<div class="rightalign"><em>Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn tại
Cẩm Giàng, Hải Dương ngày 9/4/2008</em></div>
<h2>XUÂN DIỆU – HUY CẬN VỚI TỰ LỰC VĂN ĐOÀN</h2>
Tự Lực Văn Đoàn được thành lập vào ngày 2-3-1933 bởi nhóm
làm báo Phong Hóa mà theo Xuân Diệu và Huy Cận gồm bảy
người: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh
Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường
Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) và
họa sỹ Nguyễn Gia Trí (2) với Nhất Linh làm giám độc, có
trụ sở tại 80 Grand-Bouddha (tức Quán Thánh) Hà Nội (điều
kỳ khôi là Tự Lực Văn Đoàn do báo Phong Hóa "đẻ" ra
nhưng đứa con ấy lại mang sứ mệnh định hướng tồn tại
cho chính kẻ đã sinh ra mình!). Nhóm này chủ trương "<em>Tự
sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ
không phiên dịch sách nước ngoài… để làm giàu thêm văn
sản trong nước</em>", "<em>Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp
của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác
đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách
trưởng giả, quí phái</em>" và nhất là "<em>Trọng tự do cá
nhân</em>". Con số 7 gắn với mục đích văn chương này gợi
nhớ tới Pléiade gồm bảy nhà thơ của Pháp thế kỷ 16 do
Ronsard và Du Bellay cầm chịch nhưng <em><strong>Tự Lực Văn Đoàn
chỉ có thể được coi là "bản sao" của Thất tinh Pháp
với sự gia nhập của Xuân Diệu</strong></em>. "Và từ đây
chúng ta đã có Xuân Diệu", lời reo vui ấy của Thế Lữ trong
Tựa <em>Thơ thơ</em> cũng chính là sự hoan nghênh nhiệt liệt
của nhóm Tự Lực dành cho chàng thi sĩ "hiền hậu và say
mê" được khám phá bởi chính họ. Quả vậy, Xuân Diệu ra
mắt công chúng với Với bàn tay ấy in trên báo Phong Hóa năm
1935 khi còn là cậu học sinh Lycée (trung học) Khải Định và
Thế Lữ chính là người đã có "con mắt xanh" phát hiện ra
và hơn thế nữa hết lòng tuyên truyền cho tài năng ấy. Giở
lại trang thư của tác giả <em>Nhớ rừng</em> gửi Xuân Diệu
từ 1936, ta có thể đọc: "Lúc nào nghĩ đến anh, hay nói
đến anh trước mặt bạn hữu tôi, tôi đều thấy vui vẻ sung
sướng như nghĩ đến, nói đến một thứ tài trong trẻo và có
hy vọng rất nhiều. Nhiều lần tôi đọc thơ anh cho người
khác nghe để giảng dẫn cho họ thấy những tình cảm rất
tươi thắm mà chưa nhà thi sĩ Việt Nam nào phô diễn ra được.
Tôi tin ở tài anh lắm và lúc nào cũng mong được đọc thơ anh
gửi ra". Rồi "Thấy anh được thưởng giải nhất về Pháp
văn ở Concours Général (giải toàn Đông Dương mà hai năm sau,
1938, Huy Cận cũng đoạt được - CHHV), tôi rất sung sướng,
nhưng không lấy gì làm lạ. Xuân Diệu giỏi hơn các bạn học
về văn chương là một việc dĩ nhiên rồi. Tôi mong cho công
nghiệp trước tác của anh sau này cũng rực rỡ như thế".
Mong muốn ấy, hay sự "đặt cược" vào tương lai nghệ
thuật của Xuân Diệu còn được Thế Lữ công khai trên mặt
báo. Trong Một nhà thi sĩ mới – Xuân Diệu đang trên Ngày Nay
số Mùa Xuân 1957, thi nhân họ Nguyễn quả quyết: "Sự cảm
động dồi dào và quý báu của công còn cho chúng ta thấy
nhiều hứng vị của cái chân tài đặc biệt ấy. Tôi mong
rằng sẽ được dịp nói đến thơ Xuân Diệu nhiều hơn, để
lại được ca tụng nhà thi sĩ của tuổi xuân, của lòng yêu
và của ánh sang". Song Kim, bạn nghề sân khấu và bạn đời
của Thế Lữ, nhớ lại sau sự kiện này mỗi khi có người
thắc mắc sao ông không làm thơ nữa mà lại quay về với kịch
thì Thế Lữ không một chút ngần ngừ: "Vì đã có Xuân
Diệu!" (3). Như thế "chúa rừng Thơ Mới" thoạt kỳ thủy
giờ đã hết phải ngậm ngùi "thời oanh liệt nay còn đâu"
vì đã tìm ra được kẻ xứng đáng kế tục mình trong công
cuộc chinh phục hoàn toàn chốn "thi lâm" đất Việt. Ôi,
những tình cảm đẹp đẽ và đầy ánh sáng như thế của bậc
đàn anh đối với người đến sau trong làng văn có còn lặp
lại được ru! Không chỉ dừng lại đấy, Thế Lữ "chộp"
lấy "tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều" ấy để gây
thanh thế cho Tự Lực ngay khi chàng vừa đỗ Bac (Tú Tài) vào
tháng 6/1937 với lời mời gọi thiết tha: "Anh Xuân Diệu. Anh
có thể ra ngay Hà Nội được không? Ra để liệu tìm cách
sống ở đây, nghĩa là để lăn lóc vất vả cùng với bạn
hữu". Và dường như để khẳng định cái "nghiệp" văn
bút, ông tiếp: "viết bài" kiếm ăn" được ít, nhưng có
lẽ đó là thứ công việc hợp với chúng ta hơn". "Được
lời như cởi tấm lòng", Xuân Diệu từ Huế ra ngay Hà Nội
và xắn tay viết cho báo Ngày Nay, tờ báo duy nhất của Tự
Lực Văn Đoàn sau khi báo Phong Hóa bị đóng cửa vào năm 1936
(4) và năm sau, 1938, sau khi Thơ Thơ được "trình làng" đã
chính thức "xe duyên" cùng thể chế văn chương này với tư
cách là thành viên thứ Tám (5). Đáng chú ý là sự nhiệt tình,
cái sốt sắng ấy của Tự Lực dành cho Xuân Diệu cũng là
tình cảm chung của nhiều nhóm thi nhân cùng thời và thi sĩ họ
Ngô trên thực tế đã trở thành đối tượng "giành giật"
của các nhóm đó. Chính Hàn Mặc Tử đã bàn với Chế Lan Viên
ngay từ tháng 1/1938 là mời cho bằng được Xuân Diệu để
lập một Thi Xã tên là Hoàng Anh Tao Đàn với mục đích "nâng
cao trình độ thơ mới và tuyển trạch nhân tài". Cái Thi Xã
ấy của "ba chàng ngự lâm pháo thủ" xứ Bình Định mãi
mãi là dự định vì bản thân Chế đã cảm nhận được sự
gắn bó của Xuân Diệu với Thất tinh Hà Nội nên việc không
thành và vì vậy thi sĩ họ Hàn lấy làm "tiếc lắm". Cũng
cần nhắc lại rằng Tự Lực Văn Đoàn, ngoài các báo Phong Hóa
và Ngày Nay, còn sở hữu Đời Nay, một nhà xuất bản lấy
"Tìm tòi những nhà văn có giá trị, khuyến khích họ, làm cho
nhà văn và tác phẩm được nhiều người biết đến" làm
phương châm. Vì thế có gì đáng ngạc nhiên khi Thơ thơ,
"cụm đầu mùa" của Xuân Diệu, là do Đời Nay ấn hành.
Cũng như vậy, khi tập thơ được Đời Nay quảng cáo đúng
dịp Noel 1938 với những tung hô có thể nói chưa từng có trong
lịch sử xuất bản: "Một ngày trong văn học sử Việt Nam,
ngày ra tập thơ đầu của Xuân Diệu – "Một thiên tài sớm
lộ" – Chỉ có nhà thơ đó hiểu ta và gần ta nhất –
Quyển sách đẹp nhất từ trước đến nay". Ngược lại,
chẳng có gì là lạ khi Xuân Diệu đề tặng các thành viên
của "gia đình văn chương" của mình những bài thơ khoái
cảm nhất của ông: Cảm Xúc tặng Thế Lữ, Đây Mùa Thu Tới
tặng Nhất Linh, Đi Thuyền tặng Khái Hưng, Vô Biên tặng Hoàng
Đạo, Nhị Hồ tặng Thạch Lam, Giới Thiệu tặng Tú Mỡ, Đơn
Sơ tặng Nguyễn Gia Trí. Thế nhưng có người vồ lấy cái tiêu
đề ấy, những lời đề tặng ấy để nói Xuân Diệu là
người cạn nghĩa cạn tình khi "cạo hẳn" dòng chữ Tự
Lực Văn Đoàn trong Thơ Thơ in lần thứ hai và những lời đề
tặng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo trong những ấn phẩm sau
này của ông. Thực ra, ai nói như vậy không phải là người
làm nghiên cứu đến nơi đến chốn. Thực ra, bên cạnh Tự
Lực Văn Đoàn, Xuân Diệu đã có Huy Cận.
Vốn vô cùng mê say Với bàn tay ấy, Huy Cận chỉ có thể mừng
rỡ được gặp thi nhân cùng quê Hà Tĩnh hơn mình hai lớp trong
buổi tựu trường của Lycée Khải Định (Quốc học cũ) tháng
9/1936. Ngay lập tức hai hồn thơ gắn với nhau như định mệnh
để rồi có những dự định riêng mãi mãi. Một trong những
dự định ấy là xuất bản các tác phẩm của hai người bằng
tiền túi của mình. "Huy Xuân" như một nhà xuất bản đã ra
đời như thế vào cuối năm 1939 ngay sau khi Huy Cận vào học Cao
đẳng Canh Nông với nguồn tài chính là nhuận bút viết báo
của Xuân và học bổng hạn hẹp của Huy. Và sản phẩm đầu
tiên của cái "Nhà" ấy lại là Thơ Thơ. Lần tái bản này,
quả thực không còn dòng chữ "Tự Lực Văn Đoàn" nữa. Có
một sự thật hiển nhiên nhưng lại ít người biết là Đời
Nay độc quyền xuất bản các tác phẩm của thành viên Tự
Lực Văn Đoàn hay nói cách khác, một khi đã mang danh thành viên
của Nhóm thì tác phẩm không thể in ở nhà xuất bản khác.
Vì vậy trước khi thực hiện dự định của mình, đôi bạn
Huy - Xuân đã rủ nhau đến gặp Ban trị sự Đời Nay để có
được sự thông cảm thì được nhũn nhặn trả lời rằng
việc các ông tái bản Thơ Thơ ở nơi khác dĩ nhiên là quyền
của các ông nhưng trong trường hợp đó đừng để Tự Lực
Văn Đoàn vào sách vì lý lẽ đã rõ. Vậy là vẹn cả đôi
bề. Cũng phải nói ngay rằng Thơ Thơ là ấn phẩm duy nhất
của "Huy Xuân" vì hai dự định khác là xuất bản Tây
Sương Ký do Nhượng Tống dịch (đã giả trước nhuận bút) và
tái bản Phấn Thông Vàng đã không thành, đơn giản là vì ngay
sau Tết 1940, Xuân Diệu đã rời Hà Nội vào Mỹ Tho làm Tham tá
nhà Đoan (douanne - tiếng Pháp - là quan thuế) và năm sau bản
thảo của Nhượng Tống đã bị chủ Nhà xuất bản Tâm Việt
lừa lấy mất! Điều đáng nói ở đây là thái độ "làm
ngơ" đầy thông cảm của các thành viên còn lại trong Nhóm
bởi họ quá yêu Xuân Diệu cùng bạn chàng, Huy Cận. Phải nói
các thủ lĩnh của Tự Lực Văn Đoàn rất có cảm tình với Huy
Cận dĩ nhiên và trước hết là do tài thơ của họ Cù vì khi
đăng Chiều Xưa, thi phẩm đầu tiên của ông cùng một khung
với bài Cảm Xúc của Xuân Diệu trên Ngày Nay số Tết năm
1938, họ vẫn chưa biết Xuân Diệu và Huy Cận đã là một đôi
bạn tri kỷ. Thực vậy, nhận được bài thơ của Huy Cận gửi
từ Huế ra, Xuân Diệu lại không làm cái việc "lăng-xê"
bạn mình như người đời thường làm bằng cách cầm bài thơ
ấy đến gặp Nhất Linh hay Thế Lữ là người phụ trách mục
thơ của báo mà lại gửi bằng bưu điện đến. Vậy là, chỉ
sau khi Huy Cận đã được "làng" Tự Lực "duyệt" với
bài Chiều Xưa rồi, nhân đầu Năm mới Xuân Diệu mới đưa
"người thi sĩ lành như suối nước ngọt, hiền như cái lá
xanh" lần đầu tiên ra đất ngàn năm văn vật và cũng là
lần đầu thăm đất Bắc, đến 80 Quán Thánh để chào các
thành viên của cái Văn Đoàn "khét tiếng" đấu tranh cho
một nền văn chương mới gắn với tự do cá nhân và đời
thường bình dân ấy. Đến chào theo đúng nghĩa đen của từ
này vì Huy Cận không mang theo bài thơ mới nào hết. Và Huy Cận
đã may mắn gặp được tất cả, đặc biệt Nhất Linh và Thế
Lữ mà ông đã từng đọc và học rất nhiều. Ngay khi mới
gặp chàng Huy – cha tôi bồi hồi nhớ lại - Nhất Linh hạ
ngày hạ ngay: "Bài Chiều Xưa của anh hay lắm, rất cổ mà
lại rất mới". Và như để chứng minh cái tâm đắc của
mình, Nhất Linh đọc một hơi bài thơ ấy trước sự ngỡ
ngàng của tác giả rồi nói rằng Huy Cận cứ gửi thơ ra là
Ngày Nay sẽ đăng. Rõ là một cú "đúp" thành công của thi
nhân họ Cù: không những ông được vị thủ lĩnh tao đàn hoan
nghênh nhiệt liệt mà thơ của mình từ đây không sợ không có
"đầu ra"! Không nghi ngờ gì nữa, thái độ nể phục ấy
của vị chánh chủ khảo Giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn có
giá trị như vòng nguyệt quế đầu tiên mà Huy Cận nhận
được trong đời thơ của mình. Sau này, khi ở Sài Gòn, Nhất
Linh còn khẳng định rằng "về lục bát, Huy Cận là hậu
duệ của Nguyễn Du!". Khái Hưng, Tú Mỡ, Hoàng Đạo, Thạch
Lam và Nguyễn Gia Trí cũng chỉ có thể chia sẻ quan điểm của
"thủ lĩnh" Nguyễn. Đặc biệt Khái Hưng, cũng như Nhất
Linh, rất đề cao thơ Huy Cận. Ông còn nói với Nguyễn Hữu
Đang lúc đó hoạt động trong Hội Truyền bá Quốc ngữ : "Huy
Cận hay từng bài, từng câu, từng chữ ". Thế Lữ thì lại
trách Xuân Diệu sao không đưa bài thơ ấy trực tiếp cho ông
mà lại vòng vèo thế. " Là vì - Xuân Diệu đáp - tôi muốn
xem giá trị thật của bài thơ thế nào chứ tự tôi đưa đến
e mất khách quan". Ngẫm lại, quả thi nhân họ Ngô ngay từ
còn măng tơ đã là một bậc thầy trong đối nhân xử thế
trên căn bản biết mình, biết bạn và biết người. Là kẻ
"tri âm", Xuân Diệu muốn bạn mình "hữu xạ tự nhiên
hương", hay mượn cách nói thời thượng, muốn Tự Lực Văn
Đoàn "tâm phục khẩu phục". Cái tâm của Lưu Bình đối
với Dương Lễ ấy của chàng Xuân dường như đã thấu tới
Ông Trời nên vô tình mà như hữu ý sự "trình làng" của
chàng Huy trên Ngày Nay lại được xếp cặp với chàng Xuân.
Như thể Tự Lực Văn Đoàn đã tiên liệu "cỗ song mã Huy –
Xuân", ấy là cách đưa Thơ Mới đến với nhân gian một cách
lộng lẫy nhất!
Kỳ vọng của Xuân Diệu nơi Huy Cận đã được đền đáp:
Lửa Thiêng đã được Đời Nay cho ra mắt bạn đọc vào năm
1940 với 3000 bản, một số lượng vào loại kỷ lục thời
đó. Hơn thế nữa, điều này mới là quan trọng, Tự Lực Văn
Đoàn quyết định kết nạp thi sĩ họ Cù và lịch sử văn
chương Việt Nam lẽ ra biết tới thành viên thứ Chín của Tao
đàn ấy nếu không có những biến cố chính trị xảy ra gắn
liền với cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II. Thực vậy,
sự nuối tiếc của Huy Cận vì đã không kịp trở thành thành
viên chính thức của Tự Lực Văn Đoàn không phải đợi đến
mãi sau này mới được cha tôi thổ lộ với tôi mà đã bộc
lộ từ lâu, ở dòng chữ "trong Tự Lực Văn Đoàn" do chính
tay ông viết bên cạnh tên mình trong tờ quảng cáo Nhà xuất
bản Đời Nay in năm 1941, trong đó, ngoài các thành viên của
Nhóm và Huy Cận ra còn có Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Nguyên
Hồng, Nguyễn Khắc Mẫn, Đoàn Phú Tứ, Trọng Lang, Anh Thơ
(đúng ra là Cô Anh Thơ), Mạnh Phú Tư cùng ảnh chân dung của
họ. Cái "tình cảm gia đình" của Tự Lực dành cho chàng thi
sĩ quán sông La ấy có thể cảm nhận được rất rõ trong thư
của Khái Hưng ngay sau khi thi sĩ họ Ngô khăn gói vào Mỹ Tho:
"Anh đi Nam, chúng tôi thấy thiếu anh quá. Nói thực đấy,
không khách sáo đâu. Nhất những hôm hội họp ở nhà anh Tam ai
ai cũng bảo: "Thiếu có Xuân Diệu". Nhưng có người tiếp
luôn: "Đã có Huy Cận ăn hộ cả hai người. Huy Cận, ai cũng
coi như một nửa của linh hồn anh !". Rồi chính tác giả của
Tiêu Sơn tráng sĩ đã cùng với Nhất Linh, Thạch Lam và họa sĩ
Nguyễn Đỗ Cung dẫn Huy Cận đi thăm chùa Tây Phương và chùa
Thầy nhằm khẳng định lòng tự hào dân tộc vốn là động
lực của Tự Lực Văn Đoàn trong cuộc đấu tranh chống lại
chính sách nô lệ của Pháp. Mặt khác cũng rất có thể khi tổ
chức những cuộc du ngoạn đó các thành viên của Tự Lực Văn
Đoàn muốn thấy một Huy Cận Đường thi chuyển hứng mạnh
hơn nữa sang văn hóa của cha ông. Bản thân bố tôi cũng thừa
nhận rằng tứ của bài Các Vị La Hán Chùa Tây Phương đã manh
nha từ dạo ấy. Và anh em nhà Nguyễn Tường trên thực tế đã
"gia đình hóa" tình bằng hữu, đồng nghiệp bằng cách
thường xuyên tổ chức cho các thành viên của Văn Đoàn cũng
như các công tác viên thần thiết nghỉ ngơi, thư giãn tại
trại của thân mẫu các ông là bà Thông Nhu ở Cẩm Giàng, Hải
Dương. Song Kim vẫn nhớ như in những ngày vui ấy: Không cứ
ngày lễ, Tết, bất cứ lúc nào rảnh việc ở báo Phong Hóa,
Ngày Nay là anh Tam lại kéo anh em trong Tự Lực Văn Đoàn và
một số bằng hữu khác về chơi ở trại của mẹ anh cạnh ga
xép Cẩm Giàng. Bà cụ Thông Nhu ăn mặc như các bà khá giả ở
Hà Nội, áo cài cúc, quý anh em lắm, dọn đủ các món ăn. Tôi
nhớ anh Xuân Diệu rất hay về, ăn rất khỏe, có lần ăn một
lúc hai cái bánh chưng. Ai thích nghỉ thì nghỉ nhưng rốt cuộc
mọi ngừoi lại quay vào nói chuyện văn nghệ. Trại Cẩm Giàng
quả thực là tổ ấm của Tự Lực Văn Đoàn" Trong hồi ký
của mình, Huy Cận cũng kể: "Có một Tết Nhất Linh và Thạch
Lam đã rủ anh Xuân Diệu và tôi về ăn Tết ở Cẩm Giàng
(Hải Dương), nơi bà cụ của hai anh vẫn ở và sinh sống từ
ngày ông cụ thân sinh của các anh còn làm quan ở huyện. Đem
gia thừa chúng tôi thức để đi bẻ lộc trong vườn và sau khi
ăn bát chè đậu xanh giữa phút giao thừa thì chúng tôi trải
chiếu ngủ trên ổ rơm rất ấm và thỉnh thoảng ngâm thơ Thế
Lữ "<em>Thuở ấy đượm màu sương gió biêt – Trời mây
huyền ảo đắm hồn thơ – Cây im vỉn bóng um tùm lá – Sông
thẳm nguồn sâu nước đợi chờ</em>" (7). Để nói trong thực
tế, Huy Cận đã thuộc về Tự Lực Văn Đoàn và cho đến tận
hôm nay cha tôi vẫn dùng những lời âu yếm nhất để nói về
thực tại đó.
Tình thân thiết đã như chân tay thì chỉ còn gượng cười
khỏa lấp cái sầu ly biệt. Bát tiên quá… chén là cái cười
gượng ấy của các thành viên của Nhóm trong giờ phút chia tay
với Xuân Diệu vừa được bổ làm Tham tá nhà Đoan tại Mỹ
Tho. Trong tay tôi là một tờ giấy dó lụa với hoa văn dập
nổi màu ngà rất sang (mà tôi đồ rất sẵn tại Nhà xuất
bản Đời Nay vốn tọa lạc cùng trụ sở Tự Lực Văn Đoàn
tại 80 Quán Thánh) trên đó Hoàng Đạo, Nhất Linh, Thạch Lam,
Huy Cận, Thế Lữ, Tú Mỡ, Khái Hưng, Xuân Diệu (theo thứ tự
chữ ký) mỗi người góp một câu:
<strong>BÁT TIÊN QUÁ… CHÉN</strong>
<em>Bỗng dưng thi sĩ hóa tây Đoan
Nửa mặt nhà văn, nửa mặt quan
Chén rượu tiễn đưa thơ khó nghĩ
Nỗi niềm cách biệt ý khôn toan
Hôm nay nhớ bữa chia bùi ngọt
Lát nữa còn vui cảnh tóp chan
Ví thử anh em đều xuất cả
Còn tuôn ra lắm mạch thơ gàn…</em>
<em>Hà nội 2-2-1940</em>
Và đâu chỉ có Xuân Diệu và Huy Cận không thể quên một
thời "chia bùi ngọt" với Tự Lực Văn Đoàn àm qua hai ông,
bản thân tôi cũng tiếc nuối cái bầu không khí văn chương
lãng mạn và gia đình ấy trong đó tập thể tồn tại cùng
riêng tư, trong đó đố kỵ, "bằng mặt mà chẳng bằng
lòng" phải khiếp đảm trước triết lý "mình vì mọi
người, mọi người vì mình" trong cuộc đấu tranh đầy cam go
vì một nền "văn học quốc ngữ". "Gái có công, chồng
không phụ", công lao gây dựng nền văn học đậm đà bản
sắc dân tộc ấy chẳng những được bạn đọc và các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước ghi nhận mà còn được các nhà
cách mạng Việt Nam đánh giá rất cao. "Tự Lực Văn Đoàn -
Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định với Huy Cận - rất
có công với văn học Việt Nam thông qua đổi mới cách viết
văn nói riêng và đổi mới nền văn học nước nhà nói
chung". Vẫn theo Huy Cận, các nhà cách mạng khác như Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp… đều có cùng một nhận định. Mặt
khác, tính đến ảnh hưởng sâu rộng cũng như tổ chức chặt
chẽ của nó (có tôn chỉ, nguồn tài chính riêng, cấp giấy
chứng nhận thành viên, lập giải thưởng, có cơ quan ngôn
luận và thậm chí nhà xuất bản riêng), tôi cho rằng Tự Lực
Văn Đoàn xứng đáng được nhìn nhận như Hội nhà văn đầu
tiên trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
Lùi để tiến, hay như Xuân Diệu nói: "Hy sinh một tiểu đội
nhưng để thắng một trận đánh", bác tôi đành để cơ quan
xuất bản có thể nói là "giáo điều" lược bỏ những
đề tặng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo khi làm Tuyển tập
Thơ của ông, miễn làm sao thiên hạ biết Xuân Diệu vẫn ra
sách đều, vẫn tiếp tục hiện diện một cách tích cực trong
đời sống xã hội. Tuy nhiên nếu cho rằng những lược bỏ
đề tặng đã nói trên đơn thuần là "chiến thuật", là việc
làm miễn cưỡng của Xuân Diệu thì cũng không hẳn. Còn nhớ,
cả Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo đều tham gia Việt Nam
Quốc dân đảng (hợp nhất của Đại Việt dân chính đảng,
Đại Việt quốc dân đảng và Việt Nam quốc dân đảng) và vì
vậy về mặt chính trị là xung khắc và sau Cách mạng Tháng 8
là xung đột với một Xuân Diệu trong mặt trận Việt Minh.
Trong Lời giới thiệu của Tuyển tập Xuân Diệu –Thơ (NXB Văn
học 1983), Hoàng Trung Thông viết: "Người ta thường khen anh
(XD) dũng cảm đấu tranh với bọn Quốc dân đảng bằng những
bài thơ đả kích". Quả thật, bên cạnh Ngọn quốc kỳ ca
ngợi nền Dân chủ cộng hòa, Xuân Diệu liên tục "ra đòn"
đánh lại cái đám "Việt Quốc" (Việt Nam Quốc dân đảng
của Nguyễn Tường Tam), Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng
minh của Nguyễn Hải Thần) bằng những Tổng bất… đình
công, Một cuộc biểu tình, Vịnh cái cờ… Không nghi ngờ gì
nữa, đây chính là sự khởi đầu của mạch văn "chính trị
- quần chúng hóa" của một Xuân Diệu "Tôi cùng xương thịt
với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu/
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu người yêu
dấu gian lao". Không những thế, ông còn chống lại các đảng
phái ấy bằng cả "nắm đấm" theo đúng nghĩa đen của từ
này. Còn nhớ, bác Diệu tôi nhiều khi dung "quân sự", tức
là dung "nắm đấm" để giáo dục tôi, không có "oong,
đơ" gì hết. Nhưng một bận khi đang dung "biện pháp
mạnh" thì ông cảm thấy không còn hiệu quả như trước vì
lúc này tôi đang lớn vồng ở tuổi thành niên, lập tức ông
hét lên: "Mày đưng tưởng lớn rồi mà tao sợ. Ngày trước
tao còn đánh nhau tay không với Quốc Dân Đảng cơ". Lúc đó
tôi nào có để ý gì đến đối tượng mà ông lấy ra so sánh
mà chỉ nhói trong tim: đâu phải tôi đã thực sự lớn, mà là
bác tôi đã bắt đầu yếu rồi. Và tôi đã khóc dù không mấy
đau. Chỉ đến mãi sau này khi được những người hoạt động
cùng thời kể lại chuyện Xuân Diệu dừng xe đạp để đánh
nhau với một nhóm Việt Quốc, Việt Cách biểu tình chống cách
mạng ngay trên đường Garnier (nay là Đinh Tiên Hoàng), Hà Nội
trong những ngày Tổng khởi nghĩa thì tôi mới thấm thía chất
"cách mạng" nơi "nắm đấm" của ông. Kết quả là ông bị
nhừ đòn và phải thoát thân vì "tương quan lực lượng" quá
chênh lệch. "Con ngựa sắt" mà ông phải bỏ lại lúc đó sau
này được một người dân trả lại vì trên biển xe có đề
"Xuân Diệu". Cũng may, theo Huy Cận, Xuân Diệu đã thoát
được, nếu không chắc sẽ bị chúng bắt đem về thủ tiêu
tại một trong những "Hắc điếm" của chúng ở phố Ôn Như
Hầu (nay là Nguyễn Gia Thiều), "bót" Hàng Đậu hay phố
Joffrin (nay là Lý Nam Đế)... Vậy đó, Xuân Diệu không chỉ
"giáp lá cà" với phản cách mạng mà ông còn "vùng lên" chống
lại mọi biểu hiện tiêu cực ở con người dù đó là sự ngu
dốt hay lười biếng. Để nói ở Xuân Diệu cách mạng là
thường trực! Hiểu được như thế thì việc cơ quan xuất
bản có lược bỏ đề tặng Nhất Linh - sau này là lãnh tụ
Việt Quốc - chắc không thật làm phiền lòng Xuân Diệu. Tuy
nhiên, Xuân Diệu không cực đoan: bỏ lời đề tặng Nhất Linh
là đủ để bày tỏ chính kiến của mình và ông giữ lại
những lời đề tặng Khái Hưng và Hoàng Đạo, điều này
được thể hiện trong bản thảo cho Tuyển Thơ của ông. Thái
độ đúng mực này của Xuân Diệu là nhất quán với quan
điểm của ông từ 1958 đối với các tác phẩm trước Cách
mạng : "một số tác phẩm đã đạt tới một mức nghệ
thuật nào và đã có một khuynh hướng tiến bộ so với hoàn
cảnh thời đó, thì vẫn còn lại một giá trị văn học nghệ
thuật. Hoàn toàn vứt cả, coi nó là "dưới Zê-rô", là
không có quan điểm lịch sử trong phê bình" (8). Quan điểm
ấy cũng được Huy Cận, người đồng chí của ông suốt cả
cuộc đời, chia sẻ. Bản thân thi nhân họ Cù cũng tặng Nhất
Linh Áo trắng, Hoàng Đạo Giấc ngủ chiều, Khái Hưng Buồn
đêm mưa và Tràng Giang (bài này đề tặng Trần Khánh Giư, tên
thật của Khái Hưng) trong thi phẩm Lửa Thiêng. Vậy mà trong
Tuyển tập Thơ Huy Cận xuất bản 1986, lời đề tặng ba thành
viên trên của Tự Lực cũng không còn. Tôi có hỏi lại bố
tôi về chuyện này thì không chần chừ, ông khẳng định ngay:
"Với tư cách là người khởi xướng Tự Lực Văn Đoàn,
Nhất Linh rất có công với nền văn học nước nhà. Ông là
một đồng nghiệp tốt, thân ái với mọi người. Về mặt
chính trị, Nguyễn Tường Tam trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn
đầu là yêu nước theo hướng dân túy (populiste), giai đoạn
thứ hai là chọn nhầm con đường cứu nước qua việc dựa vào
Nhật để chống Pháp (như cụ Phan Bội Châu), giai đoạn thứ
ba là phản động khi dựa vào Tàu Tưởng để chống lại Việt
Minh. Như vậy, Nguyễn Tường Tam là đối lập chính trị với
Xuân Diệu và Huy Cận (9). Thật đáng tiếc, con người yêu
nước Nhất Linh đã đi nhầm đường để cuối cùng trở thành
phản cách mạng". Rồi bố tôi nói thêm rằng ngay tại Đại
hội Tân Trào năm 1944, Lê Đức Thọ đã bàn với ông vận
động Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo… đi với Việt Minh và
chính cụ Hồ Chí Minh ngay sau khi Cách mạng thành công cũng nói:
" Chú quen biết Nguyễn Trường Tam (Bác đọc nhầm Tường
thành Trường) thì chú vận động anh ta đi với Cách Mạng, đi
với Việt Minh thì tốt". Nhưng những nhân vật trọng yếu
ấy của Việt Nam Quốc dân đảng đã "nguây ngẩy" từ
chối vì cho rằng Việt Minh là "độc tài" ?! Thậm chí báo
Việt Nam do Khái Hưng chủ trương còn "mỉa" rằng nhà thơ
Huy Cận ngồi cô đơn ở Bắc Bộ phủ (lúc đó Huy Cận là Bộ
trưởng Canh nông) để làm cái gì ?! Suy cho cùng, có thể nôm na
thế này, vợ chồng không hợp nhau thì ly dị, miễn những
đứa con - tác phẩm phải được nuôi cho đến nơi đến chốn
và như đã thấy, Xuân Diệu và Huy Cận đâu bỏ rơi "đứa con
tinh thần" nào của mình!
Để kết luận, Huy Cận, người bạn nối khố của Xuân Diệu
và đồng nhân chứng của "cái thuở ban đầu lưu luyến
ấy" khẳng định với tôi rằng cả Xuân Diệu lẫn ông luôn
luôn biết ơn Tự Lực Văn Đoàn vì đã "khai sinh" ra họ
trên địa hạt văn chương, văn tài và nhất là cái tâm của
Nhất Linh, Khái Hưng cũng như của các thành viên sáng lập văn
đoàn đối với sự nghiệp văn học và văn hóa nước nhà là
không thể phủ nhận. Thậm chí cho đến tận giờ Huy Cận vẫn
từ chối khái niệm "tan" khi nói về sự chấm dứt hoạt
động của Văn Đoàn. "Sau khi báo Ngày nay bị chính quyền
thưc dân đóng cửa vào cuối năm 1939 do những quan điểm chính
trọ có thể nói rất tiến bộ của nó như đòi cho người
Việt Nam quyền được tự do, bình đẳng với người Pháp,
phản đối sưu cao thuế nặng… Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn
Gia Trí bị Pháp bắt vào năm 1941, Nhất Linh lẩn trốn do hoạt
động chính trị thân Nhật chống Pháp, Thế Lữ đi lánh - ông
giải thích - không kể Xuân Diệu đã vào Mỹ Tho từ đầu năm
1940, Thạch Lam mất năm 1942, Tự Lực Văn Đoàn trong thực tế
không còn thành viên hoạt động nữa". Và Huy Cận có lý vì
"tan" chỉ thích hợp với sự chấm dứt hoạt động bởi
những lý do nội tại như mâu thuẫn nội bộ hoặc nghiêm
trọng hơn, do mâu thuẫn về lý tưởng nghệ thuật. Để nói
cái thực thể văn chương này dường như là trời sinh ra để
dẫn nhập Thơ Mới với lịch sử văn học nước nhà, vừa
kịp định vị "trái đôi" Huy - Xuân ấy trên Thi Đàn dân
tộc thì cũng là lúc nó không tồn tại nữa./.
<h2>Chú thích </h2>
(1) Con trai nhà thơ Huy Cậnm cháu ruột và là con nuôi nhà thơ
Xuân Diệu, Tiến sỹ Luật, Thạc sỹ Văn (Đại học Paris –
Pháp), họa sỹ, hội viện Hội Mỹ Thuật Việt Nam.
(2) Về khả năng họa sỹ Nguyễn Gia Trí là thành viên sáng
lập của TLVĐ, tôi (CHHV) sẽ trình bày trong một nghiên cứu
khác.
(3) Nghệ sỹ nhân dân Song Kim, tên thật là Phạm Thị Nghĩa,
sinh năm 1913, sống với Thế Lữ từ năm 1935 và đến cuối năm
1938 thì kết hôn với thi sỹ. Sau ngày cưới, Thế Lữ - Song Kim
ở tại nhà Thạch Lam ở làng Yên phụ ven bờ Hô Tây cho đến
khi nhà văn mất vào năm 1942 vì bệnh lao. Hiện Song Kim sống
tại 50 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nội.
(4) Cuốn Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 -1945) - NXB Văn học
2002 (tr. 241) và một số tài liệu khác cho rằng Ngày Nay kế
tục Phong Hóa sau khi Phong Hóa bị đóng cửa vào năm 1936. Trong
thực tế hai tờ báo song song tồn tại từ năm 1935 là khi Ngày
Nay ra đời cho đến năm 1936 là khi Phong Hóa bị đống của vì
ở "en tête" của giấy viết thư của Tự Lực Văn Đoàn có
ghi: Phong Hóa – 80 Avenue Grand – Bouddha (Quán Thánh) và Ngày Nay
– 55 Rue des Vermicelles (Hàng Bún). Lý do của sự song hành nói
trên là do Nhất Linh cảm thấy trước sau Phong Hóa với nội
dung đả thực bài phong rõ rệt sẽ bị chính quyền thực dân
đóng cửa nên ra Ngày Nay để dự phòng.
(5) Theo Tú Mỡ (Trong bếp núc của Tự Lực Văn Đoàn – Tạp
chí văn học số 5-6/1988 và só 1/1989) và các tác giả Lê Thị
Đức Hạnh, Vu Gia… thì ngoài Xuân Diệu TLVĐ còn kết nạp
thêm Trần Tiêu, em ruột Khái Hưng (tức Trần Khánh Dư). Tuy
nhiên mỗi lần nói với tôi (CHHV) về TLVĐ, cả Xuân Diệu và
Huy Cận chưa bao giờ nhắc đến Trần Tiêu. Do có sự khác
biệt này mà tôi đã tiến hành một cuộc khảo cứu với kết
quả là Trần Tiêu không phải là thành viên TLVĐ. Thực vậy,
ngoại trừ lạo "Sách Hồng", từ 1936 NXB Đời Nay của TLVĐ
mỗi khi in tác phẩm của các thành viên TLVĐ thì dưới tên tác
giả luôn có dòng chữ "Trong Tự Lực Văn Đoàn" hoặc "Tự
Lực Văn Đoàn", điều này có thể thấy rõ trên các tác
phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ
và Xuân Diệu (Dòng nước ngược của Tú Mỡ in năm 1934) trong
khi không có tác phẩm nào của Trần Tiêu do NXB Đời Nay in như
Con trâu (1940), Chồng con (1941) có dòng chữ này.
(6) Tế Hanh – Cần công bằng ghi nhận phần đóng góp của Tự
Lực Văn Đoàn (Hà Minh Đức thực hiện) – NXB Giáo dục 2007.
(7) Huy Cận – Hồi ký song đôi – Tập 2 – NXB Hội Nhà văn
2003)
(8) Xuân Diêu – Những bước đường tư tưởng của tôi – NXB
Văn hóa 1958
(9) Từ 1939, Huy Cận, thành viên Ban lãnh đạo Tổng hội sinh
viên (toàn Đông Dương) đã cùng với Dương Đức Hiển, Chủ
tịch Tổng hội và là người có quan hệ mật thiết với
Đảng Cộng sản, đấu tranh chống khuynh hướng thân Nhật trong
thanh niên, sinh viên. Năm 1941, Huy Cận tham gia Việt Minh "đánh
Pháp đuổi Nhật" và năm 1943, Xuân Diệu tham gia Việt Minh ở
Hà Nội ngay sau khi từ chức Tham tá nhà Đoan ở Mỹ Tho.
<em><strong>Cù Huy Hà Vũ</strong></em>
24 Điện Biên Phủ, Hà Nội;
ĐT: 2315272, 0904350187;
Email: havuvietstyle@yahoo.com
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/tin-tuc/20120922/cu-huy-ha-vu-xuan-dieu-huy-can-voi-tu-luc-van-doan),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét