Trương Nhân Tuấn - Tranh chấp Trung - Phi tại bãi cạn Scarborough

<h2>1/ Sơ lược lịch sử và địa lý:</h2>

Bãi cạn Scarborough, cách đảo Luçon (Luzon) của Phi khoảng 115
hải lý (215 Km), cách bờ biển Việt Nam khoảng 900 Km, cách
Hồng Kông 850 Km, tọa độ 15°08' N – 117°46' E, có hình
thể một dãi san hô tam giác chìm dưới nước, dài khoảng 10
Km, có chu vi 46 Km, bao quanh một vùng biển lặng (lagon) diện
tích tổng cộng khoảng 150 Km². Bãi cạn này có một số đá
nổi trên mặt nước, trong đó lớn nhất là Đá Nam (South Rock
– Nam Nham), nổi trên mặt nước khoảng 1,8 mét lúc thủy
triều cao. Đá này tọa lạc ở góc đông-nam, kế cận cửa
(passe) vào vùng biển lặng. Cửa (passe) có chiều dài 380 mét và
độ sâu từ 9 đến 11 mét. Ngoài ra còn có Đá Bắc (North Rock
– Bắc Nham) cùng với một số đá khác nổi trên mặt nước.
Bãi cạn Scarborough ở về phía tây bãi Macclesfield, cách 318 Km.
Hai bãi này được phía Trung Quốc gộp lại chung với tên
<em>"Trung Sa quần đảo – Zhongsha Qundao"</em>.

Việc Trung Quốc gộp chung bãi Macclesfield, bãi chìm dưới mặt
nước, vào chung với bãi Scarborough, vốn là một bãi cạn, chỉ
có vài đá nổi lên mặt nước, vào thành một <em>"quần
đảo – archipel"</em>, là hoàn toàn gượng ép trên quan điểm
địa lý, địa mạo. Hai bãi này chỉ là <em>"bãi ngầm, ám
tiêu, đá, đá ngầm – Bank, Reef"</em>, không có
<em>"đảo"</em> nào gọi là <em>"đảo"</em> theo qui ước
của quốc tế. Mặt khác, hai bãi này hoàn toàn tách biệt nhau,
thiếu sự liên tục của thềm lục địa, cách nhau đến 318 Km.
Do đó vừa không có tính <em>"quần"</em> lẫn tính
<em>"đảo"</em>.

Về tên gọi, phía Trung Quốc cũng đã tỏ ra thiếu thống
nhất. Trong các tài liệu địa chí của Trung Quốc in trước
năm 1935, bãi Scarborough được ghi bằng tên quốc tế, với ghi
chú tiếng Hoa là <em>"Nam Sa quần đảo"</em>. Đến năm 1947
bãi này được đặt là "Dân Chủ đảo – Minzhu jiao",
thuộc về <em>"Trung Sa quần đảo"</em>. (Như thế đến năm
1935, cái mà Trung Quốc gọi là Nam Sa – tức Trường Sa của
Việt Nam hiện nay, là bãi cạn Scarborough. Năm 1947 họ
<em>"đẻ"</em> ra tên Trung Sa, dán nhãn Nam Sa lên quần đảo
Trường Sa, sau đó ra mặt tranh chấp với Việt Nam. Trước đó
là hai bên chỉ có tranh chấp về Hoàng Sa). Đến năm 1983 thì
bãi này lại đổi tên thành <em>"Hoàng Nham – Huangyan"</em>,
thuộc <em>"Trung Sa quần đảo"</em>.

Về chủ quyền của Trung Quốc tại <em>"Trung Sa quần
đảo"</em>, tuyên bố năm 1951 của Chu Ân Lai, bên lề hòa
ước San Francisco, nói rằng: <em>"Quần đảo Tây Sa và đảo
Nam Uy cũng như các quần đảo Nam Sa, quần đảo Trung Sa, quần
đảo Đông Sa, là lãnh thổ của Trung Quốc"</em>. Điều đáng
lưu ý là phía Trung Quốc không trưng dẫn bất kỳ bằng chứng
nào, về việc khám phá hay chiếm hữu, kèm theo tuyên bố này.
Tuyên bố <em>"bên lề"</em> này do đó mang tính <em>"bảo
lưu"</em> hơn là một tuyên bố chủ quyền có giá trị pháp
lý. Dầu vậy nó cũng được Liên Xô và các nước phe XHCN ủng
hộ. Năm 1958 Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải: <em>"Độ
rộng lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý. Qui định này áp
dụng cho tòan lãnh thổ Trung Hoa, bao gồm phần đất trên đất
liền và các hải đảo ngoài khơi… quần đảo Bành Hồ, quần
đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa quần đảo Trung Sa, quần đảo
Nam Sa…"</em>. VNDCCH, vì đứng trong khối XHCN, trước đó đã
ủng hộ tuyên bố của Chu Ân Lai năm 1951, dịp này lại ra
tuyên bố ủng hộ tuyên bố về lãnh hải của TQ.

Về phía Phi, theo Hiệp ước an ninh ký kết với Hoa Kỳ năm
1951, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hải quân Hoa Kỳ đóng ở
Subic Bay, bãi cạn Scarborough được xem như là một tiền trạm,
do vùng biển lặng của bãi này khá rộng và sâu. Tàu chiến HK
thường xuyên neo ở đó. Hình thái địa lý bãi cạn này (nếu
không bị chìm) thì giống như là đảo Diego Garcia ở Ấn Độ
Dương, là một đảo của Anh nhưng có hợp đồng cho quân đội
HK mướn dài hạn, có tầm chiến lược rất quan trọng cho
chiến lược đại dương của Hoa Kỳ. Người ta ví nó là Guam
thứ hai. (Guam ở Thái Bình Dương, Diego Garcia ở Ấn Độ
Dương, cùng với các vị trí quân sự mới khai triển tại Úc,
cho phép HK bảo vệ chặt chẽ vòng đảo thứ nhứt). Như thế,
gián tiếp Hoa Kỳ đã công nhận bãi cạn này thuộc phạm vi
ảnh hưởng của Phi. Ngoài ra năm 1991, nhà cầm quyền Phi có cho
xây một đèn pha trên bãi, nhưng sau đó bị sập (không hiểu
lý do), không còn sử dụng nữa. Điều đáng tiếc là phía nhà
nước Phi không có hành vi chính thức nào nhằm tuyên bố chủ
quyền của mình tại bãi này, trong khi từ 1951, phía Trung Quốc
đã nhiều lần lên tiếng (đòi chủ quyền) mặc dầu chưa bao
giờ họ chiếm hữu hay quản lý trên thực tế.

<a href="http://www.flickr.com/photos/22851651@N03/7225456866/"
title="Diego_Garcia_(satellite) de truongnhantuan, sur Flickr"><img
src="http://farm9.staticflickr.com/8001/7225456866_a07848d083_b.jpg"
width="1000" height="672" alt="Diego_Garcia_(satellite)"></a>

<em>Hình: đảo Diego Garcia, có hình dáng khá giống bãi cạn
Scarborough, căn cứ hải quân lớn của Hoa Kỳ ở Ấn Độ
Dương.</em>

Qua sự kiện đảo Vành Khăn năm 1995, bãi cạn Scarborough được
hải quân Phi tăng cường canh phòng. Năm 1997 một số tàu bè
của Trung Quốc tiến vào trong vùng Scarborough thì bị các tàu
hải quân của Phi neo ở đây ngăn cản, không cho tiếp cận.
Việc này đưa đến căng thẳng giữa hai bên. Qua các kinh
nghiệm tại đá Vành Khăn (1995) và các đảo của Việt Nam bị
Trung Quốc chiếm trước đó không lâu, Hoa Kỳ lo ngại Phi có
thể bị Trung Quốc tấn công, trong khi bãi dá này có thể có
một vai trò tiền trạm chiến thuật cho tàu bè tuần dương,
nếu để lọt vào tay Trung Quốc sẽ là điều bất tiện. Tháng
8 năm 1998, bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ William Cohen trấn an
rằng quân lực Hoa Kỳ sẽ can thiệp nếu quân Phi bị tấn
công. Qua thái độ này, tranh chấp tại Scarborough dịu lại.

<h2>2/ Một số vấn đề về tranh chấp biển Đông hiện
nay:</h2>

Ngoài Việt Nam, trong khu vực chịu áp lực của Trung Quốc nặng
hơn cả là Phi Luật Tân. Như Việt Nam, Phi từng là nạn nhân
của Trung Quốc qua việc bị nước này dùng hải quân chiếm
đảo Vành Khăn thập niên 90. Trung Quốc còn bày tỏ tham vọng
xuống rất xa về phía nam, như đối với đảo Natuna của Nam
Dương. Các nước ASEAN bày tỏ lo ngại về chính sách bành
trướng của Trung Quốc, trong khi Liên Xô đã sụp đổ, Hoa Kỳ
đặt ưu tiên ở Châu Âu và Trung Đông, biển Đông bỏ ngỏ. Do
đó Việt Nam được dễ dàng được chấp nhận gia nhập vào
ASEAN. Do có chung một đe dọa, khối ASEAN mạnh hơn nhờ đoàn
kết và có mặt của Việt Nam, buộc Trung Quốc ký kết vào
bản tuyên bố chung DOC về biển Đông vào năm 2002. Nhưng tuyên
bố DOC không có tính ép buộc, không có giá trị pháp lý, do
đó các bên lần lượt vi phạm, nhất là phía Trung Quốc, mà
mức độ bạo lực ngày một mạnh. Nước này đơn phương ra
lệnh cấm đánh cá trên vùng biển, từ phía bắc Trường Sa
trở về phía bắc. Họ bắt bớ, bắn giết, phá hủy hay tịch
thu tàu bè, lưới cá, bắt ngư dân Việt Nam đóng tiền chuộc.
Họ liên tục xây dựng các cơ sở (có mục tiêu quân sự) trên
các địa điểm mà họ đã chiếm được trước đó. Họ cho
tàu hải giám xâm nhập vào các vùng biển của Việt Nam và Phi,
thật xa về phía nam, cách bờ biển Trung Quốc hàng ngàn cây
số, để sách nhiễu ngư dân Việt, Phi, đe dọa các công ty
đang khai thác dầu khí trên thềm lục địa của Việt Nam và
Phi, phá hoại các tàu nghiên cứu khoa học của Việt Nam đang
làm công tác thăm dò… Họ tuyên bố rằng làm các việc đó
là Trung Quốc hành sử quyền tài phán của họ. Cao điểm của
sự hống hách là vào năm 2010, khi nước này tuyên bố biển
Đông là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Tức là, trong chừng
mực, Trung Quốc đã ví biển Đông như là Đài Loan hay Tây
Tạng. Tuy nhiên, đà quá trớn của Trung Quốc đã làm cho nhiều
nước bất bình, lo ngại. Các nước điều thấy sự hiện
diện của Hoa Kỳ tại khu vực là một cần thiết. Vì thế,
sự trở lại của Hoa Kỳ được nhiệt liệt hoan nghênh, sau khi
bà H. Clinton ký kết một loạt hiệp ước hữu nghị và chiến
lược với ASEAN và các nước khác, cùng với tuyên bố <em>"Hoa
Kỳ, cũng như các nước khác trên thế giới, có quyền lợi
tại biển Đông"</em>. Cái hung hăng của Trung Quốc liền dịu
bớt lại.

Tuy nhiên, việc lên tiếng khẳng định chủ quyền các đảo ở
biển Đông và vùng biển chung quanh thì chưa bao giờ tiếng nói
của Trung Quốc mạnh mẽ như lúc này. Nhiều thành phần dân
tộc cực đoan Trung Quốc, hoặc một số tướng lãnh chủ
trương diều hâu, luôn lên tiếng thúc giục Bắc Kinh xuất quân
trừng phạt Việt Nam và Phi để chiếm lại các đảo Trường
Sa. Nhiều <em>"chiến lược gia"</em> Trung Quốc đã đánh giá
một cuộc chiến khôi phục lại lãnh thổ như thế sẽ ít tốn
kém, trong sự chịu đựng của Trung Quốc, và cuộc chiến không
thiệt hại sang các cường quốc. Ám ảnh về cuộc chiến
Georgia (với Nga) lần nữa được các thày bàn đem ra đầy mặt
báo nhằm hù dọa những người yếu bóng vía. Tuy vậy,
<em>"viễn ảnh"</em> này khó có thể xảy ra.

Từ khi cuộc chiến giữa Anh và Argentine về quần đảo Malvinas,
nhiều chiến lược gia thế giới đã đặt lại vấn đề phát
triển hải quân theo lối <em>"pháo hạm"</em>, tàu to súng lớn.
Trong cuộc chiến ngắn ngũi, năm 1982, một khu trục hạm của
Anh đã bị một phi cơ loại Mirage của không quân Argentine mang
hỏa tiễn Exocet (do Pháp thiết kế và chế tạo) bắn trúng.
Thiệt hại rất lớn. Nhưng phía Argentine vẫn thua, vì đã bị
Anh bao vây ngoại giao và kinh tế. Những chiếc Mirage đã đặt
mua của Pháp trước đó thì bị nước này giam lại (8 chiếc)
trong khi hỏa tiễn Exocet thì không giao tiếp tục. Nhiều người
nói rằng, nếu phía Argentine nhận đủ số vũ khí này thì họ
đã đánh bại hải quân Anh và chiếm lại được đảo Malvinas.

Từ đó, lý thuyết về đại dương của Hoa Kỳ đã có những
thay đổi lớn. Một số chiến lược gia không đồng ý việc
Hoa Kỳ tiếp tục đầu tư vào Hàng Không Mẫu Hạm. Các chiến
hạm của Hoa Kỳ sau này chỉ chú trọng vào tính nhanh gọn,
<em>"tàng hình"</em>, đồng thời được trang bị các loại vũ
khí chống radar và công phá các trang bị điện tử của quân
địch (như đại bác với đạn từ xung, bom từ xung – bom E)
cùng với các hỏa tiễn tinh khôn tự tìm mục đích. Những gì
to lớn không phải là <em>"hỏa lực hùng hậu"</em> mà trở
thành một yếu điểm. Trong khi hải quân Trung Quốc vẫn ảnh
hưởng nặng lý thuyết cổ điển, do ám ảnh thua hải quân
Nhật trận Áp Lục 1895, chuyên chú phát triển về thiết giáp
hạm, tuần dương hạm, tàu đổ bộ v.v… to lớn, cồng kềnh.
Trung Quốc có khoa trương rằng đã sản xuất được hỏa tiễn
có khả năng không cho Hàng không mẫu hạm tiếp cận vào biển
Đông. Hoa Kỳ chưa bao giờ có ý muốn đặt hạm đội với
Hàng không mẫu hạm tại biển Đông. Ngược lại, Hoa Kỳ mong
muốn Trung Quốc dàn hạm đội của nước này với chiếc Thi
Lang vào biển Đông để <em>"thư hùng"</em> với <em>"quần
cẩu"</em>. Nếu một trận chiến, giả sử xảy ra, hạm đội
của Trung Quốc có thể sẽ bị thiệt hại lớn, nếu không nói
là bị tiêu diệt, nếu chiến trường cách đảo Hải Nam trên
800 Km. Lực lượng hải quân của Trung Quốc hiện nay có thể
đánh những trận gần, như đánh sang Đài Loan, nhưng không thể
đánh xa, vì sẽ làm mồi cho các loại phi cơ mang hỏa tiễn
kiểu Exocet (mặc dầu sản xuất thập niên 70, 80, đã lỗi
thời), các cao tốc đỉnh phóng hỏa tiễn hay ngư lôi, các
loại tàu ngầm mang hỏa tiễn các loại... Mặt khác, các đảo
TS do Việt Nam kiểm soát hầu hết đã được đặt mìn, gài
thủy lôi chung quanh, tàu đổ bộ vào không dễ. Điểm quan
trọng khác, tính gan lì chiến đấu của Việt Nam làm cả thế
giới nể mặt, trong khi quân đội Trung Quốc, từ thế kỷ 19
đến nay, chưa bao giờ chứng tỏ được sự tinh nhuệ ở một
trận chiến nào.

Vì thế một cuộc chiến tại biển Đông, cho dầu <em>"giới
hạn"</em>, nếu xảy ra ở vùng biển xa, với Việt Nam, phía
Trung Quốc sẽ nắm chắc phần thất bại. Nhưng đối với một
địch thủ như Phi thì việc này lại khác. Bãi cạn Scarborough,
do vị trí địa lý, có thể nằm trong khả năng của hải quân
Trung Quốc, nếu Hoa Kỳ đứng ngoài. Tuy nhiên, việc chiếc tàu
ngầm nguyên tử của Hoa Kỳ vừa xuất hiện ở vùng Subic Bay
(Luzon), cho thấy Hoa Kỳ có quan ngại đến việc này.

Có thể do nhận thức được khó có thể đụng độ với Việt
Nam với trình độ kỹ thuật hiện nay, Trung Quốc chuyển mũi
dùi sang Phi. Một cuộc chiến <em>"cục bộ"</em> với Phi ở khu
vực Scarborough có thể Trung Quốc sắp mở ra?

Theo các tố cáo của phía Phi Luật Tân, Trung Quốc từ tháng 2
năm 2012, thường xuyên gây hấn với Phi. Khu vực bãi Cỏ Rong
(Reed Bank), cách bờ biển Palawan 200 Km, đã có những đụng
chạm nhỏ. Thái độ mạnh dạn của quân đội Phi, qua việc
gởi 2 phi cơ đến hiện trường đã khiến tàu của Trung Quốc
rút lui. Tuy nhiên, sau đó, phía Trung Quốc đã gởi một số phi
cơ của họ bay sang vần vũ trên các khu vực tranh chấp. Tiếp
theo đó là đụng chạm ở bãi cạn Scarborough. Trung Quốc đã
huy động một số tàu đánh cá cùng hai tàu hải giám đến
đóng trong vùng bể lặng của bãi. Hải quân Phi cho tàu chiến
ra đuổi, phía Trung Quốc lớn tiếng hăm dọa, tàu chiến của
Phi phải rút lui.

Tuy nhiên, nhìn vấn đề ở góc cạnh kinh tế, ta có thể có
một nhận thức khác.

Tháng 8 năm ngoái, TT Phi là ông Benigno Aquino, cùng với một
đội doanh nghiệp hùng hậu người Phi sang công du Bắc Kinh.
Aquino được Hồ Cẩm Đào tiếp kiến và hai bên có ký kết
một số kết ước về kinh tế trị giá lên tới 7 tỉ đô.
Phía Trung Quốc hứa hẹn sẽ đầu tư vào Phi trong thời gian
tới, qua nhiều lãnh vực, trị giá đến 50 tỉ đô. Hai bên
cũng hứa hẹn sẽ giải quyết tranh chấp biển Đông ôn hòa,
theo lối <em>"gác tranh chấp, cùng khai thác"</em>. Tuy nhiên, cùng
lúc, Phi đã ký kết với một số công ty dầu khí nước ngoài
tại khu vực bãi Cỏ Rong (Reed Bank) nhưng không có mặt của
Trung Quốc. Việc này tạo sự phản đối nơi Trung Quốc. Trung
Quốc cho rằng khu vực khai thác là khu vực có tranh chấp với
Trung Quốc. Tiếp theo Trung Quốc cho tàu hải giám, phi cơ… xâm
nhập vùng biển này để đe dọa.

Tranh chấp hiện nay, tại bãi Scarborough, vẫn chưa hạ nhiệt
độ. Phía Trung Quốc sử dụng vũ khí kinh tế để trả đũa.
Một số mặt hàng của Phi, như chuối, bị phía Trung Quốc làm
khó dễ, trả về. Về phương diện này, Phi ở thế hạ phong.
Nền kinh tế của Trung Quốc quá lớn để Phi có thể trả
đũa. Mặt trận sắp tới của Phi là đưa vấn đề tranh chấp
ra <em>"tòa án quốc tế"</em>.

Tổng thống Phi mới đây lu loa trên báo chí, cho rằng Phi không
được ai ủng hộ trong vụ Scarborough. Việc này sẽ khuyến
khích cho Trung Quốc làm tới, theo kiểu Hitler, sẽ thống lĩnh
biển Đông. Nhưng việc này, nếu nhìn vấn đề từ các kết
ước và hứa hẹn kinh tế giữa Phi và Trung Quốc, rõ ràng là
một sự trả đũa Phi trong việc gạt Trung Quốc ra ngoài các
hợp đồng khai thác bãi Cỏ Rong. Sự than vãn này chỉ có tính
<em>"hề"</em> hơn là sự thật. Trong khi đó, nhớ đến cảnh
quân đội VNCH lúc thất bại ở HS, bộ ngoại giao VNCH đã ra
sức vận động để đưa Trung Quốc ra Hội Đồng Bảo An LHQ,
VNDCCH im lặng đã đành, không hề thấy một <em>"học giả yêu
nước"</em> nào lên tiếng. Thậm chí, lúc Trung Quốc đánh
chiếm các đảo Trường Sa năm 1988, cũng không có học giả nào
viết một giòng thuơng vay. Các dòng chữ ghi trên tấm bia của
các liệt sĩ hy sinh tại Gạc Ma không hề ghi nhận công ơn
người chết, mà ghi họ chết vì <em>"sự ổn định của khu
vực"</em>.

Những người này có thực sự muốn chết vì <em>"sự ổn
định của khu vực"</em>?

<h2>3/ Vài điều liên quan đến Luật quốc tế về Biển. </h2>

Một số điều cơ bản về tập quán quốc tế về biển cần
nên nói ở đây. Cái gọi là <em>"Trung Sa quần đảo"</em> có
thể xem như là một <em>"lãnh thổ"</em> để có thể chiếm hữu
hay không?

Về bãi Macclesfield, là một bãi ngầm chìm sâu dưới mặt
nước, không có điều ước quốc tế nào, hay bất kỳ một
tập quán quốc tế nào, chính thức cho phép một quốc gia
được phép chiếm hữu. Điều này hàm ý, bãi ngầm này nếu
nằm trong vùng lãnh hải, vùng Kinh tế độc quyền (ZEE) hay
thềm lục địa của một quốc gia nào thì sẽ thuộc quyền
tài phán của quốc gia đó. Từ đó, quốc gia này có thể xây
dựng các đảo nhân tạo, các nhà giàn (như Việt Nam xây dựng
tại các bãi Tư Chính và vùng kế cận), nhưng các kiến trúc
nhân tạo này không có hiệu lực (theo điều 121 của Luật
Biển 1982) như là một đảo tự nhiên.

Về bãi Scarborough, là một bãi có phần chìm, có phần nổi, có
phần lúc chìm, lúc nổi. Tập quán và Luật quốc tế có quan
niệm gì về các hình thái địa mạo này?

Về các đảo đá lúc chìm lúc nổi, chiếu theo án lệ sau đây,
ta có thể lấy ra một kết luận. Đó là án lệ của Tòa Án
Công Lý Quốc Tế (CIJ - Cour Internationale de Justice) về tranh
chấp giữa Tân Gia Ba và Mã Lai về chủ quyền của các đảo
Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge qua phán quyết
ngày 23-5-2008.

Pedra Branca (tiếng Bồ Đào Nha) và Batu Puteh (tiếng Mã Lai) có
nghĩa là "đá trắng". Đây là một hòn đảo đá granite, chiều
dài 137 mét và chiều rộng trung bình 60 mét, diện tích khoảng
8560 mét vuông khi thủy triều xuống. Nằm ở phía đông eo biển
Malacca, có tọa độ 1° 19' 48" vĩ độ bắc và 104° 24' 27 " kinh
độ đông. Đảo cách khoảng 24 hải lý về phía đông của
Singapour, cách 7,7 hải lý về phía nam tiểu bang Johor của
Malaisie và cách 7,6 hải lý về phía bắc của đảo Bintan của
Indonesie. Trên đảo có ngọn hải đăng Horsburgh được dựng
lên vào giữa thế kỷ XIX.

Middle Rocks và South Ledge là hai đảo nhỏ khác kế cận Pedra
Branca/Pulau Batu Puteh. Middle Rocks cách 0,6 hải lý về phía nam, bao
gồm hai hòn đá nhỏ cao khoảng 0,6-1,2 m trên mặt biển, cách
nhau khoảng 250 mét. South Ledge là một đảo đá chỉ thấy khi
thủy triều thấp, cách Pedra Branca/Pulau Batu Puteh 2,2 hải lý về
phía nam-tây nam.

Về hình thể địa lý, ta thấy bãi cạn Scarbourough có những
điểm gần giống với quần thể các đảo Pedra Branca, Middle
Rocks và South Ledge, nói chung là các đảo đá, có đảo nổi, có
đảo lúc nổi lúc chìm tùy theo thủy triều.

Trên phương diện lịch sử, tất cả các đảo trên, kể cả
lãnh thổ Singapour và Mã Lai hiện nay, đều thuộc về vương
quốc Johor (từ thế kỷ 15). Tức về lịch sử, Mã Lai đã
chứng minh được chủ quyền và tính liên tục quốc gia trên
các đảo đó. Tuy vậy, phán quyết của CIJ cho rằng Singapour có
chủ quyền ở đảo Pedra Branca. Các lý lẽ đã khiến cho Mã Lai
mất đảo này là vì thái độ thụ động của quốc gia trong
việc hành sử chủ quyền. Nguyên nhân khác, quan trọng hơn
hết, là tấm <em>"công hàm"</em> 1953 của vương quốc Johor. Công
hàm này có nội dung phủ nhận chủ quyền của tiểu quốc Johor
tại đảo Pedra Branca, trong khi các bằng chứng đã trình bày cho
thấy điều này không đúng. Điều đáng ghi nhận, người ký
công hàm thuộc về một <em>"chính phủ lâm thời"</em>, lý ra
không có thẩm quyền ký nhận.

(Phán quyết diều này, tòa đã nhắc án lệ tranh chấp
Thái-Miên về ngôi đền Preah Vihear (CIJ ngày 15-6-1962). Theo đó
ngôi đền (và vùng đất xung quanh) thuộc về Kampuchia, mặc
dầu nội dung công ước phân định biên giới 1907 xác định
rõ biên giới Thái-Miên là đường nối các đỉnh cao, tức là
đường phân thủy của rặng núi Dang Rek, mà đường này đi qua
ngôi đền. Nguyên nhân, tấm bản đồ đính kèm, do phía Pháp
vẽ, không đúng với nội dung công ước, theo đó ngôi đền
lại thuộc về Kampuchia. Tòa phán ngôi đền thuộc về Kampuchia
vì tòa cho rằng phía Thái đã không phản đối về nội dung
tấm bản đồ trong một thời gian quá lâu, điều này hàm ý
chấp nhận tấm bản đồ [sai] đó.)

Về đá Middle Rocks (và South Ledge), Singapour đòi chủ quyền vì
đảo này nằm trong vùng lãnh hải của đảo Pedra Branca. Tuy
vậy, Tòa phán rằng đá này thuộc về Mã Lai (do tính liên tục
quốc gia) trong khi bãi chìm South Ledge thì nằm ở vùng lãnh hải
nước nào thì sẽ thuộc chủ quyền của nước đó.

Điều đáng chú ý, về tình trạng pháp lý của đá South Ledge
(lúc chìm lúc nổi), tòa đã nhắc lại án lệ tranh chấp giữa
Qatar - Bahreïn (Qatar đơn phương kiện Bahreïn lên CIJ), theo đó:
<em>"luật pháp quốc tế im lặng về tình trạng pháp lý của
các bãi lúc chìm lúc nổi, các bãi này có thể xem như là một
"lãnh thổ" hay không? luật pháp hiện hành cũng không thể
xác định là các bãi đó có thể xem như là một lãnh thổ
tương đương với "đảo" hay không"</em>.

Điều này cho thấy, các đá nổi thường trực lên mặt nước
thì có thể chiếm hữu, và có thể hưởng qui chế đảo theo
điều 121 (xem thí dụ phần dưới), như đá Middle Rocks và đảo
Pedra Branca.

Về trường hợp đá South Ledge (lúc chìm lúc nổi), luật pháp
quốc tế hiện hành không có ý kiến gì về tình trạng pháp
lý của nó.

Như thế, Scarborough là một bãi cạn, có đá nổi thường trực
trên mặt nước, do đó có thể chiếm hữu và có lãnh hải.
Điều quan trọng nhất ở đây là bãi cạn này có thể có vùng
kinh tế độc quyền (ZEE) và thềm lục địa hay không? Tùy theo
hiệu quả của việc này mà việc tranh chấp hai bên Trung-Phi có
<em>"enjeu"</em> rất quan trọng.

<h2>4/ Vài thí dụ về hiệu lực các đảo:</h2>

4.1 Đảo Clipperton: có diện tích khoảng 6 Km², không có người
ở, tọa lạc ở phía đông Thái Bình Dương, cách bờ Mễ Tây
Cơ 1.120 Km, mang tên Clipperton là tên của một tên cướp biển
nổi tiếng, lẩn trốn trên đảo. Năm 1858 Pháp tuyên bố chủ
quyền ở đảo này. Năm 1897 Mễ chiếm đảo và tuyên bố chủ
quyền. Năm 1931, Pháp đưa tranh chấp ra tòa án quốc tế,
được xử thắng kiện. Năm 1979 Pháp tuyên bố vùng kinh tế
độc quyền ZEE và thềm lục địa cho các đảo thuộc Pháp,
trong đó có Clipperton. Năm 2009, Pháp đệ trình hồ sơ thềm
lục địa mở rộng cho cả đảo này và không gặp phản đối
của nước nào. Đảo này chỉ là một đảo san hô, không có
người ở, hoạt động kinh tế duy nhất là đánh cá.

4.2 Các đá St-Pierre và St-Paul: Đây là một tập hợp 12 đá
nhỏ do núi lửa cũ cấu thành, ở phía đông Brésil. Đá cao
nhất 22,5 mét. Đá lớn nhất có kích thuớc 350 mét X 200 mét,
diện tích khoảng 10.000 m². Một ngọn hải đăng được dựng
nơi đây. Đá này còn nhỏ hơn bất kỳ đá nào ở Trường Sa,
nhưng nó được đầy đủ vùng ZEE và thềm lục địa. Năm
2004, Brésil đệ trình hồ sơ thềm lục địa mở rộng, xác
định vùng biển và thềm lục địa tại hai đá này. Hồ sơ
không bị bác, với 15 phiếu thuận và 2 phiếu chống.

4.3: Các đảo McDonald và Herald của Úc: Các đảo này không có
người sinh sống cũng như không có hoạt động kinh tế nào. Tuy
vậy đệ trình của Úc về thềm lục địa mở rộng vẫn tính
hiệu lực hai đảo này.

4.4: Đảo Okinotorishima của Nhật: Đảo này thực ra là một
đảo đang chìm, chỉ còn nổi lên mặt ba hòn đá nhỏ. Nhật ra
sức củng cố đảo để không cho nó chìm xuống. Năm 2008,
Nhật đã đệ trình hồ sơ thềm lục địa mở rộng, trong đó
đảo này được tính đầy đủ hiệu lực.

<h2>5/ Nếu vấn đề đưa ra một trong tài quốc tế:</h2>

Các thí dụ ở trên cho thấy một đảo, đá, có thể không có
người sinh sống và nền kinh tế tự túc, đôi khi vẫn có
hiệu lực đầy đủ về ZEE và thềm lục địa. Nếu so sánh
các đảo Hoàng Sa và TS, thậm chí bãi cạn Scarborough với các
đảo trên, đồng thời xét qua các án lệ về chủ quyền và
tình trạng pháp lý của các đảo, thì các đảo HS, TS hay bãi
cạn Scarborough có thể được xem là <em>"lãnh thổ"</em>. Từ
đó một nước có thể chiếm hữu, có thể đòi hiệu lực về
ZEE và thềm lục địa.

Ý thức được điều này, ta sẽ thấy việc lựa chọn để
đưa ra trọng tài phân xử trong trường hợp tranh chấp
Scarborough là một lựa chọn chiến lược, có nhiều
<em>"option"</em> riêng biệt:

<em>1/</em> Dựa trên ZEE và thềm lục địa. Bãi Scarborough là
một bãi đá không có giá trị <em>"lãnh thổ"</em> để có
thể chiếm hữu như đảo. Bãi này tọa lạc trong vùng kinh tế
độc quyền 200 hải lý của Phi, do đó thuộc quyền tài phán
của Phi.

<em>2/</em> Dựa lên chủ quyền của Phi tại bãi cạn Scarborough,
đồng thời vùng biển chung quanh thuộc về vùng kinh tế độc
quyền của Phi. Bãi cạn này, theo hình thể địa lý của nó,
theo các án lệ quốc tế và luật quốc tế về Biển, là một
<em>"lãnh thổ"</em> như là đảo, có thể chiếm hữu. Từ
lâu Phi đã hành sử chủ quyền và quyền tài phán tại bãi
cạn này, qua việc cho phép hải quân Hoa Kỳ đóng tại đây
cũng như việc xây hải đăng (không thành) trong quá khứ.

Theo tuyên bố của nhà chức trách Phi, hiện nay nước này có
vẻ chú tâm nhiều tới <em>"Option 1"</em>, lấy hứng từ tổ
hợp luật sư Covington & Burling ở Washington, qua hồ sơ Việt Nam
tại bãi Tư Chính, phía Trung Quốc gọi là Vạn An Bắc, vào
thập niên 90, khi phía Trung Quốc ngang nhiên ký giấy phép cho
các công ty nước ngoài khai thác khu vực này. Lập luận của
các luật sư này, qua hồ sơ <em>"Những yêu sách đối kháng
của Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực bãi ngầm Tư Chính và
Thanh Long trong biển Đông"</em> do Brice M. Claget thành lập, theo
đó bãi Tư Chính nằm trên thềm lục địa của Việt Nam, không
liên quan đến Trường Sa. Tuy vậy, nếu Phi áp dụng diều này
sẽ phạm nhiều sai lầm chiến lược: Phi không bị mất tố
quyền (forclusion) như trường hợp Việt Nam đối với quần
đảo Trường Sa và sự khác biệt giữa hai khu vực một bên là
bãi cạn, một bên là bãi ngầm. Bãi ngầm Tư Chính không thể
chiếm hữu và đòi hỏi ZEE và thềm lục địa như là đảo.
Trong khi bãi cạn Scarborough thì có thể được xem là lãnh thổ,
có thể chiếm hữu và có thể đòi hỏi lãnh hải, ZEE và thềm
lục địa riêng biệt.

Theo <em>"option 1"</em>, Phi gián tiếp không nhìn nhận tình
trạng pháp lý bãi cạn Scarborough như địa mạo của nó đã
được tập quán quốc tế công nhận, lại xem nó như là một
bãi ngầm, trong khi Trung Quốc tận dụng yếu tố pháp lý này,
lợi dụng sự ngập ngừng của Phi về bãi cạn Scarborough, để
đặt căn bản đòi vùng biển của họ. Phía Trung Quốc đã
lập lại những gì họ đã làm đối với Việt Nam ở khu vực
Tư Chính từ hai thập niên trước, cho Phi ở khu vực Scarborough
hiện nay.

<strong>Lập trường phía Trung Quốc:</strong> đòi quyền quản lý
biển mà không cần chứng minh quyền chủ quyền các <em>"lãnh
thổ"</em> từ đó sinh ra vùng biển (mà họ đòi quản lý).
Lập trường của Phi (và Việt Nam): ám thị từ bỏ các quyền
của mình tại các vùng biển phát sinh từ các lãnh thổ trên
biển mà mình có thể dễ dàng chứng minh chủ quyền, đặt
lập luận trên quyền quản lý biển từ lãnh thổ trên đất
liền.

Việc này làm yếu đi tư thế của Phi (cũng như của Việt Nam
tại Trường Sa). Tranh chấp trên bề mặt là tranh chấp về
biển sẽ che khuất tranh chấp chủ quyền các <em>"lãnh
thổ"</em> trên biển. Phía Trung Quốc chỉ chờ có bấy nhiêu
để nhân dịp đó để tuyên truyền chủ quyền của họ ở
các <em>"lãnh thổ trên biển"</em>. Bởi vì, khi hai bên chấp
nhận là có tranh chấp về biển, tức là hai bên mặc nhiên
đồng ý <em>"lãnh thổ"</em> sinh ra <em>"vùng biển đang tranh
chấp"</em> cũng có tranh chấp.

Trở lại lập trường của Việt Nam ở bãi Tư Chính, dựa trên
lý lẽ thềm lục địa (tính từ đất liền), thay vì đặt căn
bản trên hai việc việc: có quyền chủ quyền tại các đảo
Trường Sa đồng thời có quyền quản lý vùng biển sinh ra từ
thềm lục địa trên đất liền. Điều này làm mất tư thế
Việt Nam nếu tranh chấp Trường Sa được giải quyết bằng
trọng tài quốc tế. Thái độ lựa chọn của Việt Nam (và Phi
tại Scarborough) được hiểu là một sự chấp nhận ám thị
các đảo Trường Sa có tranh chấp với Trung Quốc.

<h2>6/ Kết luận:</h2>

Hiện nay phía Trung Quốc đòi hỏi phân chia vùng biển với Phi,
nhưng phải tính từ đường cơ bản của bãi cạn Scarborough
với bờ biển của Phi. Tương tự như đối với Việt Nam, chia
đều từ các đảo HS và Trường Sa với bờ biển Việt Nam.
Thái độ của Việt Nam, do mất tố quyền (forclusion) từ hệ
quả của các tuyên bố đơn phương (déclaration unilatérale) cũng
như các động thái mặc nhiên (hay ám thị) đồng thuận
(acquiescement) chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và
Trường Sa trong một thời gian quá lâu, do đó phải giữ thế
thụ động chông chênh. Trong khi tư thế của Phi thì khác.

Nước này đã khôn khéo dành được của Việt Nam một số
đảo Trường Sa, với sự đồng thuận của nhà nước CSVN và
các <em>"học giả Việt yêu nước Phi"</em>. Nước này cũng
thành công trong việc hóa giải hiệu lực các đảo Trường Sa
của Việt Nam lên vùng ZEE và thềm lục địa của nước này.
Việc này cũng nhờ ở sự vận động các <em>"học giả
Việt"</em>. Hôm nay Phi dọa kiện Trung Quốc ra tòa án quốc
tế, chắc chắn sẽ không cần <em>"các học giả Việt"</em>
dạy khôn.

Thái độ đúng đắn của các học giả Việt Nam hôm nay là tìm
cách lấy lại tố quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường
Sa, qua việc hợp pháp hóa việc kế thừa lãnh thổ miền Nam
từ chính quyền VNCH. Việc này không thể nói suông mà phải
thể hiện bằng hành động.

Đối với tầng lớp học giả thực sự và có lương tâm trí
thức, việc nhìn nhận di sản của học giả Việt Nam thế hệ
trước và nối tiếp các công trình của họ phải được thể
hiện như một trình tự tự nhiên, qua việc dẫn tên và tác
phẩm của họ mỗi khi các dữ kiện do họ khám phá được sử
dụng lại. Việc chép lại, trích dẫn… các tài liệu nghiên
cứu của các học giả VNCH (hay của các học giả quốc tế)
mà không ghi nguồn dẫn, như nhiều <em>"công trình"</em> của
các <em>"nhà nghiên cứu"</em> Việt Nam hiện nay, là một thái
độ đạo văn. Thái độ này phản khoa học và phi trí thức,
ngoài ra còn phủ nhận sự liên tục và tính kế thừa của
tầng lớp học giả Việt Nam. Đọc lại <em>"Sách
trắng"</em> của nhà nước Việt Nam công bố thập niên 80, ta
thấy đó nguyên vẹn là <em>"Sách trắng"</em> trước kia của
VNCH, bổ túc thêm các nghiên cứu của các học giả VNCH trước
1975. Các <em>"học giả"</em> Việt Nam hiện nay, mỗi lần
chép lại là sao chép lẫn nhau, nếu ghi tên thì người sau ghi
tên người trước, không bao giờ đặt câu hỏi người trước
đã lấy dữ kiện từ đâu? Dữ kiện đâu có rơi xuống từ
trên trời? Phải có người bỏ công vào văn khố lục lọi thì
mới có nó. Hình thức ghi ơn họ là ghi tên họ đầy đủ khi
sử dụng các dữ kiện do họ khám phá ra. Các học giả Việt
Nam hôm nay tự nhiên sử dụng, người sau chép lại người
trước, lại như thế vài lần, các công trình của các học
giả Việt Nam trước 1975 vô tình bị lãng quên. Trong khi chúng
là nền tảng của mọi nghiên cứu về chủ quyền của Việt
Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Về vụ Phi dọa kiện Trung Quốc trước trọng tài quốc tế
hôm nay, đã thấy <em>"học giả"</em> Việt Nam lao nhao, trong
khi ốc còn không lo nỗi thân ốc, bởi vì bang giao quốc tế
đều đặt trên nền tảng quyền lợi. Không có quyền lợi thì
không có nghĩa vụ. Tuyên bố của nhà nước Việt Nam vừa qua
về tranh chấp Trung-Phi tại bãi cạn Scarborough: yêu cầu các
bên bình tĩnh tôn trọng Tuyên bố chung DOC, giải quyết tranh
chấp theo luật lệ quốc tế… là một <em>"nghĩa vụ"</em>
quá hơn cần thiết, đủ để ủng hộ Phi và biểu lộ lập
trường của mình. Mọi yêu cầu hơn điều này, như đã thấy
ở các bài của học giả Việt Nam trên báo chí Phi, đều phi
lý vì việc này đưa đến tình trạng căng thẳng hơn, thúc
đẩy Việt Nam vào một cam kết (hay một tuyên bố) đơn
phương, mà điều này có thể đem lại bất lợi cho Việt Nam
về sau.

Điều đúng đắn là nên quan sát kỹ tranh chấp này và học
hỏi từ đó, biết đâu lại hữu ích cho nước nhà sau này.

<strong>Trương Nhân Tuấn</strong>

____________________

Tham khảo thêm các bài viết của tác giả để biết thêm thái
độ của TQ về các tranh chấp lãnh thổ với các nước khác,
về tập quán và luật quốc tế trong các phân xử của Tòa án
Công lý quốc tế (CIJ) về tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc
gia, phân tích quan điểm và thái độ của nhà nước Việt Nam
hiện nay đối với tranh chấp HS và TS:

- <a
href="http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235392/index">Việt
Nam cần điều chỉnh lại chiến lược biển Đông.</a>

- <a
href="http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235391/index">Thử
tìm hiểu tranh chấp Thái-Miên về ngôi đền Preah Vihear.</a>

- <a
href="http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235354/index">Tìm
hiểu tranh chấp Nhật - Nga về quần đảo Kouriles.</a>

- <a
href="http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235344/index">Tìm
hiểu sơ lược tranh chấp Nhật-Trung về quần đảo Điếu
Ngư</a>

- <a
href="http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235341/index">Về
bài nghiên cứu của Tiến Sĩ Vũ Quang Việt trong buổi "Hội
Thảo Hè 2010"</a>

- <a
href="http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235403/index">Tranh
chấp giữa Malaisie và Singapour về chủ quyền các đảo Pedra
Branca... </a>



***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12656), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét