Cao Huy Thuần - Dân chủ và Phật giáo [*]

<div class="special_quote"><em>Đừng tưởng chính trị là mảnh
đất của dối trá. Dân chúng có ngu đến bao nhiêu cũng biết
khinh những chính quyền nói láo, lấy nói láo làm hệ thống cai
trị. Trong một nước Phật như Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi
khuyên người làm chính trị nên nói thật như chính danh hiệu
của Phật, Tathagata, "Bậc đã đến với Sự Thật".</em>

<em>GS.TS Cao Huy Thuần sinh ra tại Huế, là sinh viên Viện Đại
học Huế trước khi bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học
Paris đầu năm 1969. Sau đó, ông là Giám đốc Trung tâm nghiên
cứu về Cộng đồng châu Âu tại Đại học Picardie. Hiện ông
là giáo sư giảng dạy tại Đại học Picardie, Pháp. Cùng với
những trí thức Việt kiều khác, ông thường xuyên về Việt
Nam tham dự các cuộc hội thảo về các lĩnh vực chính trị,
xã hội. Xin đăng tải bài viết của ông luận bàn về vấn
đề Dân chủ và Phật giáo.</em></div>

Từ lâu, khi viết về các vương quốc ở Ấn Độ thời Phật,
các học giả đã chú ý đến các yếu tố "dân chủ" trong
chế độ các nưóc ấy. Tôi đọc, nhưng thú thực không hào
hứng mấy, cứ nghĩ chuyện ấy đã thuộc quá khứ xa xăm. Lý
thuyết mà không có thực tế diễn ra trước mắt thì chỉ
thỏa mãn được cái đầu, không làm rung động trái tim. Máu
tôi chỉ thực sự nóng lên từ khi tôi theo dõi cuộc tranh đấu
cho dân chủ của bà Aung San Suu Kyi và sau đó tìm đọc những
tác phẩm của bà. Bà đã làm sống lại lý thuyết, bà thở
với lời Phật, tranh đấu với hồn Phật.

Đối với tôi, rất chủ quan, bà là người chính trị duy nhất
thời nay nắm đúng tư tưởng Phật giáo và hành động đúng
với tư tưởng đó. Bà là người lãnh đạo Phật tử duy nhất
không xa lý thuyết của Phật một bước trong mọi hành động
chính trị. Lý thuyết của Phật nói: vô uý! Bà gan dạ, can
trường. Lý thuyết của Phật nói: từ bi! Bà không căm thù, dù
là đối với những người đã chà đạp bà. Chỉ với một
người lãnh đạo như vậy mới làm được tôi tin khi nói đến
dân chủ trong Phật giáo. Tôi tin lý thuyết ấy không phải là
lý thuyết suông. Không phải là ý thức hệ. Nó thở nơi
người phụ nữ mảnh khảnh mà quắc thước ấy.

<center><img
src="http://trannhantong.net/wp-content/uploads/2012/07/Anh-2.jpg"
/></center>
<center><em>Bà Aung San Suu Kyi</em></center>

Vậy thì, đâu là những chỗ trùng hợp giữa Phật giáo và dân
chủ? Đâu là nền móng Phật giáo trong hành động vì dân chủ
của bà? Trước khi xây từng viên gạch, hãy hỏi một câu ưu
tiên: thế nào là dân chủ đối với một người dân Miến
Điện bình thường, bình dân, ít học? Mà có thật là họ
muốn dân chủ không? Hay đó là triết thuyết ngoại lai? Bà
nói: hỏi như vậy là khinh miệt người dân Miến Điện, khinh
miệt người dân bất cứ ở đâu, vì dân chủ là ước muốn
của mọi người mà mạnh nhất chính là ở các nước nhân dân
bị đàn áp. Ở các nước ấy, dân chủ được hiểu rất đơn
giản và rất thực tế: làm sao có được một chính phủ tốt,
không đàn áp.

Làm sao? Phật giáo đáp ứng câu hỏi ấy của người dân trên
5 điểm:

<strong>1. Phải có một chính phủ dân cử.</strong> Người dân
ít học có thể không hiểu những vấn đề cao xa, nhưng họ
biết rất rõ bầu cử ai để đại diện cho họ.

Bầu cử trung thực, trong sạch, tôn trọng sự lựa chọn thực
sự của người dân: ấy là điều kiện tiên quyết của dân
chủ. Bà Aung San Suu Kyi trích lời Phật khi Ngài nói về bốn
nguyên do suy thoái và thối rữa: <em>không tìm lại được cái
gì bị mất, không chịu sửa lại cái gì bị hư, khinh thường
nhu cầu xây dựng một nền kinh tế hợp lý, đưa lên địa vị
lãnh đạo những người thiếu đạo đức và khả năng.</em>

Áp dụng lời nói đó vào bối cảnh chính trị của Miến
Điện từ 1962, bà thấy: quyền dân chủ bị tước đoạt mà
không đủ cố gắng để chiếm lại; giá trị đạo đức và
chính trị bị xói mòn mà không được cộng đồng chung sức
cứu vãn; kinh tế suy thoái; lãnh đạo không trong sạch, thiếu
lương tâm. Riêng về điểm cuối cùng, thế giới sử quan của
đạo Phật là: khi một cộng đồng chính trị bị suy đồi,
rơi từ tình trạng tinh khiết khởi thủy xuống tình trạng
hỗn loạn xã hội và đạo đức, một ông vua được bầu lên
để tái lập hòa bình và công lý. Người cầm quyền có
được địa vị ấy vì ba chức tước: Mahasammata, "vì được
bầu lên do sự thỏa thuận nhất trí của dân chúng"; Khattiya,
"vì cai trị trên một lãnh địa nông nghiệp"; Raja, "vì thu
phục được lòng kính mến của dân chúng nhờ tôn trọng dhamma
(đức độ, công bằng, luật pháp)". Ông vua được trả
lương để thi hành nhiệm vụ, lương đó được tính bằng
thóc. Bà Aung San Suu Kyi nhấn mạnh điều mà các học giả ngày
nay công nhận trong tư tưởng về vương quốc của Phật giáo:
quyền lực của ông vua đặt trên cơ sở một hợp đồng xã
hội. Một hợp đồng với dân, chứ không phải do thiên mệnh
hay thượng đế nào ban cấp. Nếu muốn dùng chữ "con" quen
thuộc thì ông vua là con dân, không phải con trời.

Mahasammata là mô hình của các vương quốc Ấn Độ ngày xưa và
của cả Đông Nam Á. Ngày nay, vua không còn nữa, nhưng tư
tưởng về ông vua do dân bầu lên, do dân thỏa thuận, được
một nhà lãnh đạo Đông Nam Á đánh thức ra khỏi giấc ngủ
ngàn năm trong thư viện để nhập cuộc chơi với tư tưởng
Rousseau: <em><strong>dân chủ không phải là lý thuyết ngoại
lai</strong></em>.

<strong>2. Từ dân mà ra, ông vua không có tính gì là thiêng liêng
cả, không phải muốn cai trị thế nào tùy ý, chỉ chịu trách
nhiệm với trời hoặc thượng đế.</strong> Do đó, yếu tố
căn bản thứ hai trái ngược với tư tưởng quân chủ tuyệt
đối và trùng hợp với tư tưởng dân chủ hiện đại là:
<em><strong>quyền hành đi đôi với bổn phận</strong></em>.

<center><img
src="http://trannhantong.net/wp-content/uploads/2012/07/Anh-4.jpeg"
/></center>
<center><em>Đất nước Myanmar</em></center>

Bổn phận đó, Phật giáo kể ra rất rõ: ông vua có Mười Bổn
Phận, Bảy Phòng Ngừa để chống lại suy thoái, Bốn Cứu Giúp
đối với dân chúng, chưa kể vô số điều lệ hướng dẫn
hành động như Mười Hai Thực Tiễn của người cầm quyền,
Sáu Đặc Tính của lãnh tụ, Tám Đức Độ của vua, và Bốn
Phương Cách để chiến thắng nguy hiểm.

Kể rõ như vậy là vì một luận lý nằm sâu trong truyền
thống chính trị: xem ông vua như là một trong năm kẻ thù hoặc
năm hiểm nguy cần phải chế ngự bằng cả một hệ thống
đạo đức để ràng buộc bất cứ ai nắm quyền lực trong tay.
Bà Aung San Suu Kyi nói thêm: dân tộc Miến Điện có quá đủ
kinh nghiệm trong lịch sử về quyền lực độc tài để ý
thức rõ ràng về sự cần thiết phải nhắc nhở những bổn
phận ấy. Đó là: bố thí, đạo đức, hy sinh, liêm khiết,
nhân từ, nghiêm khắc với mình, không giận dữ, không bạo
lực, nhẫn nại, và không làm trái (với ý muốn của dân).

Bổn phận đầu tiên, rất quan trọng trong tư tưởng Phật
giáo, là bố thí (dana). Điều này có nghĩa là người cầm
quyền phải có khả năng mang lại của cải, thịnh vượng cho
dân. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, an ninh kinh tế của dân
phải được đảm bảo.

Bổn phận thứ hai, đạo đức (sila), buộc ông vua phải nêu
gương sang trong việc giữ năm giới của người Phật tử:
không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm,
không nghiện rượu. Ngày xưa, dân tin rằng muốn tìm nguyên do
của quốc nạn, cứ nhìn đạo đức của vua. Vua vô đạo thì
nhà tan nước mất.

Bổn phận thứ ba, paricagga, có khi được dịch là rộng
lượng, có khi được hiểu là hy sinh. Rộng lượng thì trùng
nghĩa với bố thí, mà bố thí cho đến tận cùng, rốt ráo,
thì có thể hy sinh cho đến tất cả của cải, tính mạng, vì
lợi ích của dân. Đây là bố thí của bồ tát mà dân tộc
Miến Điện thấm nhuần qua những chuyện tiền thân của Phật.
Áp dụng vào đời sống chính trị ngày nay, bổn phận này có
nghĩa là người cầm quyền đem hết sức mình để phụng sự
cho đất nước, đặt ích lợi chung trên ích lợi riêng, cho
đến mức có thể hy sinh cả quyền lợi riêng.

Bổn phận thứ tư, liêm khiết (ajjava), ngày nay là vấn đề
nhức nhối không riêng gì ở Miến Điện. Thiếu liêm khiết
thì thối nát từ trên xuống dưới, khỏi cần nói thêm. Điều
phải nói thêm là: liêm khiết ở đây còn có nghĩa là lương
thiện, thành thật trong tương quan với người khác. Ngạn ngữ
Miến Điện có câu: "Người cầm quyền thì nói thật; người
thường thì thề thốt". Phải thề thốt thì người thường
mới giữ lời. Còn người cầm quyền thì có bổn phận phải
nói thật với dân.

Đừng tưởng chính trị là mảnh đất của dối trá. Dân chúng
có ngu đến bao nhiêu cũng biết khinh những chính quyền nói
láo, lấy nói láo làm hệ thống cai trị. Trong một nước Phật
như Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi khuyên người làm chính trị
nên nói thật như chính danh hiệu của Phật, Tathagata, "Bậc
đã đến với Sự Thật". Phật khuyên nhủ: "Hãy thẳng như
mũi tên, một lời nói thốt ra không lạc thành hai".

Bổn phận thứ năm, nhân từ (maddava), còn có nghĩa là biết
xúc động trước cảnh khổ của dân, biết lấy trách nhiệm,
biết hành động theo phương châm "người cầm quyền là sức
mạnh của kẻ yếu thế". Đạo đức đó đã thấm nhuần tâm
hồn người dân Miến Điện qua văn học, qua truyện cổ. Một
ông vua có thể đày cả con mình lên mạn ngược vì đã gây
khổ cho dân: "Trong vấn đề thương yêu, không phân biệt
giữa dân và con, thương dân cũng như thương con, đó là đức
hạnh của vua".

Bổn phận thứ sáu, cần kiệm (tapa), buộc người cầm quyền
phải sống đơn giản, biết kiềm chế mình, nghiêm khắc với
mình, hướng thượng, vun trồng kỷ luật tâm linh. Ngày xưa đã
vậy, ngày nay, khi hoang phí đã tràn lan từ trên xuống dưới,
cần kiệm lại càng là tiếng kêu thống thiết của dân, của
nước, của người đói thiếu cơm, người khát thiếu nước.

Bổn phận thứ bảy, thứ tám và thứ chín – không giận dữ
(akkadha), không bạo động (ahimsa), nhẫn nại (khanti) – liên
hệ với nhau. Người cầm quyền lực trong tay mà nổi thịnh
nộ thì hậu quả khó lường. Hãy nhẫn nại và đối đãi
rộng lượng, khôn ngoan, ngay cả đối với những thách đố,
xúc phạm của những người mà mình có thể giết như giết
muỗi.

Bạo lực là trái với tinh thần Phật giáo, ngay cả đối với
người cầm quyền. Hơn cả mọi người, người cầm quyền
phải nhớ lời Phật dạy, thắng sân hận bằng từ bi, thắng
điều ác bằng điều lành, thắng keo kiệt bằng bố thí,
thắng dối trá bằng chân thật. Người cầm quyền nào cũng
phải lấy hình ảnh của vua Ashoka (A Dục) để làm gương: một
đại vương trong một đại quốc vẫn có thể cai trị bằng
từ bi và bất bạo động.

Bổn phận thứ mười (aviradha) có thể tách riêng ra để minh
chứng nòng cốt dân chủ trong Phật giáo. Không làm trái với ý
muốn của dân. Trong nhiều chuyện tiền thân của Phật – mà
dân Miến Điện nằm lòng – có chuyện thái tử Vessantara bị
vua đày vì … bố thí nhiều quá, bố thí hết kho của nhà
nước, bố thí luôn cả con bạch tượng mà nhà nước quý như
quốc bảo. Bà Aung San Suu Kyi kết luận chuyện này: thái tử
đã bố thí con voi mà dân không thỏa thuận nên bị vua đày.
Thỏa thuận của dân là cơ sở chính đáng của quyền lực.

Rất thực tiễn, bà cũng biết có người sẽ bắt bẻ: đó
chỉ là những bổn phận lý thuyết, người cầm quyền không
thực hiện thì ai làm gì được họ? Thế nhưng, không ai không
có chút lương tâm, nhất là trong một nước Phật giáo mà ai
cũng tin có Phật tính trong lòng, không người cầm quyền nào
ở Miến Điện, xưa cũng như nay, không nghĩ rằng những bổn
phận đó đã nằm sâu trong văn hóa và niềm tin tôn giáo của
dân tộc họ, của cha mẹ họ, của chính họ.

Nhà nước Myanmar có suy đồi đến bao nhiêu đi nữa, xã hội
của họ vẫn còn vững, còn sạch, còn đạo đức, còn mang
hồn Phật, chuyện Phật, lời Phật trong lòng. Lấy những lời
đó làm nền móng để cùng với những ý tưởng mới xây dựng
dân chủ, còn gì hợp với lòng người hơn?

<strong>3. Ý tưởng mới và lời Phật dạy còn trùng hợp như
thế trong vấn đề quyền của con người.</strong> Hỏi một
người dân Miến Điện ít học nhất: dân chủ là gì, họ sẽ
trả lời: "<em>Tôi muốn được đi làm việc tự do, hòa bình,
không làm hại ai, chỉ kiếm gạo nuôi con mà không bị lo lắng,
sợ hãi gì cả</em>". Đâu cần lý thuyết gì cao xa! Mà có
đủ cả: một đời sống thanh bình, trọng nhân phẩm, tự do
không bị thiếu thốn, sợ hãi. Quyền của con người là triết
lý ngoại lai? Vậy thì ai nói: "<em>Ta là Phật đã thành, mỗi
người là một vị Phật sẽ thành</em>"? Có ai nói hơn như
thế không về địa vị của con người?

Ai nói: "<em>Được sinh ra làm người là khó, khó như con rùa
đui sống dưới đáy biển trăm năm mới nổi lên mặt nước
một lần mà lại chui đúng cái đầu vào lỗ hổng của một
khúc gỗ bềnh bồng giữa đại dương</em>"? Chẳng lẽ làm
người quý như vậy mà bị khinh như cỏ rác, chẳng có chút
quyền gì?

Và ai thuyết giảng cho các người Kâlâma cách đây hơn hai
mươi lăm thế kỷ: "<em>Đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin
vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tiếng đồn, đừng tin vì
kinh điển truyền tụng… đừng tin vì công thức… đừng tin
vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình… </em>"

Chẳng lẽ tự do tư tưởng cũng là ngoại lai?

Thật là nhục mạ dân tộc Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi nói
như vậy, khi ai đó dám nói rằng người dân nước ấy chưa
đủ trình độ để hiểu và để hưởng những quyền được
ban bố trong bản Tuyên Ngôn 1948.

Nhưng có nên làm cách mạng để lật đổ những quyền lực coi
con người như cỏ rác? Lật đổ các ông tướng ở Yangon? Từ
trong gian khổ, đàn áp, đày đọa, bà vẫn một lòng, một
lời, một đường lối duy nhất: bất bạo động. Dân chủ là
mục đích mà phương tiện để thực hiện chỉ có thể là dân
chủ. Vì sao? Vì cách mạng, dù thành công, cũng không bảo đảm
được tương lai dân chủ. Bạo lực đẻ ra bạo lực, lịch
sử thế giới đã nhiều lần chứng minh. Cho nên:

<strong>4. Trật tự và luật pháp là phương tiện.</strong> Dân
chủ là quyền được nói khác, nghĩ khác, và đồng thời là
bổn phận phải giải quyết những khác biệt bằng phương
tiện hòa bình. Dân chủ giúp mọi thay đổi chính trị được
thực hiện mà không cần đến bạo lực. Những chế độ
được dựng lên bằng cách mạng bạo lực có khuynh hướng
dùng bạo lực để duy trì quyền lực "cướp"được. Luật
trong các nước đó không phải là luật được hiểu trong các
nước dân chủ. Dân chủ là tình trạng trong đó luật là tối
thượng để bảo đảm an ninh và trật tự cho người dân.

"Luật" ở đây phải được hiểu là công lý, và "trật
tự"phải được hiểu là kỷ luật mà dân chúng chấp nhận
vì nhu cầu công lý được thỏa mãn. Luật đó chỉ có thể
được làm ra do một cơ quan lập pháp được dân bầu trung
thực và chỉ có thể được áp dụng đúng đắn khi các tòa
án được độc lập thực sự. Luật và trật tự như vậy
mới hợp với tinh thần Phật giáo.

Trong Phật giáo, khái niệm luật đặt căn bản trên từ dhamma
mà ta dịch là "pháp". Pháp đặt sức mạnh trên sự ngay
thẳng, đức độ, không phải trên quyền lực để cưỡng chế
bằng những nguyên tắc thất nhân tâm. Luật đó tương ứng
với công lý được quan niệm để bảo vệ kẻ yếu, kẻ thất
thế. Ở đâu mà công lý như vậy không có, ở đấy an ninh,
hòa bình vắng bóng. Dân tộc Miến Điện từ xưa đã ví hòa
bình và an ninh như bóng mát giữa trưa hè chói chang:

<em>Bóng cây thật mát</em>

<em>Bóng cha mẹ còn mát hơn</em>

<em>Bóng thầy còn mát hơn nữa</em>

<em>Bóng của người cầm quyền lại càng mát hơn</em>

<em>Nhưng mát nhất là lời dạy của Phật.</em>

Tại sao bóng đó mát nhất? Vì lời dạy của Phật là sự
thật, ngay thẳng, đức độ, từ bi. Bà Aung San Suu Kyi nói: đó
là những đức tính mà dân tộc của bà thấy trước mắt khi
tranh đấu cho dân chủ. Chưa hết. Còn một điểm thứ năm này
nữa, đặc biệt nơi con người phụ nữ lãnh đạo ấy, đặc
biệt nơi dân tộc Miến Điện của bà, mà nếu không có, chắc
chắn bà đã không thể thành công: sức mạnh tâm linh.

<strong>5. Sức mạnh tâm linh.</strong> Bàng bạc trong khắp các
bài viết và phỏng vấn của bà, ở đâu cũng toát ra sức
mạnh tâm linh. Ở đây, trong quan niệm của bà về dân chủ,
sức mạnh tâm linh đó được dồn vào một điểm, cũng rất
đặc biệt: "Dân tộc Miến Điện, bà viết, không phải chỉ
muốn một thay đổi chính phủ, mà là một thay đổi về những
giá trị chính trị". Đây là một niềm tin thông suốt từ
những năm bị cấm cố cho đến khi được trả tự do.

Trong một phỏng vấn trên tờ New York Times khi được tự do, bà
lặp lại y nguyên những gì bà viết trước đó: "Điều chúng
tôi muốn là một sự thay đổi về giá trị. Thay đổi chính
thể có thể tạm thời, nhưng thay đổi giá trị là một công
trình dài hạn. Chúng tôi muốn những giá trị trong nước tôi
thay đổi. Chúng tôi muốn một nền tảng vững chắc cho sự
đổi thay. Dù cho thay đổi chính thể có thể xảy ra, nếu
những giá trị căn bản không thay đổi, thì một thay đổi
chính thể có thể đưa đến một thay đổi chính trị khác và
cứ như thế, như thế mãi".

Những giá trị gì bà muốn thay đổi? Một mạch văn từ đầu
đến cuối, đây là những câu viết cách đây hơn hai mươi
năm: "Gia tài bất hạnh của độc tài chỉ có thể dẹp bỏ
nếu khái niệm quyền hành tuyệt đối như là nền tảng của
cai trị được thay thế bằng khái niệm tin cậy như là nguồn
gốc của quyền lực chính trị: tin cậy của dân vào quyền và
khả năng quyết định về vận mạng của dân tộc, tin cậy
lẫn nhau vào những nguyên tắc của công lý, tự do và quyền
của con người".

Bà giải thích: "<em>Trong Phật giáo, bốn đức hạnh đưa
đến hạnh phúc, đứng đầu là saddha, tin cậy vào những giá
trị đạo đức, tâm linh và trí tuệ</em>". Đâu có cần phải
trích dẫn thuyết tin cậy của Locke? Truyền tin cậy đó vào
một xã hội đã mất lòng tin, không phải bằng cách kêu gọi
bạo lực mà thông qua niềm tin trí tuệ, là tinh tuý của cuộc
tranh đấu vì dân chủ của bà. Đó là niềm tin căn cứ vào
những giá trị tâm linh truyền thống của dân tộc bà, được
củng cố bằng những tư tưởng tiến bộ mới trên thế giới.

<center>***</center>

Dân chủ không phải chỉ là những định chế chính trị. Dân
chủ còn là những giá trị văn hóa và xã hội. Ở Myanmar, dù
tướng tá có hư hỏng, văn hóa đó vẫn còn tốt, xã hội đó
vẫn còn tốt, con người ở đó vẫn còn tốt, vẫn còn cùng
nhau chia sẻ một đạo đức chung. Văn hóa đó, xã hội đó, con
người đó đẻ ra được người phụ nữ đó. Văn hóa đó, xã
hội đó, con người đó đang làm bà mụ thai nghén cho dân chủ.
Và, tất nhiên, bảo vệ độc lập, chống ngoại xâm.

<em><strong>Cao Huy Thuần</strong></em>

————————————

[*] Bài viết này tóm tắt bài khảo luận "In Quest of
Democracy" trong: Aung San Suu Kyi, Freedom from Fear, Penguin Books, 1991

Theo Thời Đại Mới-7/2012

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/13610), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét