Xã hội không cần người giỏi thì đạo học rất khó phát triển

<em>Văn Nghệ Trẻ phỏng vấn giáo sư Nguyễn Minh Thuyết</em>

<em><strong>Ở Việt Nam, phần đông đi học chỉ để lấy tấm
bằng tiến thân. Do đó, bao nhiêu năm nay giáo dục đại học
(GDĐH) không có gì thay đổi, ngay cả Dự thảo Luật GDĐH lần
này cũng chưa đưa ra được những quy định có khả năng tạo
ra những thay đổi căn bản. Nguyên nhân chủ yếu nằm ở chính
sách phát triển kinh tế – xã hội và chính sách nhân lực
của ta. Nếu kinh tế nước ta chỉ dừng lại ở khai khoáng và
gia công, lắp ráp thì các trường vẫn chỉ đào tạo như lâu
nay họ vẫn làm. Còn về chính sách nhân lực, nếu tiêu chí
tuyển dụng, sử dụng, cất nhắc chỉ xoay quanh mấy chữ
"quan hệ", "tiền tệ", còn "trí tuệ" xếp chót bảng
thì con em chúng ta cũng chẳng cần học nhiều, học giỏi làm
gì.</strong></em>

<em>- Thưa ông, Thủ tướng vừa có công điện yêu cầu các
tỉnh thành phải khẩn trương rà soát tình hình, nắm chắc
từng trường hợp cụ thể, có giải pháp hỗ trợ thiết
thực, hiệu quả, không để trường hợp học sinh, sinh viên
nào phải bỏ học, thôi học vì lý do không có khả năng đóng
học phí và bảo đảm cuộc sống tối thiểu. Trường hợp có
khó khăn, vướng mắc vượt thẩm quyền, báo cáo Thủ tướng
Chính phủ. Với công điện này, rõ ràng Chính phủ đã rất
quan tâm đến giáo dục bậc đại học. Tuy nhiên, dư luận xã
hội không khỏi lo ngại trong quá trình triển khai thực hiện
sẽ nảy sinh tiêu cực. Quan điểm của ông vấn đề này thế
nào, thưa ông?</em>

<strong>Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết:</strong> Chương trình hỗ
trợ học sinh, sinh viên đã được Chính phủ triển khai từ
nhiều năm nay thông qua hình thức cho vay tín dụng. Công điện
của Thủ tướng vừa qua thêm một lần nữa nhắc nhở các
địa phương phải thật sự chủ động nắm tình hình đời
sống của nhân dân địa phương mình, từ đó xây dựng kế
hoạch hỗ trợ học sinh, sinh viên nghèo để các em có tiền đi
học.

Dư luận xã hội vui vì Chính phủ đã quan tâm nhưng lo ngại
về khả năng nảy sinh tiêu cực trong quá trình triển khai chính
sách. Lo ngại là có cơ sở, vì trên thực tế ở không ít
địa phương, có những hộ gia đình không nghèo hoặc đã thoát
nghèo nhưng vẫn "xin được nghèo" để nhận hỗ trợ của
Chính phủ. Dịp Tết Nguyên đán cách đây mới vài năm còn
xảy ra tình trạng nhiều địa phương sử dụng nguồn tiền
Chính phủ hỗ trợ người nghèo ăn Tết không đúng đối
tượng, không đúng định mức hoặc tiền đến được với
người nghèo thì đã qua dịp Tết.

Một lo ngại nữa là học phí của các trường ĐH, CĐ rất
khác nhau, trường ngoài công lập thu học phí cao gấp 5, 10, 20
lần trường công lập, quỹ tín dụng nào có thể hỗ trợ
học sinh, sinh viên số tiền lớn như vậy? Thậm chí, giả sử
quỹ tín dụng dám cho vay thì học sinh, sinh viên nghèo có dám
vay không? Vay xong lấy tiền đâu mà trả? Chúng ta biết rằng
Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định tăng mức cho vay hỗ
trợ học tập lên 860.000 đồng cho học sinh, sinh viên. Với
mức hỗ trợ này, có thể nộp học phí ở trường công lập,
chứ không thể bước chân vào trường ngoài công lập.

<em>- Trong khi các trường công lập có mức học phí giao động
từ 4-9 triệu đồng/ năm thì các trường dân lập lại có mức
học phí lên tới cả trăm triệu đồng thậm chí có trường
học phí được tính bằng tiền đô như Trường ĐH Tân Tạo
(3.000 USD/năm). Thưa ông, vì sao lại có mức học phí quá chênh
lệch như vậy? Nếu bỏ qua lý do về trang bị cơ sở vật
chất, và không được nhận kinh phí từ ngân sách nhà nước
thì mức học phí này có hợp lý không và theo ông khoảng bao
nhiêu là vừa? </em>

- Chính phủ chỉ có thể ấn định khung học phí áp dụng cho
các trường công lập. Trường ngoài công lập không bị hạn
chế trong việc huy động mức đóng góp của người học vì
họ không nhận được kinh phí từ ngân sách nhà nước, phải
tự cân đối thu chi. Nhà nước chỉ hỗ trợ họ về đất
đai, về thuế trong những trường hợp nhất định, đồng
thời hỗ trợ trong đào tạo cán bộ, nếu như cán bộ của
họ thi đỗ vào chương trình đào tạo sau đại học của Chính
phủ.

Việc thu học phí là quyền tự quyết của các trường đại
học, nhưng Nhà nước quản lý bằng cách yêu cầu các trường
công khai tài chính, công khai cơ sở vật chất và công khai
chất lượng đầu ra của trường cho sinh viên và gia đình các
em lựa chọn. Còn nếu nói mức học phí như vậy là nhiều hay
ít thì rất khó, nó phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật
chất, đội ngũ giáo viên và chương trình đào tạo của nhà
trường để sinh viên ra trường có cơ hội tìm được việc
làm và cuối cùng là "thương hiệu" (uy tín) của trường
đó. Tuy nhiên, mức học phí của nhiều trường ngoài công lập
(cao nhất lên tới cả trăm triệu đồng/năm) chắc chắn là
không phù hợp với số đông người Việt Nam, vốn chỉ có
mức thu nhập trung bình 3-4 triệu đồng/tháng, miền núi thu
nhập 1- 2 trăm nghìn đồng/người/tháng.

Muốn con em mình theo học tại những trường này thì phụ huynh
phải làm bài toán chọn lựa.

<em>- Với tình hình tài chính khó khăn như hiện nay, việc một
gia đình có thu nhập trung bình có thể lo cho con theo học ĐH
đã khó, chưa nói đến những gia đình thuần nông. Rõ ràng
trong xã hội chúng ta, GDĐH đang có xu hướng lựa chọn sinh
viên thay vì sinh viên chọn trường ĐH, thưa ông? </em>

Trên thực tế, đối với một số trường thuộc tốp đầu
thì thí sinh nếu chỉ có học lực trung bình thậm chí khá
không dễ vào được, còn các trường dân lập ít tên tuổi
thì lại "khát" sinh viên. Thậm chí những trường ĐH xuất
sắc do Chính phủ mở thông qua hình thức liên kết với nước
ngoài cũng không dễ tuyển sinh viên. Theo kết quả giám sát năm
2010 của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, thiếu niên và
nhi đồng (VHGDTNTNNĐ) của Quốc hội, có trường khóa đầu
tiên chỉ tuyển được 36 sinh viên với mức học phí 15 ngàn
USD năm, sau một thời gian theo học, có 8 em bỏ. Ở những
trường này thì trò chọn trường chứ không phải trường
chọn trò nữa. Chính vì khó tuyển sinh viên, để duy trì hoạt
động, nhiều trường đã tuyển cả những sinh viên chỉ đạt
8- 9 điểm, thậm chí phải đưa ra những biện pháp thu hút sinh
viên bằng học bổng, bằng chương trình đào tạo liên kết
với nước ngoài.

<em>- Ông Đào Trọng Thi, Chủ nhiệm Uỷ ban VHGDTNTNNĐ của
Quốc hội cho rằng để các trường tự in bằng, cấp bằng là
sự đột phá về quyền tự chủ, nếu Luật GDĐH được thông
qua. Khi đó sẽ có một hình ảnh mới của GDĐH ở Việt Nam.
Theo nhìn nhận của ông thì hình ảnh mới của GDĐH Việt Nam
sẽ thế nào sau quyền được tự chủ in bằng, cấp bằng? Và
nếu việc này trở thành hiện thực thì liệu có xảy ra tình
trạng như Nam Định, Đà Nẵng vừa qua từ chối nhận người
tốt nghiệp trường ngoài công lập hoặc người chỉ có văn
bằng tại chức làm công chức không? </em>

Tôi không nghĩ đó là ý kiến đầy đủ của GS Đào Trọng Thi.
Để GDĐH ViệtNamcó một hình ảnh mới, hay nói đúng hơn là
để GDĐH có một chuyển biến mới với chất lượng mới thì
phải giải quyết được những mối quan hệ lớn, những vấn
đề cốt tử trong GDĐH.

Trước hết là phải giải quyết mối quan hệ giữa quy mô đào
tạo với chất lượng đào tạo. Năm 96-97 cả nước chỉ có
trên 100 trường ĐH, CĐ; nay cả nước đã có trên 450 trường.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Chính phủ còn
đặt chỉ tiêu đạt 573 trường vào năm 2020, tức là thành
lập 123 trường nữa trong vòng 9 năm. Việc phát triển nhanh quy
mô đào tạo có mặt tích cực là đáp ứng được nhu cầu
học tập của mọi người nhưng với việc phần lớn các
trường không đủ điều kiện đào tạo như hiện nay (cơ sở
vật chất thiếu thốn và lạc hậu, số lượng giảng viên
thiếu, chất lượng giảng viên yếu – theo Bộ GD&ĐT, từ năm
1997 đến 2008, số sinh viên tăng 13 lần, trong khi số giảng
viên chỉ tăng 3 lần), chất lượng đào tạo khó đạt yêu
cầu.

Thứ 2 là phải giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa cơ
sở đào tạo với đơn vị sử dụng lao động. Có thể thấy
rằng chưa có một trường ĐH, CĐ nào, trừ các trường Y,
thiết lập được mối quan hệ gắn bó hữu cơ với các đơn
vị sử dụng lao động. Chính vì vậy mới có tình trạng
trường ĐH, CĐ cứ đào tạo, còn cơ sở sản xuất, kinh doanh
không đặt hàng đào tạo cũng như không hỗ trợ đào tạo,
thậm chí ngại không nhận sinh viên về thực tập. Hai bên
không thể gặp nhau, dẫn đến tình trạng sinh viên nhiều
trường ĐH, CĐ sau tốt nghiệp không tìm được việc làm,
buộc phải làm trái ngành nghề được đào tạo, hoặc có tìm
được việc làm thì cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của
thực tế sản xuất, kinh doanh.

Ở các nước công nghiệp, người ta xử lý mối quan hệ này
tốt hơn. Ví dụ, ở CHLB Đức, trường CĐ nghề của họ có
chương trình đào tạo hỗn hợp, kết hợp giữa nhà trường
(nhà nước) với doanh nghiệp, trong đó nhà trường đóng góp 30
% kinh phí tương đương 30 % thời lượng giảng dạy lý thuyết;
doanh nghiệp hỗ trợ 70 % kinh phí tương đương 70 % thời
lượng thực hành tại doanh nghiệp; thậm chí doanh nghiệp còn
có thể trả lương cho sinh viên nếu trong quá trình thực tập
sinh viên đáp ứng được yêu cầu của công việc. Hình thức
đào tạo này mang lại nhiều lợi ích cho sinh viên cũng như cơ
sở đào tạo và đơn vị sử dụng lao động. Sinh viên thực
tập ở doanh nghiệp có thể làm quen với dây chuyền sản
xuất, với công nghệ tiên tiến, trong khi nhà trường ở bất
cứ nước nào cũng khó có thể có được dây chuyền sản
xuất hiện đại như doanh nghiệp, vì đó là lẽ sống của
doanh nghiệp. ViệtNamta nên tham khảo kinh nghiệm này.

Mối quan hệ thứ ba là quan hệ giữa tự chủ của cơ sở với
quản lý nhà nước. Bộ GD&ĐT lâu nay phải bao sân quá nhiều.
Từ ban hành chương trình khung, ra đề và tổ chức thi tuyển
sinh, duyệt chỉ tiêu tuyển sinh đến duyệt điểm sàn, in ấn
và cấp bằng tốt nghiệp. Có thể nói Bộ hoạt động gần
như một Ban giám hiệu của cả nước. Nhưng có một nhân tố
vào hàng quyết định chất lượng đào tạo là kinh phí và sử
dụng kinh phí thì Bộ lại không nắm được. Mỗi năm giáo
dục và đào tạo được phân bổ 20 % ngân sách nhà nước, song
Bộ GD&ĐT chỉ quản được khoảng 5%, còn lại do các địa
phương, các bộ ngành khác quản lý mà không cần báo cáo Bộ.
Bên cạnh đó, nguồn ngân sách này không chỉ được chi cho hệ
thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến sau ĐH mà còn chi
cho các trường của lực lượng vũ trang, các trường chính
trị – hành chính để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ cấp
xã đến trung ương. GDĐH được khoàng 10 % của tổng số 20 %
ngân sách nhà nước; nhưng Bộ GD&ĐT chỉ quản lý có 15% các
trường ĐH thôi.

Mối quan hệ thứ 4 cần giải quyết là quan hệ giữa nhà
trường với cơ chế thị trường. Trường ĐH, CĐ ngoài công
lập có thể hoạt động theo hai nguyên lý khác nhau là hoạt
động vì mục đích lợi nhuận và hoạt động không vì mục
đích lợi nhuận. Loại trường hoạt động vì mục đích lợi
nhuận giống như một công ty cổ phần, trong đó những người
góp vốn được chia cổ tức, người có cổ phần lớn có
tiếng nói quyết định hơn đối với hoạt động của nhà
trường. Loại trường hoạt động không vì mục đích lợi
nhuận cũng do tổ chức, cá nhân góp vốn nhưng góp vốn chỉ
vì mục đích phát triển giáo dục. Người góp vốn không
được chia cổ tức, thậm chí cũng không tham gia hội đồng
quản trị mà chỉ bầu ra một hội đồng gồm những người am
hiểu giáo dục để quản lý công việc nhà trường. Lợi
nhuận hằng năm được tích lũy để trả lương cho giảng
viên, nâng cao trình độ giảng viên, cấp học bổng cho sinh
viên giỏi, tăng cường cơ sở vật chất, năng lực đào tạo
của nhà trường. Gần như toàn bộ các trường ngoài công lập
ở nước ta hoạt động vì mục đích lợi nhuận, như một
công ty cổ phần. Phân chia quyền lợi không đều thì sinh ra
mâu thuẫn. Như vậy rất khó để phát triển. Đáng tiếc là
Dự thảo Luật GDĐH đang duy trì tình trạng này.

Quay trở lại trường hợp quyết định của Đà Nẵng từ
chối nhận người chỉ có văn bằng tại chức và quyết định
của Nam Định từ chối nhận người tốt nghiệp các trường
ngoài công lập làm công chức thì theo tôi đây là lời cảnh
báo đối với các trường, không chỉ trường ngoài công lập.
Là người sử dụng lao động, các địa phương đó và các cơ
quan, doanh nghiệp có quyền đưa ra tiêu chí lựa chọn lao động
của mình. Các trường phải đào tạo tốt hơn thì mới cải
thiện được hình ảnh của mình.

<em>- Vâng, người sử dụng lao động có quyền đưa ra tiêu chí
lựa chọn lao động. Nhưng việc cấm học sinh có học lực
yếu, học lực trung bình không được dự thi đại học có
phải là một phương pháp sàng lọc lao động không, thưa
ông?</em>

Việc ngăn cản học sinh có học lực yếu, học lực trung bình
dự thi ĐH là không đúng luật. Nhưng cần đặt câu hỏi "Vì
sao không mấy ai muốn đi học trường nghề mà tất cả đều
lao vào thi ĐH?" Câu trả lời là vì kinh tế nước ta chậm
phát triển, thị trường lao động nhỏ hẹp, không có bằng
cấp cao khó tìm được việc làm, mà có tìm được việc làm
thì cũng khó có thu nhập tạm đủ chi dùng. Phần đông người
ta đi học chỉ để lấy tấm bằng tiến thân. Do đó, bao nhiêu
năm nay GDĐH không có gì thay đổi, ngay cả Dự thảo Luật GDĐH
lần này cũng chưa đưa ra được những quy định có khả năng
tạo ra những thay đổi căn bản. Nguyên nhân chủ yếu nằm ở
chính sách phát triển kinh tế – xã hội và chính sách nhân
lực của ta. Nếu kinh tế nước ta chỉ dừng lại ở khai
khoáng và gia công, lắp ráp thì các trường vẫn chỉ đào tạo
như lâu nay họ vẫn làm. Còn về chính sách nhân lực, nếu
tiêu chí tuyển dụng, sử dụng, cất nhắc chỉ xoay quanh mấy
chữ "quan hệ", "tiền tệ", còn "trí tuệ" xếp chót
bảng thì con em chúng ta cũng chẳng cần học nhiều, học giỏi
làm gì.

Nói tóm lại, một xã hội không cần người giỏi thì đạo
học khó phát triển lắm.

<em>THU HÀ thực hiện</em>

<strong>Nguồn:</strong> <em>Văn Nghệ Trẻ, số 18 – 19 (ngày 29/4
và 6/5/2012)</em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12476), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét