<blockquote>Dân Luận: Tổ Chức Điều 19 (Article 19) được thành
lập năm 1987 tại New York (Hoa Kỳ) dưới sự bảo trợ của gia
đình nhà từ thiện J. Roderick MacArthur, và lấy tên gọi theo
Điều 19 của Tuyên Ngôn Nhân Quyền Quốc Tế về quyền tự do
tư tường và ngôn luận. Tổ Chức Điều 19 có văn phòng tại
Bangladesh, Brazil, Kenya, Mexico, Tunisia, Senegal and Anh Quốc, and có
sự hợp tác với 90 tổ chức trên toàn thế giới.
Công việc của Tổ Chức Điều 19 bao gồm viêc bảo vệ quyền
tự do ngôn luận và phát biểu ở bất cứ nơi nào quyền này
bị đe doạ bằng cách: 1) theo dõi, nghiên cứu, xuất bản, ủng
hộ và vận động việc ra các tiêu chuẩn và giúp đở trong
các vụ thưa kiện; 2) Cố vấn cho việc thiết lập luật pháp
nhằm bảo vệ quyền tự do phát biểu để bảo đảm sự trong
sáng và tăng gia tham gia của công dân; 3) Vận đồng sự bảo
vệ tính đa nguyên, độc lập và đa dạng trong truyền
thông.</blockquote>
Tổ Chức Điều 19 cảnh báo rằng các đề nghị sửa đổi
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam (Dự thảo Hiến pháp) không bảo đảm các quyền cơ
bản của con người, nhất là quyền tự do phát biểu và tự do
thông tin. Việc bảo vệ cho các quyền này phải được xây
dựng một cách toàn diện hơn và bằng ngôn ngữ chính xác hơn,
và các sự giới hạn rộng rãi và có tính phân biệt đối xử
phải được loại bỏ.
Tồ Chức Điều 19 hoan nghênh sáng kiến của Quốc hội để
sửa đổi Hiến pháp của Việt Nam và công khai lưu hành Dự
thảo Hiến pháp để có tham vấn rộng rãi. Chúng tôi hoan
nghênh cơ hội được đóng góp sự phân tích của chúng tôi
vào việc sửa đổi Hiến Pháp, và hy vọng rằng đây là sự
hỗ trợ cho Chính phủ Việt Nam và các bên có liên quan khác
trong nước để hiểu về những nghĩa vụ của Việt Nam theo
luật nhân quyền quốc tế.
Mặc dù có rất nhiều thiếu sót trong các đề nghị sửa đổi
hiến pháp trong đó có những điều thảo sẽ được luận
dưới đây, các phiên bản dự thảo có một số biểu hiện
tích cực, cụ thể là:
• Phần mở đầu khẳng định sự tôn trọng và bảo đảm
các quyền con người, sự phát huy dân chủ, và sự tôn trọng
chính phủ của dân, vì nhân dân và do nhân dân.
• Chương thứ hai được dành cho sự công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm các quyền con người (Điều 15,1).
• Các quyền mới được thêm vào trong bản dự thảo Hiến
pháp bao gồm: quyền thưởng thức và tham gia vào đời sống
văn hoá (Điều 44), quyền tự do lựa chọn ngôn ngữ để giao
tiếp (Điều 45), và quyền sống trong một "môi trường trong
lành" (Điều 46).
<strong>Hiệu Lực Quốc Nội Của Luật Nhân Quyền Quốc
Tế</strong>
Bản Dự thảo Hiến pháp đã không xác định tư cách pháp lý
của các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam
đã ký kết và phê chuẩn và có nghĩa vụ thực hiện thông qua
luật pháp trong nước. Hơn nữa, không có điều nào quy định
cụ thể quyền hạn để ký kết và phê chuẩn các hiệp ước
quốc tế. Đặc biệt, Tổ chức Điều 19 ghi nhận rằng Việt
Nam là một thành phần tham gia Công ước Quốc tế về các
Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) nhằm bảo vệ quyền tự do
phát biểu và tự do thông tin ở Điều 19.
Dự thảo hiến pháp phải có một cam kết rõ ràng để đảm
bảo rằng các hiệp ước và thỏa thuận quốc tế đã được
ký kết và phê chuẩn có hiệu lực pháp lý trong nước, và
chỉ có thể bị bãi bỏ, sửa đổi hoặc bị đình chỉ theo
cách thức quy định trong chính các hiệp ước đó.
<strong>Các Quyền Tự Do Phát Biểu Và Thông Tin, Tự Do Hội Họp
Một Cách Ôn Hòa và Tự Do Lập Hội</strong>
Dự thảo hiến pháp giới hạn sự bảo vệ các quyền tự do
phát biểu và thông tin và các quyền liên quan ở Điều 26 theo
trong các qui định sau đây:
Công dân có quyền tự do phát biểu ý kiến và ngôn luận, tự
do báo chí, quyền được thông báo, và có quyền hội họp,
lập hội và tổ chức các cuộc đình công theo quy định của
pháp luật.
Tổ chức Điều 19 có quan ngại là nhiều quyền riêng biệt
được bao gồm trong một điều khoản, và không có đủ sự
bảo vệ riêng cho mỗi quyền. Chúng tôi đề nghị sự bảo vệ
riêng cho các quyền: i) tự do có ý kiến, ii) quyền tự do ngôn
luận; iii) tiếp cận thông tin; iv) tự do báo chí, và v) quyền
tự do hội họp một cách ôn hoà và tự do lập hội.
Những thiếu sót sau đây đối với Điều 26 của Dự thảo
Hiến pháp cũng phải được giải quyết:
• Mỗi quyền phải được đảm bảo cho tất cả mọi người,
không phân biệt quốc tịch.
• Quyền tự do phát biểu ý kiến được bảo vệ theo quy
định tại Điều 19 (1) của ICCPR, nên được bảo vệ một
cách vô điều kiện. Không pháp luật hoặc quy định hiến pháp
nào cho phép hạn chế về quyền có ý kiến. Hơn nữa, không
người nào có thể bị giảm các quyền của họ vì các ý
kiến thực sự của họ, hay ý kiến đưọc cho là của họ.
• Quyền tự do diễn đạt được bảo vệ bởi Điều 19 (2)
của ICCPR, phải được giải thích rộng rãi và qui định rằng
quyền này:
o Bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt
thông tin;
o Bảo vệ tất cả các loại ý tưởng, bao gồm: chính luận,
bình luận về vấn đề của cá nhân và các vấn đề công
cộng, trao đổi ý kiến, thảo luận về nhân quyền, báo chí,
diễn đạt văn hóa và nghệ thuật, giảng dạy, và diễn
thuyết tôn giáo. Thậm chí nó còn bao gồm sự diễn đạt có
thể được coi là rất phản cảm;
o Được áp dụng không có giới hạn;
o Có thể được thực hiện thông qua bất kỳ phương tiện
truyền thông do cá nhân lựa chọn, bao gồm nhưng không nhất
thiết chỉ gồm những loại sau đây: truyền thông bằng tiếng
nói, viết và in; diển đạt bằng nghệ thuật; và phương tiện
truyền thông bằng nghe-nhìn, điện tử và Internet.
• Quyền "được thông tin" cần phải được soạn lại để
rõ ràng bảo vệ "quyền được tiếp cận thông tin." Tổ
chức Điều 19 nhắc lại rằng Uỷ Ban Nhân quyền, trong số
nhận xét chung 34, đã qui định:
Để quyền quyền tiếp cận thông tin có hiệu lực, các quốc
gia thành viên cần chủ động đưa ra trong công chúng các thông
tin của Chính phủ liên quan đến lợi ích công cộng. Các quốc
gia thành viên phải sao để đảm bảo việc tiếp cận những
thông tin như vậy được dễ dàng, nhanh chóng, hiệu quả và
thiết thực. Các quốc gia thành viên cũng phải ban hành các
thủ tục cần thiết theo đó một người có thể truy cập
thông tin bằng cách xử dụng luật về quyền tự do thông tin.
Các thủ tục này qui định việc xử lý kịp thời các yêu
cầu về thông tin bằng luật lệ rõ ràng phù hợp với Công
Uớc. Lệ phí cho việc yêu cầu cung cấp thông tin không được
tạo thành một trở ngại bất hợp lý cho việc truy cập thông
tin. Các nhà chức trách nên cung cấp lý do khi từ chối việc
truy cập thông tin. Phải chuẩn bị sẵn để giải quyết khiếu
nại do việc từ chối quyền truy cập vào thông tin cũng như
trong trường hợp không đáp ứng yêu cầu cung cấp thong tin.
Để đối chiếu, hãy xem Điều 56 của Hiến pháp Thái Lan
(1997), Điều 35 của Hiến pháp của Kenya (2010), và Điều 32
của Hiến pháp của Nam Phi (1996):
• Quyền "hội họp" nên được sửa lại là "quyền tự do
hội họp một cách hòa bình" để phản ánh Điều 21 của ICCPR.
Nếu có thể, bản Hiến pháp nên qui định coi như ủng hộ
việc hội họp hay lập hội, và qui định nhà nước có nghĩa
vụ tạo điều kiện thuận lợi và bảo vệ các cuôc hội họp
công khai tại địa điểm và thời gian do người tổ chức lựa
chọn. Để so sánh, hãy xem tại Điều 39 của Hiến pháp Romania
(1991).
• Quyền "tự do báo chí" phải được thực hiện toàn diện
hơn. Nó sẽ bao gồm: các sự bảo vệ phương tiện truyền
thông tự do và độc lập trực tuyến cũng như không trực
tuyến, bảo đảm sự độc lập biên tập; bảo vệ quyền
của các nhà báo giữ kín nguồn gốc của tin tức, bảo vệ
các phương tiện truyền thong bằng in ấn hay trực tuyến khỏi
bất cứ yếu cầu đăng ký hay giấy phép; và các quy định
để đảm bảo sự độc lập và tính đa nguyên của ngành phát
thanh truyền hình. Để so sánh, hãy xem Điều 34 của Hiến pháp
của Kenya (2010).
• Quyền "lập hội" cũng phải đảm bảo quyền thành lập
công đoàn độc lập với chính phủ, và nên qui định thêm
rằng không có người nào bị bắt buộc phải tham gia một
hiệp hội ngược lại với ý nguyện của họ.
• Quyền tự do học thuật và nghiên cứu cũng cần được xem
xét (Điều 43 của Dự thảo Hiến pháp) cùng với việc bảo
vệ quyền tự do diển đạt. Đề so sánh, hãy xem Điều 16
của Hiến pháp của Nam Phi (1996), và Điều 33 của Hiến pháp
của Kenya (2010).
• Các quyền tham gia vào đời sống văn hoá (hiện tại Điều
44 của Dự Thảo Hiến pháp) và quyền được giao tiếp bằng
ngôn ngữ tự chọn (hiện tại Điều 45 của dự thảo Hiến
pháp) củng nên được xem xét trong phạm vi bảo vệ các quyền
tự do ngôn luận.
<strong>Những hạn chế về quyền tự do phát biểu và thông tin,
và tự do lập hội và hội họp một cách hòa bình </strong>
Một số lượng đáng kể các quy định trong Dự thảo Hiến
pháp cho phép đặt ra nhiều giới hạn trên tất cả các quyền
quy định tại Chương 2 khiến nó không đáp ứng tiêu chuẩn
quốc tế.
<strong>Điều 15 </strong>của dự thảo Hiến pháp quy định rằng
tất cả các quyền con người được "công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật" (Điều
15.1) và có thể bị hạn chế "trong trường hợp cần thiết
cho mục đích quốc phòng, an ninh quốc gia , trật tự xã hội,
đạo đức và sức khỏe cộng đồng" (Điều 15,2). Quy định
này có vẻ như để áp dụng cho việc giải thích của tất cả
các bảo đảm trong Chương 2, nhưng nó không qui định rõ ràng
là chỉ giới hạn cho Chương 2. Trong khi các trường hợp khẩn
cấp có thể được tuyên bố theo quy định tại <strong>Điều
75.14</strong> và <strong>Điều 79.8</strong> của dự thảoHiến
pháp, tác động của sự tuyên bố này đối với sự bảo vệ
các quyền con người không được xác định.
Các giới hạn tại Điều 15 đã không phân biệt giữa: quyền
có thể bị giới hạn một cách hợp pháp (ví dụ như quyền
tự do ý kiến, Điều 19 (1), ICCPR), và các quyền có thể bị
thu hẹp một cách có giới hạn (ví dụ như quyền tự do diển
đạt, Điều 19 (2) và (3), ICCPR), và cuối cùng là các quyền
không thể được coi thường trong trường hợp khẩn cấp
(được liệt kê tại Điều 4 (2), ICCPR). Điều 15 (2) của bản
dự thảo Luật phải được sửa đổi để làm cho rõ ràng các
sự khác biệt giữa các loại bảo vệ nhân quyền khác nhau
để phù hợp với quy định của ICCPR.
Những hạn chế về quyền tự do phát biểu và thông tin, và
quyền tự do hội họp hòa bình, chỉ được giới hạn theo qui
định về thử nghiệm ba phần qui định tại Điều 19 (3) và
Điều 21 của ICCPR. Những sự hạn chế phải:
• Theo quy định của pháp luật: bất cứ luật nào hạn chế
quyền tự do ngôn luận phải "được xây dựng với độ
chính xác đủ để cho một cá nhân điều chỉnh hành vi của
mình một cách phù hợp và nó phải được với công chúng
biết đến."
• Có một mục đích hợp pháp: tôn trọng các quyền và thanh
danh của người khác, bảo vệ an ninh quốc gia hay trật tự
công cộng, hoặc bảo vệ sức khỏe hay đạo lý cộng đồng.
Ngoài ra, quyền tự do hội họp một cách hòa bình cũng có thể
bị hạn chế để bảo vệ an toàn công cộng.
• Cần thiết và tương xứng: Các quốc gia phải chứng minh
"một cách cụ thể và cho từng cá nhân bản chất chính xác
của mối đe dọa, và sự cần thiết và tương xứng của các
biện pháp (để giới hạn), đặc biệt bằng cách thiết lập
một mối liên trực tiếp thể giữa các biện pháp và mối đe
dọa." Hơn nữa, những hạn chế không được quá rộng và
phải là những phương tiện hạn chế tối thiểu được dùng
để đạt được chức năng bảo vệ.
Khi tất cả các quyền chỉ được đảm bảo trong phạm vi qui
định bởi Hiến pháp hay luật pháp thì sẽ không hợp pháp,
nhất là khi hiến pháp hay luật pháp không tuân thủ các tiêu
chuẩn quốc tế. Sự qui định "theo Hiến pháp và pháp luật"
phải được xóa bỏ trong Điều 5.1 vì nó làm cho việc thụ
hưởng các quyền hiến định bị phụ thuộc vào việc lập
pháp vốn có thể làm xói mòn các quyền này trong tương lai.
Từ "Đạo đức xã hội" tại Điều 5.2 nên được hiểu trong
phạm vi giới hạn của khái niệm này theo quy định của luật
nhân quyền quốc tế và không được giải thích nhằm đưa
đến những hạn chế rộng rãi về quyền này. Nhà nước có
trách nhiệm chứng minh rằng các hạn chế quyền tự do ngôn
luận để bảo vệ "đạo đức xã hội" là cần thiết để duy
trì sự tôn trọng đối với các giá trị cơ bản của cộng
đồng. Trong khi các quốc gia ít bị phê bình trong việc này,
việc các quốc gia được quyền quyết định không cho phép
việc viện dẫn đạo đức xã hội để biện minh cho hành
động kỳ thị, để kéo dài thành kiến, hay khuyến khích cố
chấp. Các cơ quan nhân quyền quốc tế đã lưu ý rằng các
khái niệm về đạo đức được phát triển không ngừng, và
bất cứ hạn chế nào đều "phải được dựa trên các nguyên
tắc là không được bắt nguồn từ một truyền thống duy
nhất", và "phải được hiểu trong sự phổ quát toàn cầu của
nhân quyền và nguyên tắc không phân biệt đối xử".
Hơn nữa Điều 15.2 phải tham chiếu đặc biệt vào yêu cầu là
ngoài vấn đề "cần thiết" trong việc theo đuổi một mục
tiêu hợp pháp, các hạn chế cũng phải được quy định trong
pháp luật một cách tương xứng.
Liên quan đến quyền tự do tôn giáo, khoản thứ hai của Điều
25.3 quy định rằng không ai có thể "lợi dụng tín ngưỡng và
tôn giáo để hành động trái với pháp luật và các chính sách
nhà nước." Một lần nữa, quy định này có thể đưa đến
sự giải thích rộng rãi và được sử dụng để hạn chế
tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do phát
biểu và tự do thông tin. Tổ Chức Điều 19 đề nghị xoá
khoản thứ hai trong Điều 25.3.
Tổ chức Điều 19 còn quan tâm tới một số các quy định bổ
sung có thể được viện dẫn để hạn chế hơn nữa các
quyền cơ bản, bao gồm quyền tự do phát biểu và thông tin,
quyền tự do hội họp một cách hòa bình và lập hội:
• <strong>Điều 16 </strong>là một điều khoản mới và nghiêm
cấm việc lạm dụng quyền con người và quyền dân sự để vi
phạm lợi ích của đất nước và dân tộc, các quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác."
Những cái gọi là "lợi ích của đất nước và dân tộc, các
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác" có nghĩa rất
rộng và mơ hồ đối với việc thụ hưởng các quyền con
người khiến nó không phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Tố Chức Điều 19 đề nghị chỉnh sửa Điều 16 đã để
phản ánh Điều 5 (1) của ICCPR vốn qui định rằng không một
điều khoản nào trong Công ước cho phép một quốc gia, một
nhóm hoặc bất kỳ cá nhân nào được quyền tham gia vào các
hoạt động nhằm mục đích "tiêu hủy" của các quyền và tự
do. Điều quan trọng là quy định này áp dụng đối với Nhà
nước cũng như bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân, và đặt
ngưỡng giới hạn đặc biệt cao cho "tiêu hủy" hơn là "can
thiệp" hoặc "vi phạm".
• <strong>Điều 11.2</strong> của dự thảo Hiến pháp quy định
về hình phạt nghiêm trọng cho "tất cả các hành động trực
tiếp chống lại sự độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại việc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của mọi người." Tương tự như
vậy, Điều 47 qui định "các nghĩa vụ trung thành đối với
quê hương của mình [sic] ", và xác định rằng" phản bội tổ
quốc là tội nặng nhất," và Điều 69 qui định tham gia quốc
phòng là nhiệm vụ của tất cả mọi người.
Mối quan hệ giữa các quy định kể trên và sự đảm bảo các
quyền trong chương thứ hai không rõ ràng. Tố Chức Điều 19
nhắc lại rằng bất kỳ hạn chế nào đối với quyền tự do
phát biểu và thông tin, hay quyền tự do hội họp một cách hòa
bình để bảo vệ an ninh quốc gia phải được qui định một
cách giới hạn (chật hẹp) để phù hợp với phép thử nghiệm
ba phần theo Điều 19 (3) hoặc Điều 21 của ICCPR. Những hạn
chế đó không hợp pháp trừ khi chúng có mục đích xác thật
và chứng minh được hiệu quả của chúng là để bảo vệ sự
tồn tại của một quốc gia, hoặc sự toàn vẹn lãnh thổ
chống lại việc sử dụng hoặc đe dọa bằng vũ lực từ một
nguồn bên ngoài, chẳng hạn như là một mối đe dọa quân sự,
hoặc một nguồn nội bộ, chẳng hạn như kích động bạo lực
để lật đổ chính phủ. Để biết thêm thông tin, hãy xem
Nguyên Tắc Johannesburg về An Ninh Quốc Gia, Tự Do Ngôn Luận, và
Tiếp Cận Thông Tin (Điều 19, năm 1996)
Tổ Chức Điều 19 khuyến cáo xóa Điều 11.2, Điều 47, và
Điều 69 để bảo vệ quyền tự do phát biểu và thông tin,
cũng như các quyền tự do hội họp một cách hòa bình và lập
hội.
• <strong>Điều 20</strong> quy định rằng "quyền của một công
dân không thể tách rời với nhiệm vụ." Trong khi một số
quyền đi cùng với trách nhiệm, việc bảo vệ các quyền con
người không được dựa trên điều kiện thực hiện các
nhiệm vụ.
Tổ Chức Điều 19 đề nghị xóa Điều 20 của dự thảo Hiến
pháp.
<strong>Điều 64.5</strong> quy định rằng "tất cả các hoạt
động trong các lĩnh vực văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi
ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống
tốt đẹp của người Việt Nam; và sự tuyên truyền các tư
tưởng và ấn phẩm phản động, đồi trụy phải bị nghiêm
cấm. Mê tín dị đoan được loại trừ."
Quy định này ở trong Chương 3, và do đó có mối quan hệ
đến sự bảo đảm các quyền trong Chương 2, không được rõ
ràng. Trong mọi trường hợp, nó hoàn toàn không tương ứng
với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền tự do ngôn luận.
Quyền tự do ngôn luận bao gồm tất cả các hình thức thể
hiện, bao gồm cả biểu hiện bằng nghệ thuật thông qua bất
kỳ phương tiện truyền thông do cá nhân lựa chọn. Bất kỳ
hạn chế nào về nội dung của nghệ thuật phải được chứng
minh theo thử nghiệm ba phần quy định tại Điều 19 (3) của
ICCPR. Tố Chức Điều 19 đề nghị bãi bỏ Điều 64.5
• Tổ Chức Điều 19 quan tâm đến quyền khiếu nại, và tố
cáo Nhà nước ở Điều 31.3 vốn qui định việc cấm "lạm
dụng" quyền này để "khiếu nại, tố cáo với mục đích vu
khống và gây tổn hại cho người khác."
Trong khi quyền tự do ngôn luận có thể bị hạn chế để bảo
vệ quyền của người khác theo quy định tại Điều 19 (3) của
ICCPR, các hạn chế đó phải phù hợp với các thử nghiệm ba
phần đã nêu ở trên và các hình phạt dùng để bảo vệ danh
tiếng phải được biết trước trong qui định của luật dân
sự. Hơn nữa, phát biểu chính trị phải được bảo vệ
nhiều hơn và chỉ có thể bị giới hạn trong một số trường
hợp ngoại lệ. Luật hình sự về phỉ báng không bao giờ
được sử dụng để bảo vệ cán bộ hay tố chức đối với
những lời chỉ trích hoặc bảo vệ họ khỏi sự giám sát.
Tổ Chức Điều 19 đề nghị xóa Điều 31.3.
<strong>Không phân biệt đối xử</strong>
<strong>Điều 17.2 </strong>qui định rằng "không ai bị phân biệt
đối xử trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội bởi bất kỳ lý do nào". Tuy nhiên, nhiều quy định trong
Hiến pháp đã mâu thuẫn với các đảm bảo chống lại sự
phân biệt đối xử.
Sự bảo vệ những quyền trong Chương 2 của Dự thảo Hiến
pháp được đặt trên căn bản của quyền công dân, vốn
được định nghĩa như là một người có quốc tịch Việt Nam
(Điều 18.1). Ngoài quyền tự do ngôn luận và thể hiện quan
điểm (ở trên), những quyền tương tự như vậy cũng bao gồm
quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 17.1), và cấm tra
tấn (Điều 22).
Những người ngoại quốc bị phân biệt đối xử một cách rõ
rệt. Điều 51 qui định, nhưng không sử dụng ngôn ngữ về
quyền, là Nhà nước chỉ có nghĩa vụ bảo vệ tính mạng, tài
sản người nước ngoài và "lợi ích hợp pháp của họ theo quy
định của pháp luật Việt Nam."
Tất cả các quyền qui định trong ICCPR, với ngoại lệ của
quyền bầu cử (Điều 25, ICCPR), phải được đảm bảo cho
tất cả mọi người một cách không phân biệt trong phạm vi
lãnh thổ và quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào (Điều
2 (1), ICCPR).
Các quy định về không phân biệt đối xử cũng nên qui định
các đặc tính được bảo vệ để cấm phân biệt đối xử
trên những đặc tính đó. Căn cứ để bảo vệ chống lại
sự phân biệt đối xử nên bao gồm nhưng không chỉ giới hạn
vào: chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan
điểm chính trị hay quan điểm về các vấn đề khác, nguồn
gốc quốc gia hay xã hội, tình trạng tài sản, lúc sinh ra hay
các tình trạng khác (Điều 2 (1) ICCPR). Căn cứ để bảo vệ
chống lại sự phân biệt đối xử theo quy định của luật
nhân quyền quốc tế cũng được hiểu là bao gồm tuổi tác,
khuyết tật, khuynh hướng tình dục và giới tính. Các quốc gia
chỉ có thể phân biệt đối xử đối vơí người ngoại quốc
khi liên quan đến quyền bầu cử theo quy định tại Điều 25
của ICCPR (xem: Ủy ban HR, Tổng luận số 15).
Tổ Chức Điều 19 khuyến cáo Dự thảo Hiến pháp đảm bảo
rằng tất cả các quyền phải đượcbảo vệ cho tất cả mọi
người trên cơ sở không phân biệt đối xử và có một danh
sách bao gồm rộng rãi các căn cứ được bảo vệ. Điều 51
và các quy định khác vốn hạn chế việc thụ hưởng các các
quyền trên cơ sở quốc tịch ngoài quyền bầu cử phải
được bãi bỏ.
<strong>Tố Tụng Công Bằng và Việc Tước Đoạt Tự Do</strong>
<strong>Điều 32</strong> (Điều 72 được sửa đổi và bổ sung)
quy định các quyền trong tố tụng hình sự, trong đó có quyền
"được xử tòa án theo pháp luật."
Tổ Chức Điều 19 cho thấy theo tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm
Điều 14 và Điều 15 của ICCPR, mọi người đều có quyền
được xét xử công bằng trong các vụ án hình sự, vốn kéo
theo quyền "được xét xử bởi một tòa án có năng lực, độc
lập và vô tư được thành lập theo quy định của pháp luật,"
công khai và trong một khoảng thời gian hợp lý. Do đó, để
theo đúng tiêu chuẩn quốc tế, thì hệ thống tư pháp trong
nước, ngoài các thành phần khác, phải có các thành phần sau
đây:
• <strong>Độc lập:</strong> nếu sự độc lập của ngành tư
pháp không đuợc đảm bảo, việc xử dụng hệ thống tư pháp
như là một cơ chế để bảo vệ quyền của cá nhân trở nên
ít hữu ích. Các Nguyên Tắc Cơ Bản Về Độc Lập Xét Xử
của Liên Hợp Quốc đặt ra một số yêu cầu cần phải có
đối với một tòa án được coi là 'độc lập': a) điều
kiện phục vụ và nhiệm kỳ, b) cách thức bổ nhiệm và giải
nhiệm, và c) mức độ ổn định và sự bảo vệ chống lại
các áp lực sách nhiễu từ bên ngoài. Sự tồn tại của một
tòa án không nên phụ thuộc vào quyết định của ngành hành
pháp mà phải được dựa trên sự ban hành của cơ quan lập
pháp.
• <strong>Vô Tư:</strong> phải có sự vô tư trong nghĩa khách
quan (xem xét liệu các thẩm phán có được cung cấp các đảm
bảo về thủ tục đầy đủ để loại trừ bất kỳ sự nghi
ngờ chính đáng về thiên vị), cũng trong nghĩa chủ quan (không
nên có biểu hiện bề ngoài của sự vô tư).
Những nguyên tắc này chưa phản ánh đầy đủ tại Điều 32.
Tổ Chức Điều 19 khuyến nghị Dự thảo Hiến pháp nên qui
định một cách rõ ràng rằng tất cả mọi người có quyền
được được xét sử bởi một phiên toà có năng lực, công
khai và bởi một tòa án được thành lập theo quy định của
pháp luật, với tất cả các bảo đảm về thủ tục theo quy
định của luật nhân quyền quốc tế.
<strong>Kết luận</strong>
Tổ Chức Điều 19 hoan nghênh sáng kiến của Quốc hội để
sửa đổi Hiến pháp của Việt Nam, nhưng nhấn mạnh rằng
điều này phải được coi là một cơ hội để tăng cường
sự bảo vệ các quyền cơ bản chứ không phải là một cơ
hội để làm giảm đi các quyền này. Về mặt này, chúng tôi
kêu gọi Quốc hội xem xét các khuyến nghị của chúng tôi và
đảm bảo rằng văn bản của Dự thảo Hiến pháp được phù
hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền tự do phát biểu
và tự do thông tin.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130330/viet-nam-de-xuat-sua-doi-hien-phap-di-nguoc-lai-luat-phap-quoc-te),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét