Trương Nhân Tuấn - Đôi điều xin thưa với Thứ Trưởng Đặng Hùng Võ

<div class="special_quote"><strong>Tin liên quan:</strong>

<ul>
<li><a
href="http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/473467/UBND-huyen-Tien-Lang-co-nhieu-cai-sai.html">Nguyên
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường Đặng Hùng Võ:

UBND huyện Tiên Lãng có nhiều cái sai</a></li>
</ul></div>

Cựu thứ trưởng Đặng Hùng Võ vừa lên tiếng về vụ Đoàn
Văn Vươn trên báo Tuổi Trẻ hôm qua là một điều đáng mừng.
Ý kiến của ông Võ dễ thuyết phục vì không dựa lên tình
cảm mà dựa lên luật lệ nhà nước. Hy vọng các cơ quan hữu
trách theo tinh thần của Thứ trưởng Đặng Hùng Võ để giải
quyết thỏa đáng vấn đề này. Tuy vậy, các ý kiến của ông
Võ, trên phương diện kỹ thuật, theo tôi vẫn có một vài lấn
cấn, không phải do kiến thức, mà đến từ «cơ chế» của
nhà nước. Tôi nghĩ rằng luật lệ áp dụng cho trường hợp
«thâu hồi đất» của ông Vươn có một số điều mâu thuẫn,
nhất là các điểm về thể lệ giao đất, diện tích tối đa
đất được giao, thời hạn được sử dụng đất, phương
thức thâu hồi đất... Ngoài ra còn có những mâu thuẫn giữa
tính công bằng của xã hội chủ nghĩa với quyền tư hữu của
kinh tế thị trường, hoặc giữa «tư điền» là tập tục
ngàn năm của dân tộc Việt với «sở hữu đất đai thuộc
về toàn dân» của chủ nghĩa xã hội. Nếu đúng như tôi nghĩ,
trường hợp cá biệt của Đoàn Văn Vươn, nếu chỉ dựa hoàn
toàn trên pháp luật (mà pháp luật có điều không ổn) thì
việc giải quyết chắc chắn sẽ gây nên những điều oan ức.
Việc nổ súng đáng tiếc trong khi giải tỏa đất đã nói
trước việc này. Hy vọng ông Võ (hay người có thẩm quyền
khác) sẽ lên tiếng giải thích. Các thắc mắc của tôi gồm
các điểm:

<strong>1/ Phân loại khu vực đất:</strong>

Thứ trưởng Đặng Hùng Võ nhận xét: «theo Luật đất đai năm
1993, cụ thể là theo nghị định 64 về việc giao đất sản
xuất đối với đối tượng ở đây là giao đất sản xuất
trồng cây hằng năm, nuôi trồng thủy sản, làm muối...»
Tôi nghĩ khác. Khu vực gọi là «đất» mà ông Vươn sử dụng
từ năm 1993 không thuộc vào bất kỳ một loại «đất» nào
đã được qui định theo điều 11 bộ Luật đất đai năm 1993
hay điều 13 bộ Luật đất đai năm 2003.

<div class="boxright200"><img
src="http://danluan.org/files/u23/danluan00034.jpg" /><div
class="textholder">Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường
Đặng Hùng Võ</div></div>

Thật vậy, trước khi «khu vực đất» này được giao cho ông
Vươn thì nó không thể gọi là «đất» để «trồng cây hàng
năm», cũng không thể gọi đơn thuần là «đầm» để «nuôi
trồng thủy sản», và nó cũng không thể sử dụng vào việc
«làm muối» như Thứ Trưởng Võ đã nói. Nếu chiếu theo Luật
Hồng Đức thì khu vực này không thuộc diện "điền" (không
thể trồng trọt hay làm muối – diêm điền), cũng không thuộc
diện «thổ» (không thể định cư), và cũng không thuộc diện
«trạch» (không thể nuôi cá).

Đây là một khu vực đất đang bồi, thường xuyên ngập nước
biển và hàng năm chịu nhiều thiên tai bão lụt. Theo luật của
các (nước Tây phương) hay Luật về thổ trạch ở Việt Nam
các thời kỳ trước, vì lý do an ninh, các vùng đất này không
được nhà nước cấp cho dân, hay không khuyến khích cho dân
khai hoang, vỡ hóa... nhằm định cư hay khai thác kinh tế.

Vấn đề đặt ra, theo pháp luật, nhà nước có thể cấp cho
ông Vươn khai thác «khu vực đất» đó hay không? Nhà nước có
trách nhiệm gì nếu tai nạn do thiên tai (bão, lụt) đổ xuống

<strong>2/ Tính không hợp lý của việc thâu hồi đất trong bộ
Luật về đất đai.</strong>

Nhưng « khu vực đất » này vẫn được chính quyền địa
phương Hải Phòng cấp cho ông Vươn khai thác, bất chấp những
hiểm nguy có thể gây ra cho cá nhân và gia đình ông Vươn.

Để biến khu vực «đất không thể sinh sống» thành một khu
vực xếp vào hạng «điền trạch» (tức vừa định cư vừa
nuôi thủy sản), ông Vươn đã sử dụng kiến thức kỹ sư
của mình để làm các việc sau:

a) Đắp một con đê dài 2 cây số để ngăn lũ lụt, (con đê
này đem lại lợi ích cho nhiều gia đình lân cận, chứ không
hẳn cho cá nhân ông Vươn)

b) Trồng cây vẹt để giữ đất bồi đồng thời để che bão

c) Đổ đất, cát, đá... làm nền

Làm các công trình (a) và (b) ông Vươn đã biến một vùng bờ
biển hiểm nguy thành một cái «trạch» (đầm nước) có an
ninh. Công trình (c) biến một góc «trạch» thành «điền»
(đất trồng trọt) và «thổ» (đất xây cất). Sau 17 năm gầy
dựng, ông Vươn đã tạo ra một «khu vực điền - thổ -
trạch» có diện tích là 40 ha. Điều đáng chú ý là khu vực
này, theo lời dân sống ở đó, trước khi giao cho ông Vươn,
«nhà nước không dám khai phá».

Nhà nước thâu hồi đất này dựa trên điều 6 Luật đất đai
2003, theo qui định khoản đ) «chuyển mục đích sử dụng
đất» hay các điều qui định ở mục

<em>4. Dĩ nhiên nhà nước có quyền, theo Hiến pháp và Luật,
nhưng thử đặt giả thuyết:</em>

nếu «khu vực đất» đó không giao cho ông Vươn, tức vẫn
còn là một vùng đầm lầy phủ sóng và luôn chịu gió bão,
liệu nhà nước có qui hoạch hay lên kế hoạch sử dụng khu
vực này hay không?

Nếu câu trả lời là «không» thì không có lý do gì nhà nước
hôm nay lại thâu hồi khu vực đất ấy.

Trong khi điều 12 qui định: Nhà nước có chính sách khuyến
khích người sử dụng đất đầu tư lao động, vật tư, tiền
vốn và áp dụng thành tựu khoa học và công nghệ để «Khai
hoang, phục hoá, lấn biển, đưa diện tích đất trống, đồi
núi trọc, đất có mặt nước hoang hoá vào sử dụng» (khoản
1)-

Ông Vươn đã tin tưởng vào điều luật đó, đã đem kiến
thức khoa học, tiền vốn và công sức để làm các điều mà
nhà nước khuyến khích.

Vậy mà nhà nước đã có quyết định thâu hồi (trong khi thời
hạn sử dụng chưa mãn).

Người ta không thể vừa «khuyến khích» vừa « thâu hồi ».
Ở đây «khuyến khích» có nghĩa là cho làm, «thâu hồi» có
nghĩa là không cho làm. Mâu thuẫn ở đây khá rõ rệt. Việc
này làm mất niềm tin của dân chúng vào nhà nước và luật
của nhà nước?

<strong>3/ Về diện tích sử dụng đất và thời hạn sử
dụng:</strong>

Thứ trưởng Võ nói rằng «thời hạn giao đất được Luật
đất đai quy định là 20 năm.»... «Luật quy định hạn mức
được giao đối với một hộ gia đình cá nhân không được
vượt quá 2ha»

Về diện tích đất được giao. Khu vực đất của ông Vươn
tạo nên là do công sức của ông và gia đình trong việc đắp
con đê dài 2km để ngăn lũ và trồng các hàng cây vẹt để
giữ đất. Đất của ông Vươn tân tạo được tính từ con
đê chận lũ.

Đặt giả thuyết, nếu nhà nước lúc đầu đã qui định ông
Vươn chỉ được giao 2 ha đất, thì chắc chắn ông Vươn sẽ
không nhận. Vì nhận cũng không làm được gì! Muốn cải tạo
đất thì phải làm con đê chận lũ và trồng vẹt giữ đất
bồi. Tức là, hoặc ông Vươn tân tạo được 40 ha đất thổ
trạch, hoặc không tạo ra khoảnh đất nào cả. Không ai bỏ
công sức làm con đê, trồng rừng vẹt để nhận 2 ha, ngoại
trừ việc nhà nước bỏ công để làm (như trường hợp
Nguyễn Công Trứ ở huyện Tiền Hải, sẽ nói bên dưới).

Ông Vươn đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất lần đầu vì thế thuộc diện người đang sử
dụng đất ổn định (điều 4 phần 3), như vậy đã 17 năm qua.

Qui định ông Vươn chỉ có 2 ha sử dụng là mâu thuẫn với
thực tế. Thực tế ở đây là nhà nước hàm ý công nhận
quyền sử dụng của ông Vươn trên toàn vùng đất mà ông này
khai thác. Trong 17 năm nhà nước không phản đối, thì nhà
nước đã chấp nhận thực tế đó.

Nhà nước, qua cơ quan tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý.
Nếu hôm nay nhà nước nói ngược lại, thì còn đâu là công
lý?

Về thời hạn được sử dụng đất, theo tôi cũng không thể
áp dụng trong trường hợp của ông Vươn. Bởi vì, trong 17 năm
sử dụng, thời gian cải tạo khu vực đất không thể không
chiết tính ra. Mặt khác, ông Vươn đã đầu tư rất nhiều
công và của. Huê lợi thâu từ việc sử dụng đất vẫn chưa
trả hết nợ.

Khu vực sinh sống của ông Vươn đã được qui định theo
điều 66, khoản 2,3 và 4, là «đất sử dụng ổn định lâu
dài». Mặt khác, điều 67 về thời hạn sử dụng đất, cho
phép sử dụng đến 50 năm ở các loại cây trồng lâu dài.
Trường hợp của ông Vươn thì luật không qui định, nhưng về
tính hợp lý, cũng phải để cho ông Vươn sử dụng ít ra 50
năm. Với thời hiệu này ông Vươn mới có thể thâu được
huê lợi tương xứng với công lao, của cải mà ông đã đổ
xuống.

Nhà nước không thể vịn vào bất kỳ lý cớ gì để thâu
hồi đất này của ông Vươn, như đã nói ở phần 2. Vì nó
không công bằng. Nếu đất đó để yên, không có ông Vươn ra
sức cải tạo, thì không thể đưa vào sử dụng.

Ngày xưa, sẽ nói bên dưới, vua chúa có toàn quyền trên số
phận của mỗi thần dân, nhưng cũng không có các hành vi bạo
ngược trưng thâu đất tư điền một cách tự tiện. Huống chi
ngày hôm nay, chế độ xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc là đem
công bằng cho mọi người trong xã hội. Mà nguyên tắc của
công bằng là, trước khi bảo vệ quyền sử dụng đất của
mỗi người, thì phải tôn trọng đúng mức quyền sử dụng
đất (thời hiệu sử dụng) của từng cá nhân.

Như vậy còn đâu tính công bằng của XHCN do hiến pháp qui
định mà nhà nước phải thực thi?

<strong>4/ Về «tư điền» và sở hữu toàn dân:</strong>

Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, một tập tục ngàn
năm của Việt Nam được lưu truyền từ đời này sang đời
kia, đến trước thời xã hội chủ nghĩa:

<em>«Nếu có người tự đem sức lực của mình khai khẩn
những nơi rừng rú bỏ hoang, khi đã thành điền phải khai rõ,
liền cho phép coi như là "bản bức tư điền". Chỉ nhà nước
mới có quyền thu thóc tô, còn dân xã không được tranh ruộng
tư ấy. Cái lệ ấy thành ra vĩnh viễn.»</em>

Tức đất hoang mà người dân bỏ công khai phá, như trường
hợp ông Vươn, sẽ thuộc vào loại «bản bức tư điền»,
tức sẽ trở thành ruộng riêng của ông Vươn (và con cháu sau
này của ông).

Một trường hợp khai khẩn đất hoang ở nước ta, vào đầu
thế kỷ 19, cần nhắc ở đây, là việc thành lập huyện Tiền
Hải ở Nam Định của cụ Nguyễn Công Trứ. Huyện Tiền Hải
trước kia vốn là một bãi đất bồi (bãi Tiền Châu), việc
khai khẩn gọi là «doanh điền», do cụ Nguyễn Công Trứ
hướng dẫn với sự ủng hộ của triều đình qua việc giúp
đỡ tiền bạc và dụng cụ khai phá. Những người dân khai
khẩn vùng đất mới bồi này, phần lớn được làm chủ các
khoản đất do dọ tạo ra (gọi là tư điền) và có bổn phận
đóng thuế cho nhà nước.

Dưới thời thực dân cũng thế, người dân nào khai khẩn đất
hoang thì đất đó thuộc quyền sở hữu của người đó. Trong
khi đó, chính quyền thực dân đã giúp đào kinh chằn chịt
khắp nơi để cho dân xả nước phèn, biến một vùng đất
phèn, đồng chua thành một kho lúa gạo to lớn của miền Nam
hiện nay. Dưới thời Mỹ xâm lược, chế độ tay sai bán
nước Mỹ - Diệm, họ cũng tổ chức các khu «doanh điền»,
lập «đồn điền» ở Tây Nguyên, khuyến khích dân khai khẩn
đất hoang, giúp tiền bạc, xây cất nhà cửa cho dân định cư.
Tất cả đất khẩn hoang cũng như nhà cửa đều thuộc quyền
sở hữu vĩnh viễn của người dân.

Trong khi dưới thời XHCN, đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
nhưng lại do nhà nước quản lý.

Trường hợp khai khẩn «khu vực đất» của ông Vươn thì
không hề được sự giúp đỡ của nhà nước xã hội chủ
nghĩa như trường hợp đất doanh điền ở Tiền Hải, đất
khẩn hoang ở Nam bộ hay đất doanh điền, đồn điền ở Tây
nguyên.

Nếu thời trước các nhà nước phong kiến, thực dân hay tay sai
bán nước Mỹ Ngụy không trưng thâu đất, mặc dầu việc khai
khẩn là có sự trợ giúp của nhà nước về tài chánh và công
cụ, thì hôm nay, nhà nước không hề giúp điều gì cho ông
Vươn, thì tại sao lại thâu hồi?

Các qui định của xã hội chủ nghĩa có đi ngược lại đạo
lý giống nòi hay không?

<strong>5/ Thủ tục thâu hồi đất, mâu thuẫn giữa XHCN và kinh
tế thị trường:</strong>

Như đã nói ở điều 2, việc khai khẩn của ông Vươn là một
«công trình», gồm nhiều phần: con đê dài 2km, rừng vẹt,
đầm nuôi cá, đất trồng trọt và đất xây dựng nhà cửa.
Ngoài chi phí vật chất như tiền của, sức lao động, công
trình này bao gồm hai thành quả: vật chất và trí tuệ.

Ông Vươn là một kỹ sư. Nếu công trình này không có đóng
góp của kiến thức khoa học và việc đầu tư suy nghĩ lâu dài
thì khu đất này sẽ không bao giờ được thành tựu như thế.
Nếu giao đất cho tay ngang, người này chưa chắc sẽ hình hung
ra việc đóng cừ xây đê hay trồng cây vẹt để giữ đất,
đó là chưa nói đến việc phải định hướng con đê như thế
nào, trồng cây vẹt ra làm sao để khỏi bị sóng đập tan và
giữ được đất. Tức công trình đó còn là một công trình
của trí tuệ.

Theo hiến pháp và luật định, đất đai sở hữu của toàn
dân, do nhà nước quản lý. Nhưng vì có nền «kinh tế thị
trường» và gia nhập WTO, do đó nhà nước Việt Nam phải tôn
trọng các luật lệ do WTO qui định, (theo điều 3 khoản 2 bộ
Luật đất đai 2003) trong đó có điều luật phải tôn trọng
quyền sở hữu tài sản cũng như sở hữu trí tuệ của tư
nhân.

Nhà nước có thể thâu hồi đất mà bỏ qua quyền sở hữu
trí tuệ cùng sở hữu tài sản của ông Vươn? Không giải
quyết ổn thỏa là tạo ra sự xung đột giữa hai bộ luật
(luật quốc tế và luật quốc gia) mà theo lẽ Việt Nam phải
đặt luật quốc tế lên trên.

Mâu thuẫn ở đây là mâu thuẫn của nền «kinh tế thị
trường» với định hướng «xã hội chủ nghĩa».

Nhưng sự mâu thuẫn này đã tạo ra tại Việt Nam một tầng
lớp giàu mới do kinh doanh về đất đai. Con số này chiếm
đến 40%. Như thế, việc này gián tiếp tạo cho Việt Nam một
nền kinh tế què quặt, do việc tư bản nội địa không đầu
tư vào kinh doanh hay sản xuất mà đầu tư vào một ngành không
tạo ra công ăn việc làm hay của cải vật chất cho xã hội.
Nó chỉ mở một môi trường tốt đẹp tại Việt Nam cho hàng
hóa dỏm của Trung Quốc vào thống lĩnh thị trường.

<strong>6/ Kết luận:</strong>

Đôi điều với Thứ Trưởng Võ như thế. Theo tôi, về pháp
luật, nếu có sự mâu thuẫn (như đã dẫn ra) thì ánh sáng
công lý sẽ không bao giờ rọi dến các nơi tối tăm, ở các
vùng sâu, xa, như ở xã Vinh Quang, huyện Tiên lãng, tỉnh Hải
Phòng. Việc lên tiếng của ông Võ là một điều tốt, vì nó
rất cần thiết cho việc xét xử ông Vươn. Nhưng ở những mâu
thuẩn giữa đạo lý giống nòi với đạo lý xã hội chủ
nghĩa hay giữa kinh tế XHCN và kinh tế thị trường thì cần
điều chỉnh lại. Xã hội chủ nghĩa trên nền tảng Mác Lê
đã đi vào quá khứ, do tính lỗi thời của nó. Nếu Việt Nam
tiếp tục kéo dài, tầng lớp dân oan ngày càng lớn, các nỗi
bất bình sẽ có ngày bùng nổ, trong khi lớp cường hào ác bá
đỏ sẽ có môi trường tốt để hoành hành.

Hy vọng nhiều người khác cũng sẽ lên tiếng như Thứ trưởng
Võ. Đó cũng là việc công ích cho xã hội.

<strong>Trương Nhân Tuấn</strong>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11289), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét