Những năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi được chuyển đi
khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ
Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại
Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng
khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người
bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.
Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này
nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ
gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao
nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một
vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.
Ngày nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục
trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái lán lợp bằng nứa,
nền đất, ngồi chờ "đồng chí cán bộ quản giáo" đến
tiếp nhận.
<div class="boxright320"><img
src="http://sphotos-g.ak.fbcdn.net/hphotos-ak-ash4/992_445529955514771_445613339_n.jpg"
/></div>
Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào lán.
Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một
cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam
Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi
của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có
lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: - Đây
mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho
đủ?
Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng
tôi, miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh
mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.
Bằng một giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh, anh quản giáo giới
thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" môt số nội
quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập
vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm
bản "lý lịch trích ngang".
Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời
với bao nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đã
thuộc lòng từ lâu lắm - bởi đã phải viết đến cả trăm
lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm - bỗng
nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
- Trong này có anh nào thuộc Sư 23?
Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:
- Thưa cán bộ, có tôi ạ.
- Anh ở trung đoàn mấy.
- Trung Đoàn 44.
- Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa
hè 1972?
- Vâng, có ạ.
Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay
áo đong đưa, lên:
- Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía
tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:
- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
- Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:
- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng
của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi
thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
- Sau đó cán bộ được trao trả? tôi hỏi.
- Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ.
Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ
vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối
cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.
Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời
lạnh lắm. Mỗi lán được đào một cái hầm giữa nhà, đốt
những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao
động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống
sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ
tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh
của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức
khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy
ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:
- Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô
lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn
hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của
một người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón
tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần
ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết
lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày.
Nhiều người đứng không vững.
Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng
kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro
trong lán, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra
cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi
(loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này
đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.
Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em
bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
- Tôi để một giỏ cá đằng sau lán. Trước giờ ngủ, anh ra
mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để
các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt
cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm
động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông
dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả
đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một
hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho
anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy
cái bếp "Hoàng Cầm" để luộc sắn mà không ai phát hiện
có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang
lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích
thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh
"chuẩn bị đi về", anh em tức khắc giấu hết "tang
vật" xuống một cái hố đã đào sẵn.
Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi
được no -dù chỉ là no sắn-
Không biết tối hôm ấy, trong giờ "giao ban", quản giáo Thà
đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi
đã phát được bao nhiêu hecta rừng?
Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo
nhỏ:
- Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ
gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh
không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh
được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh
em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em:
- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết.
Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một
mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng
nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh
phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận
tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên
khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến
đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được,
đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may
mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di
chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi
trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng.
Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy
hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần
ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa
về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá
còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau
của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản
thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi
phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận
tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội.
Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ
cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết
thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia
tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ
dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình
con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm
ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì
lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là
người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở
về.
Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của
anh sắp nghẹn ngào.
- Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? -
một anh tù hỏi.
- Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và
những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh
phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm
cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học
tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử
tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều
ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn.
Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằn vặt mãi cho đến hôm nay.
Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/
Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.
Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng
trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ
huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi
đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh
em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn
ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn
lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến
dạng trước cổng trại.
* * *
Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 50 người vượt biển, trong đó
có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra
đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may
mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương
quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai
ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền
trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng
săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển
đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai
cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra
đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt
mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những
ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông
đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ
điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của
một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô
đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân
trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không
cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu
thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm
gởi phần đời còn lại của mình.
Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được
sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại
những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới
quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến
một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm
lòng. Sau lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa
Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ
cũng vất vả lắm.
Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng
bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một
bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này
trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh
tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một
năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty
lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.
Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo
là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và
đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người
con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là
vị hôn thê của anh.
Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi
ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm
ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của
quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng
niềm nỡ, đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là
bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học
ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô
được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp
gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và
một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên
Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí
tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô
được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp
một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem
việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và
nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng,
xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở
Đông Đức.
Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá
sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa.
Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một
thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với
anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc
gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du
học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng
tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen cho
biết bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô
cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn
khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều
gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước
Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm
nhà không tiếp xúc một ai.
Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở
về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang
ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.
Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản
giáo Nguyễn văn Thà thuở trước. Tôi cùng với mấy người
bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan
về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng
biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy
nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm
anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh.
Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: "ông
Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy,
làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên
Sơn". Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi
cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô
có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ
nhờ ông ta tìm hộ.
Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là
ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh
sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm
rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan,
nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa
phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại
của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh
thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ
một ít người ở thành phố có báo đọc.
Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con
cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới,
chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.
Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo,
tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa
đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C.
Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có
điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe. Đầu giây bên kia
là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối
hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận
nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.
- Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.
- Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là
mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:
- Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không
ạ?
- Ông Thà, Nguyễn văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là gì của ông
Thà, và sao lại ở Ba-Lan?
- Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em
trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
- Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn
tiền.
Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em
trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết
đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô
nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị
em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản
Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô
cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi
sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống
bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu
hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn
cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính
những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này
trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới
ở các nước Đông Âu.
Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa,
nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng nhiều
lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình
thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang
đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia
vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em
trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc
xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.
- Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.
- Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám
chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ
nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng.
Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi
cho bác.
- Ba cháu bây giờ làm gì?
- Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não,
liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em
cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu
điều trị và sống qua ngày bác ạ.
Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên
nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và
hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.
Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi
quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi
ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt
không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về
sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh
đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy
một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai
đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia
đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn
chính trị.
Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một
thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng
chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay
đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo
đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu
tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn
của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá
lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến
tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ
thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của
người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên
lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ
chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm
và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui
mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi
một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho
VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có
dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi.
Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia
đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh
những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng
phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại
tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con
hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh.
Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi,
hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.
Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở
với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em
của Hà từ trại tù về.
Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm
tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền
để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố
hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko
bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong
nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.
Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị
em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính
thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ
Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ
được tiếp tục theo học tại một trường trung học.
<blockquote>Các Anh thân quí
Khi ngồi viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không
còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi
làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay
các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan
gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi
cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm
tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác:
"Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ
của đồng loại để chăm lo cho bộ lông của mình". Ngày nay,
cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy
chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ
bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để
che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên
kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc.
Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn
làm ngược lại lời nói này của Mác.
Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi
nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà
đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả
biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi
để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó
của kiếp con người.
Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ,
tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc
bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật,
tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt
trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp
không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà
phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.
Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị
em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới
còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có
giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là
về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà
nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào
chúng tôi mới trả được cho các anh đây.
Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con
người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con
người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với
thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng
chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được
chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để
làm khốn khổ cả nhân gian…"</blockquote>
<center>* * * * *</center>
Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng
chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó
không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh
mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh,
đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn
chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại.
Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận
giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài
cho đến bao giờ?
Phạm Tín An Ninh
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130324/pham-tin-an-ninh-o-cuoi-hai-con-duong),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét