Phong Uyên - Cần phân biệt Mác giả (là Mác-Lênin) và Mác thật (là Mác-Ănghen)

Từ 66 năm nay, cái gọi là chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở
thành quốc giáo, được khẳng định trong Hiến pháp và hiện
vẫn chiếm 15% thời trình bắt buộc của mỗi sinh viên đại
học. Thời Trung cổ, môn thần học Công giáo, bị bắt buộc
giảng dậy ở Đại học Sorbonne cho sinh viên toàn cõi Âu châu,
cũng không chiếm một thời lượng lớn như vậy.

Có điều là từ thày đến trò ít người biết - hay có biết
cũng không dám nói - là cái chủ nghĩa Mác-Lê này không có
thật mà chỉ là một bịa đặt của Staline một năm sau khi
Lénine chết (1924), với mục đích duy nhất là mượn danh Marx
triệt tiêu những phần tử bị nghi ngờ là chống đối mình
hay muốn tranh giành quyền hành với mình.

Thật ra, ngay cả cái mà mọi người từ trước tới nay vẫn
coi là chủ nghĩa Marxiste cũng không bao giờ là một chủ nghĩa
mà chỉ là một hệ tư tưởng được Marx và Engels trình bày
trong bản Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848 và trong cuốn Tư bản
luận mà hai người là đồng tác giả. Hệ tư tưởng
Marx-Engels này được Engels hoàn chỉnh 6 năm sau khi Marx mất
để tạo ra một chủ nghĩa gọi là Dân chủ - Xã hội. Bởi
vậy đứng về phương diện lịch sử phải nói là không có
chủ nghĩa Mácxít mà chỉ có chủ nghĩa Dân chủ-Xã hội.

Engels là người thực tiễn, có óc tổ chức nên đã thành
lập Đệ Nhị Quốc tế Dân chủ-Xã hội mà mỗi chi bộ là
một đảng Dân chủ-Xã hội của mỗi nước. Lénine mới đầu
chỉ là một lãnh tụ của đảng Dân chủ-Xã hội Công nhân
Nga (PSDOR), đã biến phái thiểu số trong đảng thành một
đảng riêng cho mình gọi là đảng Bôn sê víc và sử dụng nó
như một công cụ để làm đảo chính cướp quyền và giữ
quyền trong cái gọi là Cách mạng 1917. Phái Bôn sê víc sau này
được Lénine phong là đảng Cộng sản, không dính dáng gì
đến Marx và Engels cả ngoài một vài khái niệm của Marx và
Engels bị Lénine đánh tráo.

Nói tóm lại, thừa kế chính thống của hệ tư tưởng
Marx-Engels là những chế độ Dân chủ - Xã hội ở Âu châu và
ở nhiều nước trên thế giới (Nhật Bản, Úc... ) hiện nay.

Nhưng chỉ có thể giải thích tại sao một hệ tư tưởng có
thể bị Lénine và Staline lợi dụng và biến đổi để chế
ngự nền chính trị của một phần ba nhân loại từ đầu
thế kỷ thứ XX cho đến nay nếu có được những hiểu biết
thật sự về con người thật của 2 nhân vật đã sáng tạo
ra nó, Marx và Engels và 2 nhân vật đã mạo danh nó để phục
vụ mưu đồ chính trị của mình, Lénine và Staline.

Tôi chia bài viết làm 3 phần:

1) Tìm hiểu con người thật của Marx, Engels, Lénine, Staline.
Muốn có những hiểu biết về con người thật của những
nhân vật này, cần phải đem họ ra khỏi những ánh hào quang
giả tạo, những thêu dệt phong thần phong thánh và biết rõ
nguồn gốc gia đình, thân thế và sự nghiệp của mỗi con
người này.

2) Lược qua những khái niệm chính trong tư tưởng Marx - Engels.
Vạch trần những thủ đoạn đánh tráo nó của Lénine và
Staline.

3) Chứng minh thừa kế chính thống của tư tưởng Marx - Engels
là những chế độ Dân chủ - Xã hội từ thời sinh tiền Engels
cho tới ngày nay.

<h2>1) Con người thật của Marx, Engels, Lénine, Staline:</h2>

<strong>Marx (1818-1883):</strong> sinh ở hạt Rhénanie nằm ở gianh
giới giữa Pháp và Đức, thuộc Pháp từ Cách Mạng 1789. Đến
năm 1815 khi Napoléon thua trận, hạt này thuộc về nước Phổ.

Là dòng dõi một vọng tộc gốc Do Thái có nhiều
người làm giáo sĩ tuy sau cả gia đình đều rửa tội theo
đạo Phản thệ. Cha của Marx là luật sư. Kết hôn với Jenny
Von Wesphalen thuộc dòng dõi quí tộc Phổ có anh là bộ trưởng
bộ Nội vụ trong chính phủ Hoàng gia Phổ. Marx được giáo
dục theo chuẩn mực của những gia đình thượng lưu Âu châu
thời ấy, lấy văn minh Hi Lạp, La Mã và văn hóa Pháp làm căn
bản. Là một người rất thông thái: Trước học luật để
nối nghiệp cha. Sau bỏ luật học triết, làm luận án tiến sĩ
triết học bằng tiếng cổ Hi Lạp với đề tài "Sự khác
biệt về triết lý thiên nhiên giữa Democrite và Epicure". Marx
quen sống trong tháp ngà, công việc thất thường chỉ lo viết
sách nên đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn tuy lúc đầu
được gia đình bên vợ chu cấp, sau chỉ còn Engels giúp đỡ.
Có đời tư khá bê bối, đẻ con rơi với một người nữ
quản gia được gia đình vợ gửi qua Anh nuôi mấy đứa con
của Marx. Engels là người phải nhận làm con mình để tránh tai
tiếng cho Marx.

<strong>Engels (1820-1895):</strong> Sinh cùng hạt Rhénanie với Marx
trong một gia đình tư bản siêu quốc gia có xưởng dệt ở
Đức và ở Manchester (Anh). Học Triết Hegel như Marx và cũng
thông thái như Marx, nhất là về ngoại ngữ, thông thạo 15 thứ
tiếng, không kể tiếng Latin và tiếng cổ Hi Lạp mà giới trí
thức Âu châu thời ấy đều phải biết. Trái với Marx, Engels
là người thực tế chịu làm quản lý trong những xưởng dệt
của gia đình, nhờ vậy mà có phương tiện tài chính hoạt
động chính trị giúp đỡ giới công nhân. Engels cũng là
người "lời nói đi đôi với việc làm", chung sống với một
nữ công nhân (Lydia Burn) cho đến khi chết và cũng dấn thân
tham dự những trận đánh chống quân đội nước Phổ khi Cách
mạng năm 1848 từ Pháp lan tràn qua Đức. Engels quen Marx từ năm
1842 và bắt đầu từ năm 1847 viết chung với Marx, đặc biệt
là 2 cuốn Tuyên ngôn của đảng Cộng sản và cuốn Tư bản
luận.

Cùng một sinh quán, cùng chịu ảnh hưởng của các nhà khai
sáng và các nhà cách mạng Pháp, cùng chung nhau một đời sống
tinh thần và vật chất, Engels và Marx còn hơn cả Lưu Bình
Dương Lễ thời xưa, nên về tư tưởng, khó mà phân biệt
được phần nào của Marx phần nào của Engels.

<strong>Lénine (1870- 1924):</strong> Con một ông thanh tra
học vụ của Nga Hoàng mang 2 dòng máu Nga và Kalmouke, 1 dân tộc
thuộc bộ tộc Mông Cổ theo đạo Phật. Ông này có công "Nga
hóa" dân tộc của mình nên được Nga Hoàng phong cho một tước
nhỏ trong hàng quí phái nhưng bắt phải rửa tội theo đạo Ki
Tô Chính thống. Bên mẹ Lénine mang 2 dòng máu Đức và Do Thái
cũng phải từ bỏ đạo Phản thệ của Đức để cải qua
đạo Chính thống của Nga. Vì vậy có thể nói, con người
Lénine đã là tạp chủng mà về tinh thần lại còn chịu ảnh
hưởng của mọi thứ đạo. Lénine tốt nghiệp luật sư năm
1891. Thành tích cuộc đời "cách mạng" của Lénine là 1 năm tù
và 3 năm bị quản thúc (1897-1900) trong làng của ông nội
mình ở Sibêri sau khi ở Thụy Sĩ về (1895) vì có chân trong
một hội kín. Nhưng trong thời gian bị quản thúc, có mẹ ở
bên cạnh, được cung cấp sách vở tự do viết lách, được
quyền lập gia đình để cùng vợ chung sống với nhau (1898)
trong thời gian bị quản thúc. Vợ Lénine, Nadejda Kroupskaia là con
một sĩ quan cũng thuộc dòng quí phái. Sau thời gian bị quản
thúc từ năm 1900 trở đi, Lénine luôn luôn sống ở nước
ngoài, khi thì ở Genève , khi thì ở Paris. Khi ở Paris, Lénine
còn đèo thêm một người tình là Elisabeth (Inessa) Armand, lai
Pháp và Anh, con nuôi một gia đình đại tư sản Nga, lấy
người con trai thừa kế của gia đình rồi bỏ chồng tuy đã
có 4 đứa con. Khi Lénine ở Paris, vợ và người tình ở 2 nhà
cạnh nhau cùng đường phố trong khu nghệ sĩ Montparnasse sang
trọng. Lénine hàng ngày ra quán Closerie des Lilas (vẫn nổi
tiếng cho đến tận bây giờ) nhậu nhẹt với giới thượng
lưu trí thức sà lông Pháp, bàn về giai cấp công nhân. Tháng
Tư năm 1917, Lénine được Đức đem xe bọc sắt có bảng ngoại
giao đem từ Thụy sĩ xuyên qua Đức về Moscou. Vì vậy mà có
tin đồn Lénine được Đức trợ cấp 2 triệu Đức mã để
đảng Bolchevik của Lénine làm cuộc đảo chính chống chiến
tranh, đòi hòa bình với Đức (CM tháng 10). Khi trở về Nga,
Lénine đem cả vợ và Inessa Armand về và cung cấp cho Inessa một
ngôi nhà ở khu sang nhất Moskova. Khi còn ở Pháp bộ 3 cũng
đã có nhiều lần sống chung hòa bình với nhau trong một ngôi
nhà nghỉ của Lénine ở ngoại ô Paris cạnh ngôi trường Lénine
lập lên để đào tạo cán bộ cho đảng của mình. Lénine
phong cho người tình danh hiệu giáo sư và khi Inessa giảng dạy
thì Lénine ngồi hàng đầu, cặp mắt đắm đuối nhìn, nuốt
từng chữ một. Trong cuốn hồi ký "Đời sống của tôi với
Lénine", Kroupskaia có kể lại và ca tụng người tình của
chồng mình: " khi Inessa bước chân vào nhà, căn nhà bỗng nhiên
bừng sáng". Năm 1920 khi Inessa mất vì bệnh dịch tả, Lénine
buồn vô hạn và cho chôn ở Công Trường Đỏ dưới tường
thành điện Kremlin. Inès Armand là người đàn bà Pháp duy nhất
được chôn ở Công Trường Đỏ. Lénine chết năm 1924. Y học
ngày nay phát hiện nguyên nhân của sự chết là vì biến chứng
của bệnh giang mai được chữa chạy từ năm 1895.

<strong>Staline (1879-1924):</strong> Là người ít học nhất. Bị cha
nghiện rượu đánh đập suốt ngày nên người mẹ phải gửi
từ năm 14 tuổi cho mấy cha cố nuôi mong sau này đi tu trở
thành cha. Năm 19 tuổi không chịu đi thi, bị đuổi khỏi tiểu
chủng viện làm người mẹ rất buồn bực. Sau này, khi công
thành danh toại, Staline trở về làng thăm mẹ, khoe với mẹ là
mình bây giờ đã thay Sa hoàng. Người mẹ chỉ trả lời, tao
thích mày làm cha cố hơn. Staline giận tím người đến khi mẹ
chết cũng không về đưa đám. Staline tuy vậy vẫn giữ nề
nếp tổ chức của Giáo hội, biến đảng cộng sản thành
một thứ giáo hội mà mình là giáo chủ. Cái giáo hội "Cộng
sản" này có nhiều người "tử vì đạo" nhất vì bàn tay của
Staline.

<h2>2) Những khái niệm chính trong tư tưởng Marx - Engels và
Lénine, bị Staline đánh tráo như thế nào?</h2>

Marx đã nhiều lần tự nói "tôi không phải là người
Mác-xít" và cũng tự than "Là một nhà kinh tế, vậy mà tôi
không lo nổi kinh tế cho chính bản thân mình".

Ngay cả danh từ "cộng sản" cũng không phải do Marx đặt ra
mà là của Engels: Năm 1847 Marx thảo một bản đả kích (un
pamphlet) trong đó Marx nhân danh những người Công chính (les
Justes) lặp lại gần như toàn thể những nguyên lí Cộng sản
của Engels. Engels góp ý với Marx là phải trình bày làm sao cho
thật dễ hiểu và phải tìm một nhan đề thật kêu để lôi
cuốn giới công nhân. Bài đả kích của Marx được Engels
biến thành một bản Tuyên ngôn (Manifeste) : Tuyên ngôn của
đảng Cộng sản. Thật ra hồi đó chưa có đảng cộng sản
mà chỉ có "Liên đoàn những người cộng sản" mà tên đầu
tiên là "Liên đoàn những người công chính" (Ligues des Justes).
Ngay cả câu "Vô sản mọi xứ trên toàn cầu hãy hợp nhất
lại" cũng là theo ý của Engels chứ mới đầu Marx chỉ muốn
đưa ra châm ngôn như "Tứ hải giai huynh đệ" của Khổng Tử:
"Mọi người đều là anh em". Có lẽ Marx vẫn chịu ảnh hưởng
của câu "Tự do, Bình đẳng, Huynh đệ" của Cách mạng Pháp.

Qua những phát hiện mới nhất, trong 4 tập của cuốn Tư bản
luận, Marx chỉ viết có tập đầu. Tôi xin kể lại lai lịch
của những cuốn sau:

Bắt đầu từ năm 1865 Marx đã bỏ nhiều công sức viết cuốn
Tư bản luận. Nhưng chỉ có tập đầu xuất bản năm 1875 (và
được dịch ngay ra tiếng Pháp) là có sự kiểm tra của Marx.
Tập 2 xuất bản năm 1885 và tập 3 xuất bản năm 1894 được
biên soạn bởi Engels. Tập 4 do Karl Kautsky (1854-1938), 1 lãnh tụ
của đảng Dân chủ- Xã hội Đức biên tập và xuất bản năm
1905-1910. Tuy nhiên mới đây người ta đã công bố các tập sau
của bộ Tư bản luận mà David Ryazanov (một học giả Bônsêvíc
bị Stalin xử bắn năm 1938) dịch từ bản thảo viết tay của
Marx có rất nhiều khác biệt khi so sánh với các tập Tư bản
luận mà Engels biên soạn, thậm chí có nhiều đoạn đã bị
Engels thay đổi. Điều này khiến có thể đặt câu hỏi, trong
bộ Tư bản luận được biết hiện giờ phần nào thật sự do
Marx viết, phần nào do Engels tu bổ, đổi nghĩa? Cũng cần phải
nói thêm rằng bộ Tư bản luận xuất bản ở Liên Xô từ
thời Staline, và có lẽ bây giờ vẫn còn được giảng dậy
trong những trường Đảng ở Việt Nam qua bản dịch của nhà
Xuất bản Tiến bộ ở Moskva, sau này được nhà Xuất bản Sự
Thật (nay là nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia trực thuộc TW
ĐCSVN) nối bản, chỉ là một "version" đã bị chỉnh lý lại
theo ý Staline.

Bởi vậy có thể khẳng định: Những khái niệm về kinh tế-
chính trị trong Tuyên ngôn của đảng Cộng Sản và trong mấy
tập sau của Tư bản luận là những tư tưởng của cả Marx và
Engels.

<h3>a) - Những khái niệm thuần triết học của Marx: </h3>

Những khái niệm thuần triết học này được Marx trình bầy
trong "Những bản viết tay 1844" (Les Manuscrits de 1844). Hai khái
niệm chính là:

<strong><em>Biện chứng:</em></strong> Marx là một triết gia dùng
biện chứng pháp để suy luận như nhiều triết gia Cổ Hi Lạp
cách đây 2500 năm. Biện chứng pháp tương đồng với Âm/Dương
trong Kinh Dịch. Thật ra Biện chứng của Marx chỉ là biện
chứng của Hegel và phải được hiểu như một chuyển tiếp đi
từ luận đề đến phản luận đề rồi đến hợp đề và
đòi hỏi luôn luôn phải vượt qua những mâu thuẫn. Nhưng Marx
khác với Hegel ở chỗ là biện chứng Hegel là biện chứng tinh
thần (Ý tưởng), còn biện chứng Marx là biện chứng của
vật chất.

<em><strong>Tha hóa sức lao động (Die entfremdete Arbeit). Vong thân
(Enttausserung):</strong></em> Trong thế giới tư bản, người lao
động phải bán rẻ sức lao động của mình nên luôn luôn có
ấn tượng sản phẩm do công sức mình tạo ra xa lạ (tha hóa)
với chính mình. Con người chỉ khác con vật ở chỗ tạo ra
sản phẩm bằng sức lao động. Khi sản phẩm của sức lao
động bị tước đoạt, trở thành xa lạ với người làm ra nó
thì người đó cũng trở thành xa lạ với chính mình, không
thấy mình là mình nữa như đã ra khỏi mình (vong thân). Marx
chỉ nhái Hegel: theo Hegel, vong thân là tinh thần của mình trở
thành xa la như đã ra khỏi bản thân mình.

<em><strong>Duy vật lịch sử:</strong></em> Những mối liên quan
trong sản xuất phụ thuộc vào những lực lượng vật chất.
Toàn bộ những tương quan sản xuất này kiến trúc kinh tế
của xã hội, tạo cơ sở cho pháp lý và chính trị. Nói tóm
lại kinh tế là hạ tầng cơ sở, chính trị chỉ là thượng
tầng kiến trúc. Những mâu thuẫn thường trực giữa những
quan hệ sản xuất và những lực lượng sản xuất là nguồn
gốc của những đảo lộn trong lịch sử. Ý thức con người
cũng chỉ là ý thức những quan hệ đó và tạo ra con người.

<h3>b) - Những khái niệm Xã hội - Kinh tế của Marx và
Engels:</h3>

<em><strong>Đấu tranh giai cấp:</strong></em> Theo Marx và Engels,
"đấu tranh" chỉ có nghĩa là sự đối nghịch giữa những lớp
người (classes) đứng cùng một vị trí trong sàn xuất xã hội.
Hai lớp người đối nghịch nhau trong thời Marx và Engels là
lớp người nắm phương tiện sản xuất mà Marx gọi là la
classe bourgeoise (lớp người thành thị) và le Prolétariat, lớp
người làm công ăn lương. Lớp người "làm công ăn lương"
không phải là những người không có của cải (vô sản) hay
những người nghèo, mà chỉ có nghĩa là phải bán công việc
của mình để được trả lại bằng một đồng lương nhất
định. Theo định nghĩa này, người Prolétaires là những người
công nhân. Thời cổ La Mã, người prolétaires có nghĩa khác:
công dân hạng thứ 6, đứng trên những người nô lệ. Nô lệ
cũng không có nghĩa là nghèo hèn nhất trong xã hội mà chỉ có
nghĩa là bị mất tự do vì có người nô lệ là triết gia,
thày học hay thày thuốc, bị mất tự do vì là công dân của
những nước thua trận bị người La Mã bắt đem về. Những
từ ngữ "đấu tranh", "giai cấp", "tư sản", "vô sản"... là
những chữ Tàu dịch bậy. Tôi đã có lần viết "Dịch là cái
họa" trong Talawas. Cái "họa dịch" này đã làm Việt Nam khổ
cực từ 66 năm nay!

<em><strong>Chuyên chính vô sản:</strong></em> Từ ngữ "chuyên
chính" được Babeuf (1760-1797) dùng từ trước thời Cách mạng
1789 Pháp. Còn thành ngữ "chuyên chính vô sản" cũng không phải
do Marx và Engels đặt ra vì lần đầu tiên được nghe nói tới
là trong cuộc Cách mạng 1848. Marx và Engels định nghĩa "chuyên
chính vô sản" là lớp người đông nhất trong xã hội (dưới
thời Marx-Engels là lớp người thợ thuyền) cần được tổ
chức để trở thành lớp người nắm ưu thế (classe dominante)
chính trị và lên cầm quyền. Marx và Engels chỉ theo đúng quy
định dân chủ là chính quyền phải thuộc về thành phần
đông nhất trong xã hội. Lẽ tất nhiên là trong xã hội ngày
nay, lớp người công nhân không còn là đa số trong xã hội
nữa và ưu thế chính trị phải thuộc về những lớp người
khác thông qua bầu cử.

<em><strong>Lénine đã bóp méo những khái niệm của Marx và Engels
như thế nào?</strong></em>

1) Lénine đã phản bội Engels khi tách phái Bônsêvích ra khỏi
đảng Dân chủ-Xã hội Công nhân Nga nằm trong Đệ Nhị Quốc
tế Dân chủ-Xã hội của Engels, biến phái này thành một
đảng và sử dụng nó như một công cụ để cướp quyền,
giữ quyền.

2) Sau Cách mạng tháng 10, Lénine đã đánh tráo khái niệm
chuyên chính vô sản của Marx khi phong đảng Bôn sê vích là
đảng tiền phong của giai cấp vô sản, là đảng độc nhất
lãnh đạo giai cấp vô sản nắm quyền lực nhà nước, trấn
áp giai cấp tư sản, thống trị chính trị. Chế độ độc
đảng lãnh đạo toàn trị ra đời. Những từ ngữ "đảng
tiền phong ", "trấn áp", "thống trị" không có trong tư tưởng
Marx-Engels: Lénine đã tự đặt ra để định nghĩa nền chuyên
chính của mình. Nhà nữ cách mạng marxiste Rosa Luxembourg coi
Lénine như là kẻ đã phản bội Marx khi áp đặt chế độ
chuyên chính vô sản này. Những lý thuyết gia Marxistes khác thì
cho chuyên chính vô sản của Lénine chỉ là "chuyên chính trên
người vô sản" hay chỉ là một nền "tư bản Nhà nước".

3) Nhưng ngay các đảng viên Bôn sê vích cũng bị Lénine tước
quyền dân chủ khi Lénine đặt ra cái gọi là Tập trung dân
chủ. Theo cách diễn giảng của Lénine: "Dân chủ là các đảng
viên được quyền bầu các cơ quan lãnh đạo và các bí thư
các cấp. Tập trung là những quyết định của tổ chức đảng
cấp trên là bắt buộc với các tổ chức đảng cấp dưới và
cuối cùng các đảng viên phải chấp hành không có tranh cãi
chống đối". Không cần phải nói thêm, đảng viên nào cũng
thừa biết quyền tự do bầu cử của các đảng viên là "cấp
trên" bảo bầu ai thì bầu người ấy. Cấp trên (3-4 người
trong ban thường vụ bộ Chính trị) ra quyết định thì phía
dưới từ ủy viên trung ương trở xuống chỉ việc chấp hành.

Khi bịa đặt ra cái chủ nghĩa Mác - Lênin, Staline không những
đã bôi nhọ tư tưởng Marx - Engels, mà còn sử dụng nó như
một công cụ để củng cố chế độ độc tài cá nhân của
mình

<em><strong>Ác giả ác báo:</strong></em> Trước khi chết Lénine
đã để di chúc nói rõ Staline là con người tàn bạo, cần
phải kiếm người khác thay thế. Nhưng những thân tín của
Lénine chưa kịp ra tay thì đã bị Staline giết hết. Chỉ trong
một thời gian, cả bộ Chính trị của Lénine bị giết không
còn một người nào. Đó cũng là số của nước Nga gặp phải
hung thần chứ trước khi chết Lénine đã hối hận, tái lập
lại cái gọi là Kinh tế chính trị mới (NEP, Nouvelle Économie
Politique). Nếu Lénine còn sống thêm vài năm nữa, có thể
Lénine sẽ trở về với chế độ Dân chủ Xã hội của Engels.

Cái định nghĩa đúng nhất về chủ nghĩa Mác-Lê Nin là của
Souvarine, một người Marxiste theo phe Lénine chống lại Staline và
là một trong những sáng lập viên của đảng Cộng sản Pháp:
"<em>Chủ nghĩa Mác - Lê Nin chỉ là một cách nói láo khoét
được Staline đặt ra sau khi Lénine chết để che giấu những
thủ đoạn quái gở của mình. Thực ra nó đồng nghĩa với
chủ nghĩa Stalinit, ngược với luận thuyết của Marx và chỉ
làm lố bịch những ý tưởng của Lénine</em>". Souvarine cho cái
chủ nghĩa Stalinit chỉ là một cái chủ nghĩa Tư bản Nhà
nước (Capitalisme d'État).

Nói tóm lại, Staline cũng như mọi nhà độc tài trên thế
giới từ thượng cổ chí kim như Néron, Tần thủy hoàng, Mao,
Pôn Pốt... , lại là người thiếu học không biết một chủ
nghĩa nào cả ngoài lấy lại một vài từ ngữ thật kêu để
lấy nó làm thần chú cho những chính sách tàn bạo của mình.
Staline cũng chỉ coi đảng cộng sản Bôn xê vích và Đệ Tam
Quốc tế của Lénine như những công cụ nên không ngần ngại
thanh trừng triệt tiêu bất cứ ai trong những tổ chức này
bị nghi ngờ là có ý chống đối mình, kể cả những lãnh tụ
cộng sản những nước nằm trong đệ Tam Quốc tế (cụ Hồ
cũng suýt bị Staline thủ tiêu).
Từ ngữ "Chuyên chính vô sản" cũng bị Staline gạch bỏ luôn
trong bản Hiến pháp sửa đổi năm 1936.

<h2>3) Thừa kế chính thống của tư tưởng Marx - Engels là các
nền dân chủ - xã hội</h2>

Nói là thừa kế chính thống vì chính Engels là người đã
cập nhật tư tưởng của mình và của Marx trong bản Tuyên Ngôn
Cộng sản năm 1848 cho hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội ở
Tây Âu 40 năm sau, khi sáng lập Đệ Nhị Quốc tế Dân chủ -
Xã hội năm 1889 và thay Tuyên ngôn Cộng sản bằng Tuyên ngôn
Nhân quyền của Cách mạng 1789 Pháp. "Nhân quyền" này phải
được hiểu theo nghĩa rộng là nhu cầu căn bản về vật chất
và tinh thần mỗi con người (chứ không phải chỉ giới công
nhân) phải được bảo đảm.

Engels rút kinh nghiệm sự thất bại của những đấu tranh bạo
động ở Pháp từ 1848 đến 1871 được Marx phân tích trong
cuốn Đấu tranh giai cấp ở Pháp, nhận thấy là không thể cứ
tiếp tục đấu tranh bạo động mà phải đi theo con đường
đấu tranh ôn hòa từng bước một với điều kiện là phải
phát triển và tăng cường các công đoàn và các đảng công
nhân cho ngang sức với các tập đoàn chủ nhân.

Đệ Nhị Quốc Tế Dân chủ - Xã hội có nhiệm vụ tập hợp
mọi tổ chức như các công đoàn, các đảng Dân chủ - Xã hội
của mọi nước trên thế giới.

Các công đoàn, các đảng Dân chủ - Xã hội nằm trong đệ
Nhị Quốc tế được Engels phân công rõ ràng:

<em><strong>Về mặt xã hội</strong></em>, tập hợp công nhân
trong những tổ chức, những công đoàn có đủ sức mạnh bắt
buộc giới chủ nhân phải chấp nhận những yêu cầu lương
bổng, điều kiện làm việc của mỗi công nhân và những cải
thiện đó phải được bảo đảm bởi những công ước tập
thể.

<em><strong>Về mặt chính trị</strong></em>, các đảng dân chủ -
xã hội chấp nhận thể chế đại nghị (đa đảng), cử đại
diện của mình thông qua bầu cử, kể cả ở những cấp bậc
thấp nhất (dân chủ). Và nếu giành được đa phiếu trong
Quốc hội thì sẽ trực tiếp cầm quyền chính trị. Còn nếu
không thì cũng sẽ làm áp lực để cải tổ các cơ chế xã
hội, chính sách đóng góp chi thu, chính sách thu thuế theo lũy
tiến để phân phối lại lợi tức một cách công bằng hơn,
thông qua các hình thức giảm thuế, miễn chi phí cho các tầng
lớp cần lao. Trong chế độ dân chủ xã hội, Nhà nước giữ
vai trò trọng tài xã hội, giám sát, điều hòa thị trường
kinh tế, truy thu và phân phối lợi tức qua thuế má, nhờ vậy
mà chênh lệch giầu nghèo không quá lớn và đa số những thành
phần trong xã hội thuộc về hạng trung lưu nên ít có những
xung đột giữa các tầng lớp trong xã hội.

<em><strong>Về mặt kinh tế</strong></em>, quyền tự do kinh doanh
phải được bảo đảm vì đó là đầu mối của mọi tiến
triển kinh tế.

Nhưng cũng phải nói, cho đến tận giữa thế kỷ thứ XX, các
đảng Dân chủ - Xã hội Âu Tây, tuy đã bỏ con đường đấu
tranh bạo động, nhưng vẫn còn tiêm nhiễm tư tưởng kinh tế
chính trị tập trung của Marx-Engels. Đảng Xã hội Pháp cho
đến tận đầu năm 80 vẫn còn mang tên "Phân bộ Pháp Quốc
tế Thợ thuyền" (SFIO). Khi Mitterrand thắng cử lên cầm quyền
năm 81, vẫn liên kết với đảng Cộng sản, thành lập chính
phủ liên hiệp cùng với các đảng phái tả khác và đưa ra
chương trình quốc hữu hóa những nhà Ngân hàng và những xí
nghiệp công nghệ lớn (thật ra bắt đầu từ De Gaulle ngay sau
Thế chiến thứ Hai). Đảng Dân chủ - Xã hội đầu tiên chính
thức từ bỏ kinh tế chính trị Marxiste là đảng Dân chủ - Xã
hội Đức sau Hội nghị Bad Godesberg năm 1959, khi thông qua Cương
lĩnh Godesberg. Đa số các đảng Dân chủ - Xã hội cũng theo
gương, cắt đứt lần lần mọi ràng buộc với tư tưởng kinh
tế thuần Marx. Vả lại xã hội cũng trở thành phức tạp với
nhiều thành phần, nhiều lobbies chống đối nhau chứ không
phải chỉ có hai giai cấp như hồi Marx. Vì vậy các đảng Dân
chủ - Xã hội lần lần trở thành những đảng đa thành phần
gồm nhiều tầng lớp nhân dân và trí thức chứ không phải
chỉ là đảng của giai cấp thợ thuyền. Có thể nói, bắt
đầu từ nửa sau thế kỷ thứ XX, ý tưởng dân chủ xã hội
là động cơ của những cải cách ở các nước Tây Âu và Bắc
Mỹ, cũng như ở Nhật Bản và Úc... Các thể chế Dân chủ -
Xã hội này cũng chịu nhiều ảnh hưởng của học thuyết
Keynes, dành cho Nhà nước quyền can thiệp tạm thời về kinh
tế để tránh khủng hoảng như đưa ra những chính sách đầu
tư và tiết kiệm của Nhà nước.

<h2> Kết luận</h2>

Chắc chắn có nhiều vị chống cộng "mút mùa", từ trước
tới nay vẫn cho Marx là nguồn gốc của "tai ương cộng sản",
sẽ cho tôi là muốn chạy tội cho Marx. Nhưng cũng có những vị
kiên định CN Mác-Lê cho tôi là theo "chủ nghĩa xét lại" kiểu
dân chủ-xã hội hay là một người nham hiểm, tay sai của
một thế lực thù địch nào đó, muốn lấy gậy Marx-Engels
đập lưng ông Lênin để phá bỏ cho bằng được nòng cốt
của chế độ XHCN của Ta. Tôi chỉ xin thưa: những gì tôi
nói về tư tưởng Marx không phải được lấy ra từ những tài
liệu phản động nào, mà đều được chích dẫn từ một
cuốn Triết học tổng quát lớp 12 các trường Trung học Pháp
mà mọi học sinh thi Tú tài Pháp nào cũng phải học (nghĩa là
85% lớp tuổi của mỗi thế hệ trẻ Pháp). Thật ra ở Việt
Nam muốn học Marx chính cống chỉ cần lấy lại những bài
giảng về triết học Marxiste (nếu chưa bị đốt hết vì bị
coi là tài liệu phản động) được diễn giảng ở những
trường Đại học miền Nam ngày trước.

Sở dĩ tôi viết lại bài này là có ý muốn các bạn học
sinh, sinh viên trong nước tự đặt câu hỏi tại sao cũng cùng
một hệ tư tưởng Marx-Engels mà chế độ Dân chủ-Xã hội
biết biến đổi nó để đưa tới dân chủ, thịnh vượng,
bình đẳng xã hội, không còn cảnh người bóc lột người, mà
chế độ cộng sản lại đưa đến độc tài, nghèo đói, chết
chóc, chênh lệch giầu nghèo quá lớn như trong một vài nước
cộng sản còn sót lại ngày nay? Dễ hiểu lắm: Lénine, Staline,
Mao và những ai nữa, các bạn đều biết, đã cố ý bẻ cong
tư tưởng của Marx và Engels để biến nó thành một chủ nghĩa
chỉ có mục đích duy trì quyền lợi cho phe phái mình và phục
vụ cho chính thể độc tài của mình.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/14279), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét