Phan Châu Trinh thắp ngọn đèn dân chủ, đề xướng cải cách văn hóa – xã hội [1]

Phong trào Đông kinh nghĩa thục, đúng như các cụ lúc ấy hình
dung là "một trận gió", "một đợt sóng" từ nước
ngoài tràn vào, lôi cuốn cả nước như một ngọn thủy triều
khí thế ngất trời: chống vua quan, tư sản hóa theo Âu Mỹ,
hợp đoàn, học nghề, cải cách dân chủ... Đứng đầu phong
trào là các nhà khoa bảng lớn, và phong trào lan rộng từ Bắc
chí Nam, khuấy động cả rất nhiều vùng nông thôn hẻo lánh,
chưa có mầm mống gì của kinh tể và xã hội tư sản.

Một nhân vật không trực tiếp thành lập Đông kinh nghĩa
thục, không chi phối toàn bộ tư tưởng và hoạt động của
Đông kinh nghĩa thục, nhưng rất cỏ uy tín và lại tiêu biểu
cho vận mệnh của phong trào Đông kinh nghĩa thục là Phan Châu
Trinh.

Giữa các nhà nho yêu nước lúc ấy, Phan Châu Trinh không
chỉ là người viết văn chương yêu nước. Ông là người có
ý thức làm nhà hoạt động chính trị, có chủ trương rõ
ràng, táo bạo, tự tin và kiên quyết hành động. Giữa lúc
những nhà nho có tâm huyết, phần lớn là bè bạn thân, chọn
con đường võ trang đánh Pháp, giành độc lập, thì ông đề
xướng chế độ dân chủ, cải tạo đất nước. Giữa lúc
mọi người không ai không thấy vua quan Nam triều là tay sai của
thực dân, nhưng cũng không ai tập trung căm thù, dứt khoát xỏa
bỏ nhà nước phong kiến, thì ông làm điều đó kiên quyết
nhất. Giữa lúc tư tưởng ghét Tây phổ biến thi ông chủ
trương dựa vào nhà nước Bảo hộ đề thủ tiêu chế độ
phong kiến. Ông đi đầu trong phong trào cắt tóc, mặc âu phục,
bỏ tế lễ, hủ tục. Ở Phan Châu Trinh, ta nhìn thấy hình ảnh
con người tiền phong hăng hái hoạt động để cải cách đất
nước lúc đó.

Sau khi đậu Phó bảng (1901) Phan Châu Trinh theo lệ ra làm quan
ít lâu, rồi vì chán ghét cảnh triều đình hủ bại ông xin
từ chức. Sau khi bỏ quan về nhà, ông cùng hai người bạn là
Tiến sĩ Trần Quý Cáp và Hoàng giáp Huỳnh Thúc Kháng làm một
chuyển du lịch vào phương Nam để "xem xét tình hình", sau
đó ra Bắc ở lại Ha Nội. Khi Phan Bội Châu xuất dương cầu
viện Nhật Bản, chuẩn bị võ trang bạo động, ông liền trốn
sang Nhật, tranh luận về đường lối cứu nước với bạn.
Không thuyết phục được Phan Bội Châu ông bỏ về nước
hoạt động theo chủ trương của mình. Ông gửi thư cho Toàn
quyền Bô, ra sức vận động cải cách dân chủ, kịch liệt
phản đổi chủ trương cầu viện và bạo động. Có thể nói
vào lúc đó Phan Châu Trinh là người có tư tưởng dân chủ
sớm nhất, sâu nhất và nhất quán nhất.

Phan Châu Trinh là nhà hùmg biện; ông dùng tài hùng biện
chống chế độ phong kiến lạc hậu và chống chủ trương cầu
viện, bạo động: "Không bạo động! Bạo động thì chết!
Không mong ngóng nước ngoài cứu giúp! Mong ngóng là ngu". Không
phải Phan Châu Trinh chống đấu tranh võ trang vì ươn hèn, cam
chịu hãy sợ chết. Ngược lại, ai cũng biết ông là ngươi có
khí phách đặc biệt cứng cỏi, căm giận cảnh nô lệ và sẵn
sàng hy sinh.

<em>Bi tai quốc thế nguy huyền phát!
Tử nhĩ, nam nhi sỉ khấu đầu.</em>

Dịch:

<em>Thế nước đến nguy treo sợi tóc,
Tài trai thà chết chẳng nghiêng đầu.</em>
(Điếu Giải nguyên Nguyễn Hữu Huân, Ngô Đức Kế dịch)

Ông có gan kiên trì một chủ kiến khác mọi người, có gan
trốn sang Nhật rồi lại về gặp cả toàn quyền, cả triều
đình. Khi Đông kinh nghĩa thục bị đóng cửa, ông là người
bị bắt đưa ra Côn Đảo đầu tiên. Ông đón nhận số phận
hiểm nguy với khí phách hào hùng khảng khái:

<em>Luy luy già tỏa xuất đô môn,
Khảng khái bi ca, thiệt thượng tồn.
Quốc thồ trầm luân, dân tộc tụy,
Nam nhi hà sự phạ Côn lôn?</em>
Dịch:

<em>Xiềng gông cà kệ biệt đô môn,
Khảng khái ngâm nga, lưỡi vẫn còn.
Đất nước đắm chìm, nòi giống mỏn,
Thân trai nào sợ cái Côn lôn.</em>
(Xuất đô môn. Huỳnh Thúc Kháng dịch)

Chọn con đường cộng tác với chính phủ bảo hộ đề
cải cách dân chủ, không phải Phan Châu Trinh theo Pháp hay không
biết chính nhà nước bảo hộ mới là kẻ làm chủ "dung túng
quan lại Việt nam" sai khiến bộ máy Nam triều "lột da dân,
hút máu dân, chẻ xương dân".

Ông cũng đã nói tận tai tên cầm đầu chính phủ bảo hộ
rằng chính sách cai trị của Pháp là vô nhân đạo "không
lấy loài người mà đãi người Việt Nam", là vơ vét tham lam
"tát hết nước mà bắt cá", là giả dối "nói khoan đãi,
khai hóa" chỉ là "đem bánh ngọt quả chín ra dỗ trẻ con".
Tất nhiên những điều đó khi viết vào một bức thư gửi cho
Toàn quyền thì cũng phải dùng lối nói quanh co. Vào thời gian
đó, chủ trương đấu tranh võ trang của nhiều người chỉ
xuất phát từ nhiệt tình, ít được suy tính cẩn thận, thiếu
chuẩn bị lực lượng chu đáo, nhất là với lòng mong ngóng
ngây thơ vào nước đế quốc "hổ đói Nhật Bản» cho nên
sự phản đối của Phan Châu Trinh không phải không có lý do.
<strong>Nhưng Phan Châu Trinh không coi giành độc lập là yêu cầu
hàng đầu, là việc trước tiên.</strong> Còn có một lý do
khác: Nhận thức của ông về thực trạng xã hội nước ta và
khuynh hướng dân chủ trong tư tưởng ông. Đó cũng là chỗ
đặc sắc, chỗ ông khác nhiều người,

Vào thời đó số đông những người yêu nước rất nhạy
cảm với khổ nhục mất nước, rất tha thiết với chủ quyền
dân tộc. Họ thường nhìn về lịch sử, về truyền thống anh
hùng của cha ông để tự hào và tin tưởng. So sánh quá khứ
và hiện tại, họ căm thù thực dân xâm lược và vua quan bán
nước. Cho nên nếu Tân thư có mở mắt cho họ nhìn ra cảnh
cường thịnh của các nước Âu Mỹ thì họ cũng gắn những
cái đó với chủ quyền độc lập của các nước đó. Phan
Châu Trinh không phải hoàn toàn khác họ, nhưng khi so sánh nước
mình với thế giới văn minh, ông thường chú ý đến chế độ
chính trị, đến cung cách làm ăn, đến xã hội và những con
người ở các nước Âu Mỹ. Con người ở các nước văn minh
đó là những người có tầm nhìn cao xa, có chí lớn, có nhân
cách cao thượng: vì nước, vì dân, vì nghĩa. Không những họ
có nghề, ham học hỏi để nghề nghiệp thêm tinh xảo mà họ
còn mạo hiểm lập sự nghiệp lớn, còn trung tín làm ăn với
nhau để việc kinh doanh càng phát triền rộng. Phan Châu Trinh say
mê với cảnh tựợg văn minh Âu Mỹ bao nhiêu thì lại tức
tối cảnh nước nhà hủ bại bấy nhiêu. Trong bài Tỉnh quốc
hồn ca viết năm 1907 Phan Châu Trinh đã so sánh thực trạng trái
ngược giữa bai bên. Nếu về phía các nước Âu Mỹ, vì ông
không trực tiếp quen thuộc nên nhìn nhận có khi phiến diện,
thì ngược lại những phần nói về sự hủ bại của xã hội
ta viết rất sâu sắc. Với cái nhìn sắc sảo hiểm có ông đã
vạch ra trong tập tục, trong tâm lý xã hội ta, nhất là tập
tục, tâm lý của giới thượng lưu, giới hữu sản, những
chỗ thấp hèn, dã man, nếu cứ giữ mãi thì không mong gi tiến
hóa văn minh được. Ta hãy nhìn bức tranh xã hội hài hước và
u ám:

<em>Người mình đã vụng về trăm thức,
Lại khoe rằng "Sĩ nhất tứ dân"
Người Khanh tướng, kẻ tẩn thần
Trăm nghề hỏi có trong thân "nghề nào?
Chẳng qua là quơ quào ba chữ,
May ra rồi ăn xớ của dân,
Khoe khoang rộng áo dài quần
Tráp giầy bệ vệ, rần rần ngựa xe
Còn bậc dưới ngo ngoe vô kể,
Họ cúi luồn kiếm thể vơ quào,
Thầy thư lại, bác kỳ hào
Gặm xương, mút đũa lao nhao như ruồi.
Lại có kẻ lôi thôi bậc giữa
Trên lỡ quan, dưới nữa lỡ dân
Ấy là học sĩ, văn nhân,
Ăn sung mặc sướng mà thân không làm
Người trên đã lam nham như thể,
Những dân ngu kề lể làm chi,
Rượu chè, cờ bạc li bì,
Sanh ra trộm cướp nghề gì mà mong.</em>

Phan Châu Trinh đặc biệt lên án bệnh danh vị, thỏi cậy
thế cậy quyền ức hiếp và ăn xớ của dân. Để có chút
chức tước mà kiếm ăn như thế họ chạy vạy, lo lót xu nịnh
không từ việc gì không làm:

<em>Người mình không đức, không tài,
Ham quan, ham tước, chen vai, cúi đầu,
Cửa quyền môn mai chầu, tối chực,
Đua chen nhau rạo rực như sôi,
Cửa tiền cửa hậu lăn vùi,
Cùng ra đến giậu chó chui cũng lòn.</em>

Ngoài những người kiếm "chức to, chức nhỏ" "gõ đầu
dân" mà kiếm lợi là những người có tiền "chôn sâu xó
nhà" chờ lúc người khác gặp tai ách, cho vay lãi thắt cổ
để kiếm lợi; Dân ta hám lợi, hám đến mức thấy lợi thì
không nghĩ gì đến giống, đến nòi nữa. Nhưng lại hám những
lợi nhỏ do chấm mút, lừa đảo, tranh giành, bóp nặn mà có
chứ không biết ỉàm ăn, kinh doanh mà kiếm lợi to. Cả nước
đua nhau chè chén, chơi bời, dốc thời giờ vào chơi bời
"lưu liên bất phản", dốc tiền của vào chè chén, ma chay
hủ tục:

<em>Làm ra năm lợn, mười trâu,
Không mong thăn hưởng chỉ cầu khách đông.</em>

Không ai đua trí đua gan ở những chỗ có ích mà chỉ đua
nhau bán buôn quyền tước, đua nhau ăn uống và xài phí. Dưới
con mát của Phan Châu Trinh, xã hội ta là "một đàn ruồi, lũ
kiến, không còn chút nhân cách nào" "suốt cả thảnh thị
cho đến hương thôn, đứa gian giáo thi như ma như quỷ, lừa
gạt, bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì
như lợn như trâu, giẫm cồ, đè đầu cũng không dám ho he một
tiếng". <strong>Với tình trạng dân tộc như vậy thì, như ông
nói với Phan Bội Châu, dầu có giành được độc lập "cũng
không phải là điều hạnh phúc cho dân".</strong>

Có thề nói đổi với tình trạng đất nước, Phan Châu
Trinh đã dùng những lời mạt sát tàn nhẫn. Nhưng đỏ không
phải là sự khinh miệt đắc chí của bọn thực dân mà là sự
uất ức đau xót của người vốn thiết tha yêu dân, yêu
nước. Phan Châu Trinh coi dân chủ còn cấp bách hơn độc lập
và tưởng rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy
củ theo kiều Âu Mỹ — dù là do thực dân nắm giữ — để
quét sạch những rác rưởi thối tha đó. Sai lầm chính của
ông chính là ào tưởng về chế độ dân chủ tư sản, về
truyền thống tự do, bình đẳng, bác ai của nước Pháp, tức
là quan niệm dân chủ của ông. Do ảnh hưỏng sách vở, ông tin
tinh thần "yêu giặc như bạn" cửa người Pháp, tin "Nã
Phá Luân là người sứ giả Trời sai xuống rắc cái hoa tự
do" cho Châu Âu. Ông tưởng thực tế cũng giống như trong sách
vở, tưởng thực dân cũng tôn trọng tinh thần Cách mạng 1789,
sợ hãi không đám vi phạm nó! Choáng ngợp trước sự cách
biệt. Phan Chầu Trinh càng bi quan:

<em>Thử so với người Âu người Mỹ,
Trăm điều không có tý chi mà.</em>

Và nghĩ rằng: "Công việc ngày nay, ai có thể dạy ta; thì ta
xin làm học trò; ai có thể nuôi ta, thì ta xin làm con; nhờ ơn
dạy dỗ nuôi nấng, dìu dắt, ôm ấp lấy nhau, mong cho giống
nòi còn sinh tồn ở trên mặt địa cầu này mà thôi".

Dân chủ vốn không phải là một phần thưởng có thề ban
phát. Nếu nhân dân không cỏ nhân cách thì sao xứng đáng có
quyền dân chủ? lấy ai mà giành quyền dân chủ? Đại đa số
nhân dân ta nhiệt tình yêu nước sẵn sảng "đem máu đòi
lấy quyền tự do" (Phan Bội Châu), đó chính là điểm căn
bản của nhân cách Việt Nam. Không nhìn ra điều đó thì ông
sẽ cùng ai cải cách dân chủ? và cải cách dân chủ với ai?
Giống như những nhà nho, Phan Châu Trinh cũng coi quần chúng chi
là hạng "tối tăm mù mịt, mềm yếu, ươn hèn", tự coi
mình là người tiên giác, thuộc hạng người đặc biệt mang
tư tưởng dân chủ giáo hóa vả cả quyền dân chủ ban phát cho
mọi người. Chế độ dân chủ do số rất ít người mang lại
tránh sao khỏi chỉ là của số người rất ít?

Phan Châu Trinh rất sắc sảo nhìn ra yêu cầu dân chủ hóa
đất nước, nhưng ông cũng không có điều kiện suy nghĩ kỹ
càng về các chủ trương dân chủ hóa. Trong tư tưởng dân chủ
của Phan Châu Trinh những thiếu sót quan trọng mà ông không
nhận ra không chỉ là chỗ Phan Bội Châu nói: "Nước không
còn nữa thì chủ cải gì" mà còn cả ở chỗ, cũng do Phan
Bội Châu nói:

<em>Sông phía Bắc bề phương Đông,
Nếu không dân cũng là không có gì.</em>

Ở vào thời điểm xuất hiện, tư tưởng cải cách dân chủ
của Phan Châu Trinh là yêu nước, chưa thuộc xu hướng cải
lương. Ý đồ của ông là "cùng với nhân nhân, chí sĩ ba kỳ
thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấu rõ ngọn nguồn, đông tây
sao mà chẳng vỗ nên bộp" (Thư Phan gửi cho Nguyễn Ái Quốc
năm 1922) Lúc đó giai cấp tư sản chưa thành một lực lượng,
nếu tán thành các chủ trương tư sản hỏa thì cũng chỉ là
với tư cách quần chung đi theo các nhà khoa bảng. Lúc đầu
thực dân tưởng có thề lợi dụng chủ trương cải cách đề
làm đối trọng với phong trào bạo động chống Pháp, gần gũi
với Trung Quốc, Nhật Bản. Khi thấy quần chúng đông đảo,
thật sự thiết tha với độc lập và dân chủ tham gia, lái
phong trào sang cách mạng thực sự thì thực dân Pháp mới can
thiệp vừa bắt giam những người yêu nước cầm đầu, vừa
tổ chức trường Quy thức, ban Tu thư, hội Khai trí tiễn đức,
cho ra báo Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chỉ... đề
xướng con đường Pháp Việt đề huề, hợp với giai cấp tư
sản vừa phát đạt trước sau Đại chiến thế giới lần thứ
nhất. Đó là chủ nghĩa cải lương. Phan Châu Trinh cũng như các
nhà yêu nước khác chống lại chủ trương đó. Nhưng trong tư
tưởng "không bạo động, bạo động thì chết" của ông
lại có chỗ cho những người thân Pháp và sợ chết dựa vào
để chống phong trào yêu nước và cách mạng, biện hộ cho
chủ nghĩa cải lương.

Phan Châu Trinh là một nhà dân chủ, yêu nước và cách mạng.
Nhưng Phan Châu Trinh cũng là một nhà nho. Nhà nho có thể vì yêu
nước mà đề xướng chế độ dân chủ như một lý tưởng xã
hội đẹp đẽ, Nhưng dân chủ lại không thể là thuộc tính
của nhà nho. Không phủ định triệt để thế giới quan Nho
giáo thì không thể tiếp nhận được tư tưởng dân chủ thực
sự.

_______________

[1] Trích mục III, Chương III: Văn chương yêu nước của người
chí sĩ", Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900-1930, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội 1988.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12468), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét