Hội nghị Trung ương 5 Đảng Cộng sản Việt Nam vừa khai mạc
sáng thứ hai 7/5. Chủ đề quan trọng được nêu lên đầu là
bàn về sửa đổi Hiến pháp. Ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng lưu ý các ủy viên trung ương rằng sửa đổi Hiến pháp
là 'công việc đặc biệt hệ trọng' và mang 'tính chất
nhạy cảm'.
Vì sao lại nhạy cảm thì không rõ lắm nhưng quả thật đây
là 'công việc đặc biệt hệ trọng' vì rõ ràng Hiến pháp
hiện thời của nước ta tồn tại nhiều vấn đề bất cập
không thể không sửa đổi. Là một công dân, tôi cũng muốn
thể hiện trách nhiệm của mình đối với công việc này. Tuy
nhiên, sau khi tìm hiểu những ý kiến đã đóng góp trước đây
tôi thấy ý kiến của tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang có nhiều
điểm trùng hợp với nhận thức của tôi. Bởi vậy tôi xin
trân trọng giới thiệu lại những ý kiến này:
<center><h2>I - Trích bài "Nghĩ về Hiến pháp nước ta" (Rút
trong cuốn "Nhân quyền và Dân chủ ở Việt Nam")
</h2></center>
<div class="special_quote">
...... Ngày 9 tháng 11 năm 1946 bản Hiến pháp đầu tiên đã
được quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thông qua
sau 10 ngày làm việc khẩn trương với 240 phiếu thuận, 2 phiếu
chống. Có lẽ đây là bản Hiến pháp dân chủ nhất, tính
đến nay, của nước ta. Với lời nói đầu ngắn gọn và khúc
chiết (hơn cả, so với tất cả các bản Hiến pháp sau này),
bản Hiến pháp 1946 đã xác dịnh ba nguyên tắc cơ bản sau
đây:
- Ðoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai
cấp, tôn giáo.
- Ðảm bảo các quyền tự do, dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Trên cơ sở đó, Ðiều 1- Hiến pháp 1946 ghi rõ: <em>" ... Tất
cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo "</em>. Ðiều này, về sau cứ bị biến tướng dần dần.
Hiến pháp 1959 khả dĩ còn ghi: <em>"Tất cả quyền lực trong
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân.
Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và
Hội đồng Nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các
cấp và các cơ quan Nhà nước khác đều thực hành nguyên tắc
tập trung dân chủ "</em>. Ðến Hiến pháp 1980 đã biến hóa
lắt léo thành: <em>"Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước
chuyên chính vô sản"</em> (Ðiều 2). <em>"Ở nước CHXHCN Việt
Nam, người chủ tập thể là nhân dân lao động bao gồm giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp tri thức
XHCN và những người lao động khác, mà nòng cốt là liên minh
công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo"</em> (Ðiều3). Ðến
Hiến pháp 1992 thì: <em>"Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức"</em> (Ðiều 2). Ðiều này dự kiến hầu như sẽ được
giữ nguyên trong kỳ sửa đổi này. Thế đấy, từ Hiến Pháp
1946, qua các Hiến pháp 1959, 1980 đến Hiến pháp 1992, cái
<em>"miếng da lừa"</em> quyền lực của nhân dân cứ ngày một
teo dần. Từ chỗ <em>"Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giầu nghèo, giai cấp, tôn giáo"</em> (Hiến pháp 1946), đến
chỗ có phân biệt giữa <em>"nhân dân nòng cốt", "nhân dân nền
tảng"</em> với <em>"nhân dân ngoài vỏ", "nhân dân chầu
rìa"</em>. Lại nữa, dù có mềm hóa từ <em>"Nhà nước CHXHCN
Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản"</em> (Hiến pháp
1980) thành <em>"Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân"</em> (Hiến pháp 1992) thì ngay trong
đám nòng cốt và nền tảng đó, bao giờ nhân dân là trí thức
cũng bị xếp hạng bét!
….. Tôn trọng nguyên tắc <em>"Ðảm bảo các quyền tự do dân
chủ"</em> ghi rành rọt trong lời nói đầu, Hiến pháp 1946 rất
chú trọng đến chế định công dân. Hiến pháp có 7 chương
thì toàn bộ chương 2 được dành cho chế định công dân. Tại
đây, Ðiều 10 công bố rất rõ ràng, dứt khoát <em>"Công dân
Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do
tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi
lại trong nước và ra nước ngoài "</em>. Ðến Hiến pháp 1959
điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn <em>"Công dân
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có các quyền tự do ngôn
luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình, Nhà nước
bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công
dân được hưởng các quyền đó"</em> (Ðiều 25). <em>"Công dân
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào"</em> (Ðiều 26). Vậy mà,
đến Hiến pháp 1980 người ta đã bắt đầu phải ngoắc thêm
một điều kiện: <em>"phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã
hội"</em>, đồng thời đính kèm một lời răn đe: <em>"Không ai
được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để ..."</em>.
Nguyên văn điều 67 - Hiến pháp 1980 là: <em>"Công dân có các
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do
biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và
của nhân dân. Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần
thiết để công dân sử dụng các quyền đó. Không ai được
lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích
của Nhà nước và của nhân dân".</em>
Qua Hiến pháp 1992, những quyền công dân trên được phân bổ
trong các điều 68, 69, 70 nhưng bây giờ ở đâu cũng phải đeo
thêm một cái vòng kim cô hay một cái xiềng lỏng: <em>"theo quy
định của pháp luật"</em>.
Nguyên văn điều 68 và điều 69 - Hiến pháp 1992 là: <em>"Công
dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có
quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy
định của pháp luật". "Công dân có quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp,
lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật". </em>
Tất cả các quyền tự do đều bị hạn chế dần. Riêng quyền
tự do xuất bản đã được ban bố trong Hiến pháp 1946 thì sau
đó biến mất hẳn trong tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam
sau này!
……Không lệ thuộc vào Hiến Pháp 1918 của nước Nga Xô
viết, nơi mà mọi tài sản tư hữu của địa chủ và tư sản
đều bị quốc hữu hóa, Hiến pháp 1946 của Việt Nam vẫn bảo
vệ quyền tư hữu của công dân. Ðiều 12 - Hiến pháp 1946 ghi:
<em>"Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo
đảm"</em>. Ðến Hiến Pháp 1959, quyền tư hữu cũng còn được
thừa nhận. Ðiều 11- Hiến Pháp 1959 ghi: <em>"Ở nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ quá độ, các hình thức chủ
yếu về tư hữu tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức
sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở
hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể
của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao
động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân
tộc"</em>. Vậy mà, dưới triều đại Lê Duẩn, quyền tư hữu
đã bị xóa bỏ trong Hiến pháp 1980. Sai lầm tai hại đó
được sửa chữa một phần trong Hiến pháp 1992 tại điều 16:
<em>"... phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế:
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế
tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều
hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật,
mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu
với thị trường thế giới "</em>.
Có thể nói, nếu Hiến pháp 1946 mang nhiều yếu tố dân chủ,
tiến bộ nhất thì Hiến pháp 1980 được xây dựng lại dưới
thời Lê Duẩn là bản Hiến pháp tồi tệ nhất trong 4 bản
Hiến pháp đã có của nước ta. Ngoài việc cóp nhặt điều 6
của Hiến pháp Liên Xô, áp đặt thành điều 4 cho Hiến pháp
Việt Nam, Hiến pháp 1980 còn chứa đựng nhiều điều có tính
chất phản động, tạo tình trạng áp chế tư tưởng, ngăn
trở phát triển kinh tế nói riêng và xã hội nói chung ở
nước ta. Hãy thử điểm qua một số điều:
- Ðiều 38: <em>"Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng chỉ
đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam"</em>
- Ðiều 18: <em>"... thiết lập và củng cố chế độ xã hội
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền
kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh
tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế
hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động
..."</em>
<em>- Ðiều 21: "Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương
và mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài"</em>
- Ðiều 22: <em>"Các cơ sở kinh tế quốc doanh hoạt động theo
phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước, thực
hiện chế độ hạch toán kinh tế, chế độ thủ trưởng và
chế độ trách nhiệm cá nhân ..."</em>
- Ðiều 25: <em>"ở nước CHXHCNVN , những cơ sở kinh tế của
địa chủ phong kiến và tư sản mại bản đều bị quốc hữu
hóa không bồi thường" </em>. </div>
<center>***</center>
<center><h2>II - Trích bài "Thảo luận về dự thảo sửa đổi
Hiến pháp Việt Nam 1980" đăng tải ngày 8 tháng 01 năm
1992.</h2></center>
<div class="special_quote">Kính gửi: Ban soạn thảo sửa đổi Hiến
pháp.
Tôi là một trí thức ngoài Đảng, lại vốn chỉ làm khoa học
tự nhiên, không hiểu biết gì về hiến pháp học. Tuy nhiên,
sau khi đọc kỹ bản dự thảo sửa đổi hiến pháp 1980, tôi
thấy có một số ý kiến muốn được phát biểu, mong được
ban soạn thảo Hiến pháp tham khảo.
Sau đây là một số ý kiến cụ thể của tôi:
……….
<strong>5</strong>. Không nên lạm dụng cụm từ XHCN. Việc đưa ý
niệm <em>"Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản
XHCN"</em> làm cho Điều 76 vừa không xác định vừa mâu thuẫn
với một số điều khác. Thế nào là tài sản XHCN? Đối với
các di sản văn hóa, di tích lịch sử, các tài sản của các
thành phần kinh tế khác thì sao?
Ở Điều 13 chỉ cần ghi <em>"Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng
là bất khả xâm phạm"</em> là đủ. Không cần thêm cụm từ
XHCN vào sau tổ quốc Việt Nam.
<strong>6</strong>. Vấn đề hệ thống tư pháp thuộc cơ quan
quyền lực nào và chế độ thẩm phán bầu hay bổ nhiệm là
rất quan trọng, bởi vậy không nên để lửng như Điều 129:
<em>"Chế độ bổ nhiệm và nhiệm kỳ của thẩm phán, chế
độ bầu và nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân ở tòa án nhân
dân các cấp do luật định"</em>.
Để bảo đảm tính độc lập tương đối cho quyền tư pháp,
cần có Hội đồng Tư pháp Tối cao. Hội đồng này cử ra
những thẩm phán xét xử và công tố viên. Cũng cần đổi
Viện Kiểm sát Nhân dân hiện nay thành Viện Công tố có chức
năng kiểm soát các hoạt động của các cơ quan hành pháp và
có quyền khởi tố, cáo trạng và kháng nghị.
Dù vẫn muốn duy trì chế độ trung ương tập quyền thì ta
vẫn phải hết sức cố gắng tổ chức nhà nước sao cho nguyên
tắc quyền lực ngăn trở quyền lực được bảo đảm. Thực
tế là hiện nay tình trạng quan liêu và tham nhũng trong bộ máy
nhà nước ở ta còn tệ hại hơn những năm trước và hơn rất
nhiều nước trên thế giới. Nạn Ma-phia cũng hình thành rộng
rãi và có nguy cơ phát triển ghê gớm. Các cấp chính quyền có
xu hướng hoạt động vì chính quyền hơn là vì nhân dân. Nếu
các nhà lãnh đạo không tỉnh táo nhìn thẳng vào sự thật
một cách khách quan, hoặc vì quá say sưa tự hào với thành
tích hoặc quá nhấn mạnh đến yêu cầu ổn định chính trị
mà không tổ chức việc kiểm tra và kiểm soát một cách nghiêm
túc, xuê xoa cho nhau, bỏ mặc quần chúng, thì khả năng phân
hóa (không phải chỉ về kinh tế mà cả về xã hội, chính
trị) sẽ diễn ra rất mạnh mẽ. Không thể không cảnh giác
đề phòng nguy cơ suy yếu trường cửu và thậm chí dẫn đến
tan rã.
<strong>7</strong>. Nên bỏ hai chữ <em>"nhất thiết"</em> trong câu
<em>"ngoài thủ tướng các thành viên khác của chính phủ không
nhất thiết phải là đại biểu quốc hội"</em> (Điều 107).
Muốn có sự phân biệt tương đối rõ giữa quyền lập pháp
và hành pháp thì đại biểu quốc hội không nên kiêm nhiệm
những chức vụ lãnh đạo trong hệ thống hành pháp và tư
pháp.
Vả chăng từ khóa tới, đại biểu quốc hội cần hoạt động
thực sự, nên phải dành thời giờ thỏa đáng cho công việc
của quốc hội, không còn đủ thời gian và tâm trí để làm
việc của chính phủ.
<strong>8</strong>. Vấn đề đồng bào ta định cư ở nước
ngoài phải được xem là một trong những vấn đề lớn của
quốc gia, của dân tộc. Cần đặt vào đây những nhiệm vụ
chiến lược và đưa vào phạm trù của những quốc sách.
Đồng bào ta đã ra đi từ năm 1975 và lại đang ra đi từ khi
Đông Âu tan rã và Liên Xô sụp đổ. Bởi vậy, vấn đề này
đã và đang phát sinh và phát triển rất mới lạ. Muốn hạn
chế sự xuất hiện của các lực lượng chống đối, đồng
thời tranh thủ sức đóng góp to lớn của những cộng đồng
người Việt Nam này, cần quan tâm thực sự đến họ với tấm
lòng ưu ái của máu mủ ruột thịt. Cần tỏ ra rằng chúng ta
vẫn xem cộng đồng những người Việt Nam ở nước ngoài là
một bộ phận của nhân dân Việt Nam.
Đề nghị tách Điều 5 Chương 1 thành hai điều. Một trong hai
điều đó sẽ được ghi là:
"Nhà nước Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân
tộc cùng chung sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực
hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các
dân tộc. Nhà nước tạo điều kiện để người Việt Nam
định cư ở nước ngoài giữ quan hệ với gia đình, quê
hương, được giữ quốc tịch Việt Nam và được trở về tái
định cư trên đất nước Việt Nam khi có nguyện vọng".</div>
<center>***</center>
<h2><center>III - Trích bài "Sửa đổi Hiến pháp Việt Nam là
yêu cầu bức thiết" đăng tải ngày 20 tháng 11 năm 2007 (Bài
này viết chung với luật sư Trần Lâm)</center></h2>
<div class="special_quote">
…… Điều 4 dẫm đạp lên nhiều điều khác trong chính bản
Hiến pháp 1992:
<strong>1</strong> - Đối với Điều 2 – Điều 2 ghi : "Nhà
nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHXN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân"
Điều 2 xác định Việt Nam là một nước dân chủ theo định
nghĩa của tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln: "Một quốc gia
dân chủ là một quốc gia mà chính quyền của dân, do dân, vì
dân". Điều 4 khẳng định "Đảng CSVN là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội". Vậy tức là đảng chủ, là
chính quyền của Đảng, dân của Đảng, dân phải vì Đảng.
Rõ ràng Điều 4 chống lại Điều 2.
<strong>2</strong> - Đối với Điều 15 – Điều 15 ghi: "Nhà
nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị
trường …" trong khi Điều 4 ghi: "Đảng CSVN theo chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ….".
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trinh
độ cao trong khi chủ nghĩa Mác nói chung không thừa nhận kinh
tế hàng hóa và chủ trương xoá bỏ sở hữu tư nhân. Rõ ràng
Điều 15 "bất đồng chính kiến" với Điều 4.
<strong>3</strong> - Điều 17 ghi: "Phát huy mọi năng lực sản
xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh
tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài … ".
Điều 21 ghi: <em>"Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản
tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh,
được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô
hoạt động …"</em>.
Cùng với Điều 15, hai điều này không thể thích nghi Điều 4,
hoặc là Điều 4 là cái cùm gông xiềng ba điều 15, 17, 21.
<strong>4 </strong>- Đối với Điều 83 – Điếu 83 ghi:
<em>"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCNVN"</em>. Thế là,
Điều 83 cùng với Điều 2 hoàn toàn phủ định Điều 4, hoặc
là Điều 4 chống lại Điều 2 và Điếu 83.
<strong> 5</strong> - Đối với Điều 101 – Điều 101 quy
định: quyền hạn của Chủ tịch nước: <em>"Chủ tịch
Nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCNVN
về đối nội và đối ngoại"</em> trong khi Điều 4 xác định
đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Hai
điều này chồng chéo dẫm đạp lên nhau, nói khác đi, cũng
chống nhau.
..V.v …
<strong>B - Điều 4 biểu hiện Đảng toàn trị chứ không phải
Đảng lãnh đạo</strong>
<strong>1</strong> – Khi đặt ra Điều 4, Đảng chỉ nhìn thấy
mặt lợi là dựa vào đấy để giữ <em>"ổn định chính
trị"</em>, củng cố vị trí độc tôn, vĩnh viễn của Đảng.
Song, mấy chục năm qua, thực tiến đã trả lời: Điều 4 đã
làm tha hóa Đảng rất tai hại. Không ai, kể cả những người
cầm đầu Đảng, không dễ dàng nhận rõ được rằng Đảng ta
đã và đang suy thoái trầm trọng.
Đảng suy thoái như thế nào? ở điểm nào? ở đâu? người ta
đã nói quá nhiều, thiết tưởng không cần nhắc lại ở đây.
Nhưng có thể khái quát là tín nhiệm của Đảng đã sa sút,
nội bộ Đảng đã bị lũng đoạn, sức mạnh Đảng đã suy
giảm đến mức báo động. Biết bao nhiêu nan đề: giao thông
ách tắc, môi trường hủy hoại, giầu nghèo doãng xa, tham nhũng
tệ hai, văn hóa suy đồi …! Điều 4 có trách nhiệm gì ở
đây? Đảng toàn trị có phải là nguyên nhân?
<strong>2</strong> - Đảng toàn trị làm Đảng suy yếu. Tác động
của Đảng làm nẩy sinh tiêu cực trong nhân dân. Sự thờ ơ,
vô cảm, vô trách nhiệm … là các tệ đoan tầm thấp. Cao hơn
là chà đạp lên văn hóa dân tộc, gian dối lừa đảo, bức
hại người lành, tội phạm tràn lan …. Đảng khống chế và
chi phối xã hội. Đảng suy thoái làm cho xã hội suy thoái.
Đấy là hậu quả tai hại của đảng toàn trị do Điều 4 gây
ra.
Điều 4 nguy hại như vậy, cho nên đặt vấn đề xem xét,
nghiên cứu, giải tỏa Điều 4 là điều cần làm và cần làm
ngay.
Giải tỏa Điêu 4 là vấn đề hệ trọng, bao trùm lên tất
cả. Bởi vậy nó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân thực sự đề
cao tinh thần trách nhiệm vì nhân dân, vì Tổ quốc mà dám
nghĩ, dám nói, dám làm, dám dũng cảm đương đầu.
……Dứt khoát gạt bỏ Điêu 4 Hiến pháp 1992 khỏi Hiến pháp
mới hoặc Hiến pháp sửa đổi. Gạt bỏ Điều 4 chính là
phương sách cứu chữa và vực đảng CSVN dậy.
Tuyên bố: <em>"Đảng ta bỏ Điều 4 là tự sát"</em> phải
chăng là câu gở miệng. Hãy nhớ, ngày 20 tháng 11 năm 1989 trong
cuộc họp Bộ Chính trị đảng Cộng sản Liên Xô, ông Michail
Gorbachev vừa gióng dả: <em>"Phải giữ cho được điều 6
Hiến pháp (tương tự Điều 4 của Việt Nam), đó không phải
là tình trạng cứu hỏa và cũng không phải là tình trạng
đặc biệt"</em>. Oái oăm thay, đấy lại chính là <em>"Tiếng
chuông nguyện hồn ai"</em> bi thảm, cáo chung đảng Cộng sản
Liên Xô liền ngay sau đó. Đó là gương tầy liếp buộc người
có trách nhiệm ở Việt Nam phải cảnh tỉnh.
Một lần nữa, chúng tôi xin nhắc lại, hãy kíp thời hủy bỏ
Điều 4 Hiến pháp, làm cơ sở hủy bỏ Điều 88 Bộ Luật hình
sự, nhằm giúp đảng CSVN còn có cơ tồn tại và ra sức vươn
lên đặng sánh vai cùng các đảng khác trong một chế độ dân
chủ đa nguyên, đa đảng, ngõ hầu xây dựng được một nước
Việt Nam mạnh giầu, nhân dân được hưởng tự do, hạnh
phúc'. </div>
Sửa đổi Hiến pháp là <em>'công việc đặc biệt hệ
trọng'</em> cho nên phải sửa đổi cho đúng. Muốn sửa đổi
đúng thì không chỉ bàn bạc trong nội bộ lãnh đạo mà phải
thực sự tôn trọng ý kiến công chúng, đặc biệt là ý kiến
của những trí thức vừa có tâm vừa có tầm như trên đây.
Bây giờ đọc lại mới thấy những ý kiến mà tiến sỹ
Nguyễn Thanh Giang đã nêu cách đây hàng chục năm bị bỏ qua
thì nay ta mới càng thấm hiểu được tính đúng đắn đáng
nhẽ phải được tiếp nhận từ lâu.
Phải làm theo yêu cầu TBT nêu lên là tất cả <em>'những vấn
đề thực sự cần thiết, được thực tiễn chứng minh là
đúng'</em> thì nhất định phải sửa chứ không thể bị ràng
buộc bởi sự chỉ đạo vô lý của ông rằng '<em>quyền lực
nhà nước là thống nhất'</em> và sẽ không có chuyện tam
quyền phân lập ở Việt Nam.
Hãy lưu ý lời phàn nàn (được chứng minh rất cụ thể) của
tiến sỹ Địa Vật lý Nguyễn Thanh Giang về sự thụt lùi của
các Hiến pháp về sau so với Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quyết tâm sửa đổi làm sao
để ta có một bản Hiến pháp ít ra cũng tiến bộ được như
Hiến pháp 1946
<strong>Phạm Quế Dương</strong>
37 Lý Nam Đế
Điện thoại: (04) 62 700 002
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12566), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét