Trần Mạnh Hảo - Trạng nguyên thơ hay là trạng...nguyên hình?

Hiện nay, trên các diễn đàn văn học, chúng tôi thấy sự
loạn chuẩn, sự đánh tráo khái niệm giữa thơ và phi thơ,
giữa hay và dở, giữa thật và giả đang khống chế văn đàn.
Các giá trị giả lên ngôi, các trạng nguyên giả lên ngôi. Vài
chục năm nay, có hàng trăm cuộc thi thơ trên phạm vi cả
nước, ai được giải nhất đều được báo chí tùy tiện
gọi là trạng nguyên thơ; ví dụ: trạng nguyên thơ Làng Chùa,
trạng nguyên thơ Lá Trầu, trạng nguyên thơ quân đội, trạng
nguyên thơ Lá Mít, trạng nguyên thơ Lá Môn…Các giải thưởng
nhà nước có trạng nguyên thơ nhà nước, trạng nguyên thơ Hồ
Chí Minh, trạng nguyên thơ hội nhà văn, trạng nguyên thơ Bách
Việt…Thậm chí 62 tỉnh thành đều có mấy trăm cuộc thi thơ
trong hai mươi năm nay, các giải nhất đều được báo chí tôn
vinh lên là trạng nguyên thơ…

Như vậy, sự lạm phát trạng nguyên thơ đã khủng khiếp hơn
cả sự lạm phát của đồng tiền Việt Nam…Cứ đà này,
biết đâu người ta lại tôn vinh ông lớn này, bà lớn nọ là
trạng nguyên tham nhũng chăng ? Xem ra, với cái đà xóa mù tiến
sĩ do Ủy Ban nhân dân thành phố Hà Nội phát động: cán bộ
công nhân viên trăm phần trăm sẽ đều có học vị tiến sĩ
đến năm 2015, chắc Hội nhà văn Việt Nam cũng đang phấn đấu
mấy năm nữa, hội sẽ xóa mù trạng nguyên thơ cho hàng vạn
người làm thơ trong nước chăng?

Nếu chúng ta vào trang mạng http://google.com, rồi đánh vào mấy
chữ: trạng nguyên thơ năm 2010-2011 sẽ hiện ra bốn vị trạng
nguyên thơ được báo chí cuồng nhiệt phong là các trạng
nguyên: trạng nguyên thơ Mai Văn Phấn với tác phẩm <em>"Bầu
trời không mái che"</em>, trạng nguyên thơ Đỗ Doãn Phương
với tác phẩm <em>"Hoan ca"</em>, trạng nguyên thơ Đinh Thị
Như Thúy với tác phẩm <em>"Ngày linh dương nở sáng"</em>,
trạng nguyên thơ Từ Quốc Hoài với tác phẩm <em>"Sóng và
khoảng lặng"</em>…

Xin quý vị đánh tên bốn vị trạng nguyên thơ này lên trang
tìm kiếm http://google.com sẽ thấy hiện ra hàng trăm bài khen
ngợi rất kinh hãi và đao to búa lớn. Tất nhiên, cũng có một
số bài chê bốn vị trạng nguyên này là trạng nguyên dỏm,
trạng nguyên bịp vì thơ của họ không phải là thơ vì nó
thiếu hàm súc, thiếu hình tượng, thiếu cấu tứ, thiếu tư
tưởng,dễ dãi, linh tinh lang tang và quan trọng là nó thiếu
nghệ thuật, tức nó không hay.

Nhà phê bình văn học Đỗ Ngọc Yên, trong <a
href="http://lethieunhon.com/read.php/5752.htm">Nhìn lại giải thưởng
thơ Hội nhà văn Việt Nam</a> đã coi hai tập thơ được giải
Hội nhà văn VN năm 2011: <em>"Hoan ca"</em> của Đỗ Doãn
Phương và " Ngày linh hương nở sáng" của Đinh Thị Như
Thúy là hai tập thơ làng nhàng, nếu không nói là thơ dở, như
sau:

<div class="special_quote">"Theo ý kiến của nhiều người, Hoan ca
và Ngày linh hương nở sáng là 2 tập thơ có một số bài đọc
được, còn lại phần lớn chỉ ở mức trung bình, thậm chí
có những bài chưa thể xếp vào thơ được, xét trên mọi khía
cạnh. Còn nhà thơ Đỗ Hoàng thì gọi đây là 2 tập thơ "vô
lối".

Sự "vô lối" đầu tiên thể hiện ở chỗ là cả hai tập
thơ không hề có bất cứ một cảm quan gì mới về thực tại,
dù chỉ là mô tả về những điều mắt thấy tai nghe bằng
ngôn ngữ thi ca hoặc những suy tư triết học. Vẫn là cách
chối bỏ thực tại, chối bỏ những "lẽ phải thông
thường", chối bỏ cái không thể chối bỏ được bằng một
lối nói dễ dãi, không hề có xúc cảm từ phía chủ thể,
cũng không có hình thức thể hiện mới lạ, nên rất khó để
có thể truyền dẫn cái hồn của thơ đến với công chúng:
Đột nhiên không muốn trồng chuối/ Cũng bỏ nốt trồng màu/
Nơi này không cuốc cày vun xới/ Bằng phẳng dải đất ven đê/
Chiều, sau khi trẻ đá bóng/ Đất bằng ngửa mặt mênh mông/
Đón nỗi trống không/ Bằng bầu trời (Đỗ Doãn Phương - Bãi
đất ven đê). Điều đáng nói là những bài thơ theo lối trẻ
em "tập viết" như thế này trong Hoan ca của Đỗ Doãn
Phương rất phổ biến. Ngay ở bài Hoan ca về đất được coi
là bài "đinh" trong tập thơ của anh, ta vẫn thấy sự dễ
dãi đến lạ thường: "... Hoa cỏ, gạch đá, bãi rác, hàng
cây, hồ ao và xa xa dãy núi/ Đâu là nơi đất đai sẽ bị đào
lên khiến mạch nước đứt tung tứa máu/ Đâu là nơi mặt
đất sẽ mở ra và mím thắt lại/ Đâu là nơi cốt nhục ta
sẽ hóa đất đời đời?,..."

Có thể nói, ở bài thơ này, người thơ thấy gì nói ấy,
không cần chắt lọc, chưng cất, càng không cần sự tham gia
của xúc cảm thẩm mỹ, mà chỉ là một lối nói huỵch toẹt
cho xong. Vậy mà không ít người lại cho rằng đấy đích thị
là những bài thơ có sự "sáng tạo" (!?).

Sự dễ dãi theo kiểu này có vẻ như thưa vắng hơn ở Ngày
linh hương nở sáng của Đinh Thị Như Thúy. Nhưng cái mà có
người gọi sự "điệp" trong thơ Như Thúy dường như đã
bị người thơ này sử dụng một cách bừa phứa đến mức
trở thành lạm dụng, khiến người đọc chỉ có thể cảm
nhận được hoặc là Như Thúy cố tình tạo nên một phong cách
thơ "độc đáo" cho riêng mình, mà không ý thức được
rằng sự độc đáo quá đà chỉ cách sự lập dị chưa đầy
một sợi chỉ, hoặc là chị thiếu vốn từ, nên buộc phải
diễn đạt như vậy. Ta hãy đọc bài Và bản nhạc ấy để
kiểm chứng: "...Và đêm tối/ Và thời khắc ấy/ Và bản
nhạc ấy/ Và cánh cửa ấy/ Đã mở/.../ Và gió đã thổi qua
những ống xương rỗng tuếch/ Những ống xương lạnh tê buốt
nhức/ Những mỏi mê đã dìu dặt vang ngân/ Và sóng đã từng
đợt man dại tràn dâng/ Và gió đã thổi qua những ống xương
rỗng tuếch/ Những ống xương lạnh tê buốt nhức/ Những mỏi
mê đã dìu dặt vang ngân/.../ Và hải âu với những tiếng kêu
sắc nhọn/..

Xin miễn bàn về nội dung cũng như hình thức thể hiện của
bài thơ trên. Chỉ biết rằng, trong một bài thơ mà có vô số
từ lặp lại, từ nào ít cũng là 2 lần, nhiều có tới cả
chục lần, thậm chí trong một câu thơ có từ lặp lại đến 3
lần, mà chẳng hề nói lên điều gì, cũng như không tạo thêm
được mảy may một chút xúc cảm thẩm mỹ cho hình tượng
thơ, ngược lại chỉ khiến người đọc cảm thấy mệt mỏi
vì sự "vô lối" của tác giả.

Tôi thật sự khó hiểu những bài thơ như vậy lại được khá
nhiều người tán dương sự "sáng tạo" và cho rằng đấy
là đại diện cho xu hướng thơ trẻ Việt đương đại. Chẳng
lẽ thơ trẻ Việt đương đại chỉ có mỗi một con đường
là đi vào ngõ cụt của sự dễ dãi và lặp lại, hay là sự
cố tình "rối rắm hóa" đến mức tắc tị khiến ai đó
ngộ nhận rằng đấy mới chính là sự "cách tân" đích
thực của thơ Việt đương đại?"( hết trích)</div>

Nhà văn Nguyễn Hiếu trong bài: <a
href="http://phamvietdao2.blogspot.com/2012/06/nha-nuoc-au-tu-cho-hoi-nha-van-vn-lap.html#more">"NHÀ
NƯỚC NÊN "ĐẦU TƯ" CHO HỘI NHÀ VĂN VN LẬP "TRẠI CAI NGHIỆN
THƠ" ĐỂ CHẶN "LẠM PHÁT THƠ"</a> có đoạn phê bình tập thơ
được giải thưởng Hội nhà văn VN "Bầu trời không mái
che" của Mai Văn Phấn là một tập thơ dở, như sau:

<div class="special_quote">"Tôi chỉ hơi lạ trong văn xuôiNguyễn
Quang Thiều có những cách viết có cảm hứng hướng về làng
quê thôn dã ( tiêu biểu là truyện ngắn "'Mùa hoa cải bên
sông)... Thế nhưng trong thơ để coi như một sự cách tân
Thiều lại hướng ngoại ,tìm đến sự mô phỏng thơ nước
ngoài. Hơn hai hai mươi năm sau, Mai Văn Phấn lại rập lại cách
đi đó của đàn anh. Điều này cắt nghĩa vì sao hai ông nhà
thơ chủ soái HNV bỗng nhiên lại tán tụng thơ MVP và kéo theo
hàng đống các vị một là theo voi ăn bã mía, hai là sợ mình
bị đánh giá là ngu dốt khi không tán dưong thơ MVP theo kiểu
Trạng Quỳnh đã từng diễu "mả mẹ thằng nào bảo thằng
nào".

Ngôn ngữ, tư duy của ngưòi Việt ta khác hẳn ngôn ngữ, cách
tư duy nước ngoài. Vậy mà NQT và nay MVP lại tung ra những
đoạn chữ mà ngưòi ta gọi là thơ cùng những suy nghĩ gần
như rập lại các nói cách, tư duy của ngưòi nước ngoài cụ
thể là tư duy của dân đất mới châu Mỹ. Trong suy nghĩ
người Việt rất kiêng kị khi nói về quạ (quan điểm cổ xưa
đó là loài chuyên mang điều gở) nay MVP lại mô phỏng cách
nghĩ nước ngoài cũng nói về con quạ với những câu gọi là
thơ giống như thơ dịch, với kiểu tư duy và cách đặt câu xa
lạ với ngôn ngữ, tư duy truyền thống của người đọc xứ
ta kiểu "Con cá nhẩy vào đám mây tự vẫn (Biến tấu con
quạ); Rồi lảm nhảm, loằng ngoằng nói về mái nhà như một
người đang học nói tiếng Việt: "Thùng rác quay mắc phải
khung ảnh, quạt trần, dây điện thoại. Chiếc quần lót mặc
kẹt giữa tủ bát đĩa và máy tập thể hình. Chổi cùn, bình
diệt muỗi, đĩa CD chui vào tủ lạnh …( Chạy theo mái nhà).
Trời ạ, thế mà người ta dám gọi là thơ thì thật là liều.
…", "…Trở lại thơ MVP, để chứng minh thơ MVP là hiện
tượng đổi mới thơ ca, HNV không ngần ngại tiến hành một
loạt hoạt động để ghi nhận hiện tượng này. Làm hội
thảo rồi trao giải thưởng cho MVP và trao giải cho các cây bút
trẻ có lối viết hao hao như MVP như Đỗ Doãn Phương. Xin lấy
mấy câu mà ngưòi ta cố gọi là thơ của cây bút trẻ này:
"Bây giờ là quãng đường dài nhất/mọi ngưòi giúp cô tiền
đò, tiền đường/ và bắc những cây cầu bằng vải đỏ/hát
những câu an ủi dặn dò…/ khắc ghi vào đầu khuôn mặt già
nua của cô để từ nay nhớ hoặc sợ" (Thăm vườn nhà cũ).
Tôi có cảm thấy một chu kì đã thành qui luật là: mỗi khi
người ta tôn vinh thứ thơ lai căng này thì cũng là lúc các nhà
thơ của ta đang đi vào bế tắc cả trong tư tưởng và cách
biểu hiện. Thơ MVP và một số tập thơ nhận giải thưởng
của HNV năm 2011 không chỉ là những ví dụ cho sự bế tắc mà
còn vô tình tạo ra một thứ sai lầm khi làm hỏng thẩm mỹ
về thơ của ngưòi đọc VN, làm rối ngôn ngữ nước ta trong
khi đáng ra với chức phận nhà thơ phải làm cho ngôn ngữ này
ngày càng đẹp hơn,dân tộc và trong sáng hơn.Khi viết đến
thơ MVP tôi tự nhiên lại nghĩ đến đề xuất về thu phí
phượng tiện giao thông cá nhân của ông BT Đinh La Thăng vừa
vô lý, cửa quyền, tai hại đến đời sống người dân đến
bao nhiêu. Hiện tượng này vô tình hao hao giống với sự HNV
cố cưỡng thiên hạ phải công nhận thơ MVP và một số nhà
thơ trẻ đang viết một cách lai căng được công nhận là
thành tựu của nền thơ VN đương đại ." (hết trích)</div>

Cứ đà này, thiên hạ sẽ mô phỏng lối thơ dễ dãi, cung
quăng cùng quằng, lung tung lang tang rồi đeo cho nó thứ mặt nạ
hậu hiện đại, hậu hậu tương lai, thi thi hậu đậu…này mà
sản xuất mỗi người mỗi ngày năm bảy tập thơ, tạm gọi
là thơ trạng nguyên, thì than ôi, nước nhà có thể phải đổi
tên là nước cộng hòa xã hội trạng nguyên mất thôi.

Hãy xem một trong bốn vị trạng nguyên đáng kính trên sau khi
giật giải trạng nguyên thơ hội nhà văn, đã giật luôn giải
trạng nguyên thơ Làng Chùa, được các web, các blog thi nhau ca
ngợi trên Internet, ví như mạng Văn chương + quảng cáo và
trích gần hết tác phẩm dài gần như vô tận của nữ trạng
nguyên ăn cú đúp, như sau:

"NHÀ THƠ ĐINH THỊ NHƯ THÚY – TRẠNG NGUYÊN GIẢI THƯỞNG
THƠ LÀNG CHÙA VÀ TRƯỜNG CA "NƠI NGÀY ĐÔNG GIÓ THỔI"

Vừa ẵm giải thưởng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ
Đinh Thị Như Thúy lại chơi thêm cái giải trạng nguyên thơ
làng Chùa nữa. Nhưng là làng thơ được cả nước biết tên
tuổi. Quả là phúc trùng lai. Cái làng này lạ, tổ chức thi
thơ mà đến cả Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Nguyễn Quang Thiều
về làm thư ký thơ làng.

Ban Giám Khảo thì toàn cây đa, cây đề như Viện trưởng Viện
văn học Nguyễn Đăng Điệp, Phó GĐ Nxb Hội Nhà văn Trần Quang
Quý, nhà thơ Mai Văn Phấn, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp VHNT
Hà Nội - Dương Kiều Minh, rồi nhà thơ Y Phương... nhìn vào BGK
mà suy ra kết quả giải thưởng cuộc thi. Giải làng mà quy tụ
được quá nhiều anh hùng và giai nhân về chơi hội. Sáng nay 9h
ngày 17/3/2012, tại Làng Chùa, Sơn Công, Ứng Hòa, Hà Nội diễn
ra Lễ trao giải thơ rất độc đáo này. <a
href="http://vanchuongplusvn.blogspot.com/2012/03/nha-tho-inh-thi-nhu-thuy-trang-nguyen.html">Trân
trọng giới thiệu</a>, bài thơ đoạt giải nhất của nhà thơ
Đinh Thị Như Thúy với bạn đọc. (Văn chương +)

<div class="special_quote"><h2>Nơi ngày đông gió thổi</h2>
(Trích)

<strong>Một</strong>

Nàng ngẩng mặt lên trời cao. Đó là buổi sáng của một ngày
đông đến sớm. Gió mang hơi lạnh chảy tràn trề nàng.
Từ đỉnh đầu. Nơi những sợi tóc lay động như những lá
cây. Gió buốt lạnh tràn xuống mơn man khuôn mặt. Gió buốt
lạnh tràn xuống. Tràn xuống nữa.

Trong mê đắm nàng nhìn những đàn chim xếp đặt một thứ tự
rất đẹp bay hết về một phương. Nàng thì thầm bay đi bay
đi. Trong những cánh vỗ kia nghe vang vang lời thoả nguyện của
một ước muốn.

Trong mê đắm nàng lắng nghe những ngọn gió. Những ngọn gió
đang rượt đuổi nhau. Mê mải. Không khởi đầu không kết
thúc. Những ngọn gió như ngựa hoang. Ngùn ngụt suốt ngày
suốt đêm. Cứ phía trước mà phi mà lồng lộn sải vó.

Mỗi ngọn gió ào ạt kể một câu chuyện. Những câu chuyện
về những con người phiêu lưu mê dại tìm thấy nhau ở khát
vọng tự do.

Tự do.
Ra đi.
Phiêu lưu.
Mê dại.

Nàng nghĩ rằng nàng biết những cảm giác đó.
Đó là cảm giác mùa đông của xứ sở này.

<strong>Hai</strong>

Thứ sáu ngày mười ba. Buổi chiều không dưng đỏ rựng như
đám cháy. Gió cuồng nộ. Ngoài bờ rào dã quỳ vàng một màu
gắt gỏng. Người đàn bà chợt thèm ngoại ô với những đồi
dã quỳ ngờm ngợp.

Nàng thở.

Một góc đồi núi Dak Song. Hoang dã lạnh lẽo và rực cháy
những dã quỳ nồng nàn dâng hiến.

Nàng thở.

Những đồi dã quỳ đẹp đến mức có thể lẩn vào đó mà
chết. Những đồi dã quỳ mạnh mẽ đến mức có thể tan rã
vào đó mà không để lại chút dấu vết nào.
Có chăng là những sợi tóc vấn víu bàn tay ai đó, một ngày
nào đó, tình cờ chợt đến giữa hoa mà nghịch đùa bỡn
cợt.
Bướm hoang ong rừng rồi hết. Nhưng những lẩn khuất đơn côi
đau đớn mãi còn. Như tiếng gió u u chưa bao giờ mất. Trên
xứ xở này.

Dã quỳ có là minh chứng cho sự tồn tại và tiêu biến của
những sợi tóc vùi dưới rặng cây?
Trăm nghìn dã quỳ vàng có đoá nào chợt pha màu máu đỏ?
...

<strong>Bốn</strong>

Buổi sáng đã bắt đầu bằng những bừng dậy lan toả. Đầy
ắp không trung lạnh một mùi hương thanh khiết. Một mùi hương
quen thuộc nhưng mãi lạ lùng bí ẩn.

Người người ngơ ngác hỏi. Người người lắc đầu kinh
ngạc.
Mùa đông về đột ngột và bất thường bởi những rẫy cà
phê nở hoa trắng trái mùa. Hoa nở trắng ngợp ngợp cùng lúc
với trái chín đỏ bầm như máu trong cây...
...
Người đàn bà chăm chú dõi tìm trái đỏ trong cây. Đôi bàn
tay mạnh mẽ vặn xoắn theo cành. Trái chín đỏ. Trái chín
đỏ. Xoắn vặn dây thừng trong lòng bàn tay xây xát mùa màng.
Trái chín đỏ. Trái chín đỏ. Rơi rơi trên tầng tầng lá khô
đã bắt đầu giòn vỡ.

Rồi trái đỏ tươi tròn lẵn nhu nhú nụ rốn xinh ken vào nhau
dày dày trên sân nắng. Ngời ngời mãn nguyện đón nhận nhịp
rùng rùng chao đảo theo đường đi của những chiếc trang cào.
Những va chạm cọ xát ngửa nghiêng nóng rực.
Những đường cào chạy thành rãnh dài như những răng lược
khổng lồ chải vào mớ tóc vạm vỡ chảy đỏ rực bất tận
trên sân.

Trời xanh cao và gió ngùn ngụt đuổi ngày đông nắng lạnh.
...

<strong>Sáu</strong>

Có gì đó trong những ngọn gió muộn đang rập rình sửa soạn
những cuộc đi. Có gì đó làm nên sự bải hoải lạ kỳ trong
thân xác của những người đàn bà đã qua kỳ sinh nở. Sống
lại đâu đó những cơn đau man dại, khi xương cốt dịch
chuyển, khi cơ thể người đàn bà mở ra để đứa trẻ chào
đời.

Những cơn đau vừa sống dậy đã làm nên những ủ ê mê
muội. Có khi gây ảo giác hoang tưởng. Về một ngày bầu trời
rỗng không chợt cuốn tất cả vụt bay lên. Hay chợt đổ sầm
xuống chôn vùi tất cả. Cả những toà bê tông sừng sừng
ngạo cuồng.

Những người đàn bà mùa khô đau buốt, thân thể sực nức
mùi lá rừng mùi ngải cứu, ngồi trên bực cửa buồn bã nhìn
ra vườn.
Cà phê đang chín. Trái bầm đỏ như máu ứa trên những nhánh
cành xanh xanh.
Đất trong vườn đã khô đi và tơi ra thành bụi dưới những
gót chân sần nẻ.

Bụi đất chờ đợi.
Cỏ cây chờ đợi.
Lòng người chờ đợi.
Những hạt bắp giống ủ đâu đó chờ đợi.
Những bào tử của các loài nấm từ mùa trước lửng lơ đâu
đó chờ đợi.
Những ấu trùng căng thẳng nghe ngóng chờ đợi trong bóng tối
thăm thẳm của ngóc ngách đất đai.

Những ngọn gió muộn đang rập rình sửa soạn. Bụi đất chờ
đợi để nương theo gió mà đi. Những cái cây không đi được
vì chùm rễ quấn chặt thì chuẩn bị gửi theo gió những
chiếc lá nhẹ tênh. Những chiếc lá đã mất hết màu diệp
lục.

Người đàn bà thở.
Ra đi là khát khao rồ dại nhất. Cũng là khát khao mãnh liệt
nhất. Của tất cả giống loài ở xứ sở này.

<strong>Bảy</strong>

Và vì thế mới có mùa ly hương.
Và vì thế vào mỗi buổi sáng khi trời còn mờ tối trên
những chiếc xe máy cày chạy ầm ĩ theo các con đường vào
rẫy đầy ắp những người đàn ông và những người đàn bà.

Họ đứng bên nhau cùng những găng tay bảo vệ, những giày ba
ta lao động, những mũ nón, những khăn bịt mặt, những vải
bạt, rổ rá, bao tải.

Họ đứng bên nhau toả hơi nóng ngùn ngụt sưởi ấm nhau.
Họ trò chuyện với nhau bằng lời lẽ đôi khi thô bạo đôi
khi tục tĩu.
Họ táo tợn cấu véo nhau.
Họ hồ hởi thách thức nhau.
Họ quàu quạu trách móc nhau.

Những khuôn mặt lạ.
Những giọng nói lạ.
Những đôi mắt lạ.
Họ đến từ đâu?
Họ tìm kiếm điều gì?
Họ lạ lẫm ngơ ngác ban đầu rồi nhanh chóng hoà vào đám
đông lầm lụi.

Họ cũng là những con chim di trú đang bay trên bầu trời kia
thả xuống những tiếng kêu đôi khi lạc lõng.
Những con chim bay đi tránh rét còn họ sao lại chọn nơi rét
mướt này tìm đến?

Họ không tìm nắng ấm?
Họ tìm miếng ăn?
Họ tìm những đồng tiền dành dụm?
Họ đổi công sức lao động cùng sự rã rời mỏi mệt của
thân xác để lấy áo mới cho con và những vật dụng cần
thiết khác trong sinh hoạt gia đình?

Họ ra đi vì sự tồn tại của bản thân họ của gia đình
họ?
Họ ra đi vì chẳng thể ở nhà nhàn rỗi để chịu đựng
những ánh nhìn rũ rượi trách móc của người thân?
Họ ra đi để tránh nỗi chán chường?

Hay họ cũng như muôn vạn con người khác. Bị mê dụ bởi
phiêu lưu và xa xôi. Họ đến với sự dẫn dắt của những
cơn gió buồn bã khắc nghiệt mà ma mị. Để khi mùa cà vãn
họ lại quay về quê hương. Nhưng cái lạnh kia, màu trái đỏ
kia, những đồng tiền dành dụm được kia, những ngột ngạt
mù mịt bụi đất kia mãi ám lấy vô hình trong tâm hồn họ.

Họ không thể biết được rằng mảnh đất này đã luôn muốn
lưu dấu mình trên tất cả những ai qua đây.
Và vì thế họ ra về nhưng những vẫy gọi nơi này sẽ khiến
họ không bao giờ yên ổn.

Và vì thế mới có mùa ly hương.

Mùa ly hương.
Mùa ra đi của những đàn chim tránh rét chọn phương Nam.
Mùa của dã quỳ vàng bất ổn gửi nỗi buồn vào không gian bao
la ngờm ngợp gió. Mùa của những ngọn gió lãng du, không biết
bắt đầu từ đâu, không biết sẽ đi về đâu, cứ phía
trước mà phi mà lồng lộn sải vó.

Mùa tìm kiếm hy vọng tìm kiếm sự sống tìm kiếm những
khoảnh khắc phiêu bạt đắm mê của những con người có vẻ
như sinh ra chỉ biết bán sức lao động của mình để tồn
tại như những tội đồ.

...

<strong>Hai mươi mốt</strong>

Nàng hà hơi thở vào đôi bàn tay, đặt lên hai gò má, ủ ấm
dòng nước mắt vừa ứa ra. Những ngân nga bỗng từng chặp
vang lên trong nàng. Như thể có những chiếc chuông nhỏ giấu
kín đâu đó lâu nay giờ đã được tìm thấy. Và gió đang
lắc lư chúng bằng thói tuỳ tiện bất cẩn. Ấy là khi mùa
lạnh xoè những ngón dài vuốt qua lần cuối những ngọn đồi
khô rụi cỏ.

Nàng dành trọn những buổi chiều để sửa sang cây cỏ trong
vườn.
Hôm qua, nàng đã dồn hết đám bạch hạc hoa đang nở vào
chậu sành. Chỗ đất trống vừa dọn dẹp đó nàng dành để
trồng hoa bột màu. (Nàng rất thích sự dịu dàng tươi tắn
của hoa bột màu). Nàng cũng đã đưa cây nguyệt quế ra trồng
ngoài đất. (Thấy nó vàng vọt trong cái chậu nhỏ xíu tội
nghiệp cho nó quá). Rồi nàng cắt tỉa cây bông giấy, xới tơi
đất ở gốc, và bỏ vào đó một ít phân. (Cây bông này vốn
dễ tính tưới tắm cho nó một chút nó sẽ nhanh chóng ra hoa
rực rỡ).

Buổi tối, nàng ngủ và trong mơ cứ hình dung những công việc
sẽ tiếp tục làm. Sẽ nhổ hết cỏ cho vạt thảo mưa, sẽ
cắt hết lá cũ, cào hết lá rụng và những cỏ chỉ đan rối
trong đất. Rồi tuốt lá cho cây linh hương. Trồng lại vạt hoa
dạ thảo. Cắt và tỉa những bụi loa kèn đỏ dọc lối đi
sát hàng rào.

Công việc với cỏ cây này thực sự làm nàng dễ chịu.
Nàng tự nhủ: Đừng lo nghĩ nữa. Đừng ám ảnh nữa. Đừng
nghe ngóng nữa. Những cơn đau. Những cơn vắng ý thức. Những
hoang mang nghi ngại.
Nàng tự nhủ: Hãy nghĩ đến ấm nước đang sôi và bình trà
sẽ pha trong sáng nay. Hãy nghĩ đến giò long tu đẫm xanh với
những nụ hoa dài theo chuỗi lá.

Ngoài kia vạt quỳ trổ hoa muộn ánh lên những vệt vàng.
Nàng nghĩ: Kỳ diệu thay cho màu hoa ấy. Xuyên qua giá lạnh để
dâng lên. Không quyền lực nào ngăn trở ràng buộc được.

<center>*</center>

Và nàng lại ngồi xuống bên anh. Trong bóng tối của khu vườn.
Yên lặng bên râu tóc đẫm sương mù và khói thuốc. Anh đã
đơn độc nhường ấy, u mê nhường ấy, hạnh phúc nhường
ấy. Bây giờ trầm ngâm tựa vào nàng nhắm mắt.
Nàng biết nàng có thể yên lòng từ giã tất cả. Cả sự
sống. Cả nỗi đau buồn.

Nàng thì thầm:
Vẫn giấc mơ đó sao? Anh?
...
Vẫn giấc mơ đó.
...
Ở đây.
...
Nơi này.
...
Nơi kia.
...
Và mãi mãi.

Krông Pắc, tháng 1 năm 2010

ĐINH THỊ NHƯ THÚY</div>

Lạy Chúa tôi, thơ của trạng nguyên thơ Làng Chùa dài quá, làm
một người già kém mắt như chúng tôi (TMH) đọc chưa hết đã
mệt quá ngất xỉu. Cảm giác của tôi là trạng nguyên thơ
Làng Chùa viết quá dễ dãi, quá tùy tiện, quá linh tinh. Trạng
nguyên thơ mà viết như thế này, sức hèn tài mọn như chúng
tôi, xin lỗi, một ngày có thể ngoáy tới vài chục trường ca
là ít. Biết đâu kẻ viết bài này, sau khi học lối viết
"chuột chạy cùng sào" của các trạng nguyên thơ mà cắm
cúi viết loại thơ phi thơ này trong một tháng, chắc chắn sẽ
hiện NGUYÊN HÌNH LÀ TRẠNG NGUYÊN THƠ SỐ MỘT QUỐC GIA như
chơi.

Thế mà một vị PGS.TS. Viện trưởng viện văn học đương
chức là ông Nguyễn Đăng Điệp đã <a
href="http://tapchinhavan.vn/news/Tin-tuc-Su-kien/Trao-gia-cuoc-thi-Tho-ca-va-nguon-coi-lan-thu-II-1117/">hết
lời ca ngợi "Nơi ngày đông gió thổi"</a> như sau:

<div class="special_quote"><em>"Nơi ngày đông gió thổi"; theo
PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp - Viện trưởng Viện văn học thì
trong thơ Đinh Thị Như Thúy có sự kết hợp hài hòa giữa
thực và ảo, giữa hơi thở thao thiết của tình yêu và hạnh
phúc, cô đơn và đau khổ...Hấp lực thơ Đinh Thị Như Thúy
không nằm ở những cách tân táo bạo, những cách nói gây sốc
mà là sự trường sức và phóng khoáng của một trường liên
tưởng mạnh với nhiều hình ảnh đẹp, gợi cảm và đầy nữ
tính...</em></div>

Có lẽ PGS.TS. Viện trưởng Viện văn học Nguyễn Đăng Điệp
cũng là một trạng nguyên phê bình nên mới thưởng thức
được thơ của vị trạng nguyên thơ Làng Chùa trên chăng?

Sài Gòn ngày 12-6-2011
<strong>
Trần Mạnh Hảo</strong>




***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12915), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét