việc lập lại, vận hành Ban kinh tế trung
ương, Ban nội chính trung ương , thất bại trong công cuộc
chống suy thoái, tham nhũng…, những cố gắng đó chỉ chứng
tỏ đảng ngày càng là một tổ chức quyền lực quan liêu và
mafia thôi.
Xích Tử
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130328/khung-hoang-dang-tro-thanh-to-chuc-quan-lieu-mafia),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét