là một trong những sự kiện nổi bật năm 2011. Bản thân anh
từng nhận một bản án tù chính trị năm 2003. Tám năm giữa
hai vụ án, anh thấy có những thay đổi gì trong cách mà chính
quyền Việt Nam đối xử với những người bất đồng chính
kiến?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Trước tiên xin được nói rõ
lại một chi tiết nhỏ: trên văn bản chính thức thì bản án
năm 2003 dành cho tôi (và cả bản án dành cho anh Cù Huy Hà Vũ
vừa qua) không được coi là án chính trị, mặc dù trong mọi
giao tiếp của quá trình tố tụng và thi hành án thì các nhân
viên công quyền đều thừa nhận vụ việc của tôi là vụ án
chính trị. Vâng, thế là đã tám năm rồi. Nhưng so sánh một
cách tổng quát và cơ bản thì tôi không thấy có sự thay đổi
gì trong cách chính quyền đối xử với những người bất
đồng chính kiến. Mặc dù hai vụ án khác nhau hoàn toàn, như
nguồn gốc xuất thân và cách lên tiếng phê phán chính quyền
của anh Cù Huy Hà Vũ và tôi, cách tạo lý cớ, qui chụp, trấn
áp của chính quyền, v.v. nhưng tinh thần tôn trọng pháp luật
và khả năng dung thứ với chỉ trích, quan điểm khác biệt
của chính quyền thì vẫn gần như không thay đổi. Hay nói cách
khác, chính quyền vẫn giữ nguyên một cách ứng xử, đã thấy
có từ năm 1954 đến nay, là phải dùng mọi cách, kể cả
những cách phi pháp và thiếu đạo lý để hạn chế, vô hiệu
hóa ảnh hưởng đối với xã hội của những người có quan
điểm khác biệt với Đảng.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Nhưng trong những năm qua,
Việt Nam đã đầu tư không nhỏ vào việc xây dựng và cải
cách hệ thống luật pháp thuộc nhiều lĩnh vực.</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Vâng, trong tám năm đó nhà nước
Việt Nam đã thực hiện những „cải cách tư pháp" do chính
ông Chủ tịch nước chỉ đạo và đã có những thay đổi về
khung pháp luật hình sự, đó là Luật Tố tụng Hình sự đã
được làm mới (vào cuối năm 2003) và Luật Hình sự đã
được bổ sung và sửa đổi (vào năm 2009). Nhưng vụ án CHHV
đã cho thấy những vấn đề cơ bản nhất để đảm bảo xác
định được sự thật, bảo vệ được công lý, như Viện
Kiểm sát phải kiểm tra, giám sát để đảm bảo cơ quan điều
tra phải thực thi đúng pháp luật, xét xử phải được công
khai theo nghĩa mọi người phải được tự do tham dự, việc
kết án phải dựa trên sự tranh tụng giữa hai bên (bên cáo
buộc và bên bị cáo buộc), báo chí (chính thống) phải tuân
thủ tính độc lập, trung thực, công bằng…, vẫn y nguyên như
cách đây tám năm, vẫn bị chính các cơ quan tố tụng từ
chối thực hiện hoặc xâm phạm. Thậm chí các cơ quan này còn
bất chấp, coi thường pháp luật, lý lẽ đến mức có những
biểu hiện rất cẩu thả, kỳ cục. Chẳng hạn, trong phiên tòa
sơ thẩm cách đây tám năm trong vụ án của tôi, ông thẩm phán
chủ tọa Hội đồng xét xử đã chất vấn tôi về một bức
thư điện tử có ngày gửi sau khi tôi đã bị đưa vào nhà tù
rồi. Khi tôi nhắc chi tiết vô lý đó thì cả Hội đồng xét
xử đều im lặng, rồi tôi thấy họ nháy nhau và chuyển luôn
qua vấn đề khác. Thế mà tám năm sau lại vẫn xảy ra một
việc tương tự trong vụ án CHHV, đó là Hội đồng xét xử
của phiên tòa phúc thẩm đã dám khẳng định một cách hết
sức cẩu thả rằng Điều 88 Luật Hình sự Việt Nam là sự
cụ thể hóa Điều 19 của Công ước Quốc tế về các quyền
Dân sự và Chính trị. Đó là những vấn đề có tính chính
danh và cơ bản về luật. Còn về những ứng xử khác có tính
chất ngoài tố tụng, trong vụ án CHHV tôi vẫn thấy chính
quyền sử dụng nhiều cách như cách đây tám năm, dĩ nhiên
với qui mô rộng và mức độ mạnh hơn nhiều, như đe dọa
trực tiếp hoặc gián tiếp người nhà, dùng truyền thông để
bôi nhọ đối tượng, tung tin thất thiệt nhằm gây hoang mang,
ngăn chặn sự ủng hộ đối với người bất đồng chính
kiến. Đó là những điều tôi thấy không hề thay đổi, đáng
tiếc đó lại là những vấn đề cơ bản nhất cho việc bảo
vệ công lý, sự thật.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Về thủ tục tố tụng cụ
thể, anh không thấy một tiến bộ đáng kể nào trong vụ án
Cù Huy Hà Vũ?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Những thay đổi theo xu hướng
tiến bộ trong vụ án CHHV, rất tiếc lại chủ yếu mang tính
hình thức hoặc không cơ bản. Ví dụ, giai đoạn điều tra
trong vụ án CHHV đã được kết thúc rất nhanh (trong khoảng 1
tháng). Ở các vụ án tương tự trước đây, giai đoạn điều
tra thường kéo dài khoảng 1 năm. Trong vụ án CHHV luật sư
được gặp bị cáo nhiều hơn và thông tin được trao đổi
cởi mở hơn. Nhưng cũng xin lưu ý rằng gần như đồng thời
với vụ án CHHV, ở những vụ án chính trị khác, như anh
Nguyễn Văn Hải Điếu Cày và nhiều người khác vẫn không
được hưởng những tiến bộ có tính hình thức hay không cơ
bản đó. Nhưng chúng ta không nên ngạc nhiên về những điều
đó. Theo tôi, chừng nào hệ thống chính trị độc đảng còn
tồn tại, chừng nào chưa có báo chí tự do, chừng nào chưa có
các cơ quan giám sát độc lập thì những vấn đề về công
lý, tố tụng vẫn sẽ tiếp tục như thế, những thay đổi có
chăng chỉ là những biến tướng hình thức và có tính đối
phó mà thôi.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Còn những thay đổi trong
việc xác định tội danh?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Về điểm này, theo tôi có thể
chính quyền đã có một sự thay đổi chiến lược trong tám
năm qua. Vào khoảng đầu năm 2000 trở về trước, tội danh
"gián điệp" (Điều 80 Luật Hình sự) rất hay được chính
quyền sử dụng để qui kết người bất đồng chính kiến.
Nhưng nay, tội danh đó gần như đã vắng bóng và thay vào đó
phần lớn là Điều 88 (Tội tuyên truyền chống Nhà nước
CHXHCN Việt Nam) hoặc Điều 258 (Tội lợi dụng các quyền tự
do, dân chủ).
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Anh từng bị kết án với
tội hoạt động gián điệp. Vì sao khi ấy tội danh đó được
ưa chuộng như vậy?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn: </strong>Theo tôi có hai lý do. Thứ nhất,
có thể tư duy của giới lãnh đạo khi đó vẫn còn mang nhiều
sự nghi kỵ "ta – địch" của thời chiến, thời cấm vận.
Thứ hai, có thể chính quyền muốn đưa ra một sự đe dọa
hữu hiệu để đối phó với một diễn tiến mới, tất yếu,
khi phải chấp nhận "mở cửa" với thế giới, đó là sự
giao lưu, quan hệ, trao đổi giữa người Việt ở trong nước
với người Việt ở ngoài nước và với bạn bè quốc tế.
Tội danh "gián điệp", như ta thấy, thường gợi nhiều yếu
tố mập mờ, bí hiểm, khó đoán định. Cùng với tâm lý nói
chung của xã hội (sau thời chiến) vẫn còn hoang mang, sợ sệt
khi quan hệ với người nước ngoài thì "gián điệp" có lẽ
là cái mũ hợp lý nhất để chụp cho những người bất đồng
chính kiến thời mới mở cửa. Nhưng có lẽ sau này, khi thấy
tội danh "gián điệp" cũng không thể ngăn cản được xu
thế trao đổi, giao lưu trong ngoài mà còn có thể gây bất lợi
trong quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây, gây lúng
túng cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đối phó với xu
thế ngày càng có nhiều các đảng viên trở thành phản tỉnh,
ủng hộ dân chủ. Chả lẽ một đảng "của dân tộc" mà
lại có nhiều đảng viên và con cái của đảng viên làm
"gián điệp" cho nước ngoài thế sao?! Và có thể khung hình
phạt của tội danh "gián điệp" khá cứng, không đủ độ
linh hoạt cho sự đối phó của chính quyền, nên việc qui tội
cho người bất đồng chính kiến đã được chuyển phổ biến
sang Điều 88. Nghĩa là, trong khoảng một thập niên qua, chính
quyền đã phải chuyển trọng tâm từ việc ngăn cản giao lưu,
trao đổi, quan hệ trong ngoài nước sang việc ngăn cản sự
hình thành, truyền bá thông tin độc lập trong xã hội.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Trước tòa, anh Cù Huy Hà Vũ
khẳng định mình không chống Đảng Cộng sản Việt Nam, không
chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Một số nhà bất đồng chính
kiến khác cũng xác định lập trường của mình tương tự như
vậy…</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Tôi cũng hoàn toàn đồng ý là
căn cứ vào pháp luật hiện hành và những gì anh CHHV đã biểu
hiện thì không thể kết tội anh CHHV có hành động chống
Đảng Cộng sản Việt Nam hay chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Nhưng xét rộng hơn nữa, ví dụ như dưới góc độ lợi ích
dân tộc, lợi ích quốc gia, thì <span class="underlined-text">ngay
cả khi chống lại một nhà nước cũng không thể có tội nếu
nhà nước đó đi ngược lại lợi ích dân tộc hoặc không
bảo vệ dân tộc, quốc gia trước sự xâm lấn, thôn tính của
ngoại bang</span>. Quan điểm riêng của cá nhân tôi và lịch sử
phát triển của loài người cũng đã chỉ ra là mọi thứ đều
có thể chống và nên chống nếu nó trở thành vật cản cho
tiến bộ xã hội. Và loài người đã tìm được ra một cách
thức "chống" rất văn minh và hiệu quả, có thể áp dụng
cho mọi vấn đề, đó là phản kháng ôn hòa, bất bạo động
(non-violent resistance).
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Nhưng với đa số người
Việt trong nước thì chống Đảng và Nhà nước đồng nghĩa
với phản bội quốc gia, dân tộc, chưa kể đồng nghĩa luôn
với phản bội nhân dân…</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Chính quyền Việt Nam từ năm 1954
đến nay ở miền Bắc và từ 1975 đến nay ở cả hai miền,
đã thành công trong việc ấn định tư duy cho phần lớn dân
chúng, trong đó có cả những người có học, có bằng cấp cao.
Thay cho tư duy độc lập thì người ta thường tư duy theo những
qui định ngầm, những gợi ý có tính khuôn phép, kể cả
những quan niệm rất vô lý và kỳ cục như chị vừa nêu, của
nhà cầm quyền. Nhiều người vẫn coi đảng cầm quyền và
chính quyền, nhà nước thời nay như những thế lực thần
thánh, bất khả xâm phạm, không dám đụng chạm đến, trong khi
không có pháp luật nào qui định như thế. Chính đó là một
trong những nguyên nhân khiến những sai phạm, hư hỏng, mục
ruỗng có tính quốc gia tiếp tục được duy trì và ngày càng
trở nên trầm trọng, bi ai như những gì chúng ta đang thấy.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Vụ án CHHV kéo theo một dư
luận có lẽ là sôi nổi nhất trong các vụ án chính trị từ
trước tới nay. Vai trò của dư luận ấy, theo anh, nên đánh
giá như thế nào?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Dư luận trong và ngoài nước
đối với vụ án này vẫn chia ra hai luồng chính: một phía
không ủng hộ (phản đối, phỉ báng, kết tội) Cù Huy Hà Vũ
và một phía ủng hộ (bênh vực, ca ngợi, tôn vinh). Phía không
ủng hộ gồm giới cầm quyền và thân chính quyền, những
người còn chưa tiếp cận được với các nguồn tin độc
lập, đa chiều và những người chưa hiểu được những quyền
cơ bản của con người. Ở phía này tuyệt đối không thấy có
những tiếng nói quốc tế. Phía ủng hộ có chung một đặc
điểm là hoàn toàn không hiện diện trên các phương tiện
truyền thông chính thống, nhưng đã trở thành một đối trọng
không thể coi thường, đã gây một ảnh hưởng khá quan trọng
tới vụ án. Nhiều người, trong đó có cả bản thân tôi, đã
rất băn khoăn và lo lắng khi nhận được tin anh Cù Huy Hà Vũ
bị bắt trong tình trạng rất nhạy cảm và trớ trêu, bị kèm
theo "hai bao cao su đã qua sử dụng". Nhưng những gì mà báo
chí phi nhà nước (blog, website, radio) của người Việt thể
hiện đã cho thấy dư luận tiến bộ nói chung, giới làm báo
phi nhà nước nói riêng, đã khá thận trọng nhưng vẫn rất
tự tin, quyết đoán để ủng hộ người yêu nước, người có
chí khí trên cơ sở pháp luật. Điều đó không có nghĩa là
đánh giá thấp vai trò của dư luận quốc tế hay xem nhẹ ảnh
hưởng từ các mối quan hệ ngoại giao với các nước phương
Tây. Nhưng phải thừa nhận một thực tế là quan hệ giữa
Việt Nam với các nước phương Tây năm 2011 không thuận lợi
cho những vận động quốc tế về tôn trọng nhân quyền bằng
những năm đầu năm 2000 (khi Việt Nam chưa được hưởng quy
chế PNTR, chưa được vào WTO).
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Bối cảnh xung đột với Trung
Quốc tại Biển Đông không phải là cơ hội để quốc tế
vận động chính quyền Việt Nam tách khỏi Anh Cả Đỏ phương
Bắc và nhích về phía các giá trị nhân quyền hay sao?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Đáng lẽ ra là phải thế, nhưng
thực tế lại cho thấy dường như toàn bộ ban lãnh đạo ĐCSVN
hiện nay vẫn nhất quán trong việc ưu tiên duy trì quyền lực
độc tôn của Đảng hơn vận mệnh quốc gia, dân tộc. Còn
cộng đồng quốc tế thì lại có những cách hợp tác hiệu
quả với chính quyền Việt Nam để kìm tỏa sự bành trướng
của Trung Quốc và bảo vệ lợi ích của họ mà không cần
phải đụng chạm tới vấn đề nhân quyền của Việt Nam. Tuy
nhiên, theo tôi, dù bối cảnh quốc tế, khu vực và quan hệ
Việt-Trung sẽ diễn biến như thế nào thì việc có được
một hệ thống truyền thông phi nhà nước, độc lập và đủ
mạnh vẫn là một vấn đề trọng yếu, một vấn đề nền
tảng cho các tiến bộ khác. Với kinh nghiệm của bản thân,
tôi có thể nói rằng sau tám năm, dư luận tiến bộ trong
nước (với sự hiệp đồng, hỗ trợ của dư luận người
Việt ở nước ngoài và các hãng truyền thông quốc tế) đã
có một bước trưởng thành đáng kể về qui mô, về khả năng
nhận thức và ảnh hưởng đối với xã hội nói chung và với
các vụ án qui buộc người bất đồng chính kiến như vụ án
CHHV nói riêng.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Nếu xem đoạn phim 16 phút nhan
đề "Sự thật về hành vi vi phạm của Cù Huy Hà Vũ" phát
sau phiên tòa phúc thẩm trên Đài Truyền hình Việt Nam, phương
tiện truyền thông đại chúng hữu hiệu nhất tại Việt Nam
hiện nay, người ta có thể có những ấn tượng khác…</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Dĩ nhiên, có nhiều người vẫn
hoàn toàn nhìn nhận vụ án CHHV theo những gì mà hệ thống
truyền thông nhà nước phản ánh. Tôi từng gặp những người
như thế. Phản ứng của tôi là chỉ nhẹ nhàng nói với họ
rằng chúng ta nên "nghe hai tai" và phải thận trọng với
những gì mà truyền thông nhà nước phổ biến.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Hôm diễn ra phiên tòa xử vụ
CHHV, anh cũng bị bắt và tạm giam 9 ngày ở Hỏa Lò. Trở lại
với nhà tù, cảm giác của anh thế nào?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Sau gần mười năm mới trở lại
một nhà tù, nhưng tôi vẫn thấy tình trạng quan hệ, giao tiếp
kiểu chủ – nô giữa nhân viên trại giam và người tù hình
sự, tình trạng cá lớn nuốt cá bé trong cộng đồng tù hình
sự, y như tôi đã từng nghe trước đó. Đó cũng là những
điều gây cho tôi suy nghĩ nhiều nhất sau chín ngày tù đó.
Thân phận nói chung của người Việt Nam đã thật buồn, mỏng
manh, nhưng cuộc đời của những người tù hình sự trong Hỏa
Lò còn mỏng manh và thương tâm gấp bội. Tôi xin mở ngoặc
thêm ở đây là tù hình sự ở Hỏa Lò phần lớn chỉ là
những nghi can, những người về mặt pháp luật vẫn phải
được coi là hoàn toàn vô tội. Về phần mình, chín ngày tù
đó đã cho tôi những trải nghiệm rất quí giá. Thứ nhất, nó
cho phép tôi kiểm định một số suy luận về hệ thống chính
trị và xã hội hiện thời. Thứ hai, nó cũng giúp tôi xem lại
khả năng chịu đựng của bản thân. Về điều thứ nhất, có
một điều mừng là ngay trong hệ thống chính trị hiện tại
cũng đã có nhiều cá nhân có thay đổi rất tích cực về tư
duy chính trị và xã hội, họ đã gần như không còn cho rằng
chỉ trích chính phủ hay phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam là
điều xấu hay nguy hiểm nữa, ở mức độ nào đó họ còn tỏ
ra quan tâm, ủng hộ những người bất đồng chính kiến. Một
nhân viên công an ngay trong Hỏa Lò đã nói riêng với tôi là anh
ấy thường xuyên đọc những thông tin trên các trang mạng phi
nhà nước nói về dân chủ, nhân quyền. Ban đầu tôi nghĩ là
anh ấy nói ngoại giao và nhằm mục đích nào đó thôi, nhưng
sau khi anh ấy nói về nhiều chi tiết và cả những cảm nghĩ
(có cả đồng ý và không đồng ý) về nhiều bài thì tôi
phải tin rằng anh ấy đã đọc một cách chủ động. Xin
được nhấn mạnh rằng việc đọc như thế của một nhân
viên công an trại giam là khác hẳn với việc đọc có tính
chất công việc của các nhân viên an ninh. Một điều mừng
khác nữa là những nghi can hình sự sống cùng với tôi trong
chín ngày đó đã cho tôi hiểu thêm rằng nhiều người thuộc
tầng lớp thấp của xã hội lại có những nhận xét về chính
trị rất sắc sảo và triệt để.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Xin anh cho một ví dụ.</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Trong một lần trò chuyện, động
chạm đến Hồ Chí Minh, một người tù thì cho rằng tình
trạng bất công của xã hội hiện nay là do những người lãnh
đạo hiện tại không có tài, có đức bằng Bác Hồ, thua xa
Bác Hồ. Nhưng rất bất ngờ, một người tù khác, còn khá
trẻ, vặc lại "thế ông tưởng thời Bác Hồ còn sống xã
hội công bằng lắm à? Vừa đá bóng vừa thổi còi thì làm gì
có công bằng mà mơ. Ông có đi xem bóng đá mà trọng tài lại
làm tiền đạo không?" (Ở đây tôi đã lược bỏ tối đa
những từ đệm của giới giang hồ.) Theo tôi, việc anh tù trẻ
đó có một nhận xét chính xác như thế là do hai lý do chính.
Thứ nhất, vì anh ta còn trẻ, lại thất học và có cuộc sống
tự do giang hồ nên tư duy của anh ta không (hoặc ít) bị thâm
nhiễm bởi những giáo dục có tính đầu độc của hệ thống
giáo dục hiện tại, vì vậy khả năng nhìn nhận ra chân lý
dễ hơn. Kant hay Osho đã cho rằng chính những kiến thức đã
nằm trong đầu ta lại có thể cản trở cho việc nhận biết
thực tại khách quan. Thứ hai, có thể vì tiếp cận được
với những thông tin độc lập trên mạng nên anh ta đã biết
được sự thật và hiểu được một nguyên nhân gốc rễ của
bất công xã hội hiện nay.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Như vậy xã hội Việt Nam
hiện nay thật sự có chỗ, và không phải chỗ quá chật, cho
những người bất đồng chính kiến?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Với trải nghiệm và quan sát
riêng của bản thân, tôi có thể nói ngắn gọn rằng trong
mười năm qua đã có một sự thay đổi theo chiều hướng tích
cực trong nhận thức của xã hội và dư luận đối với những
người bị nhà nước kết tội là "phản động". Tuy nhiên,
từ góc độ nghề nghiệp hay tầng lớp xã hội thì các thay
đổi tích cực đó không thuần nhất hay tương đồng với sự
cao thấp về tri thức hay gần gũi về quan hệ. Có những
người đang nắm giữ chức vụ trong cơ quan nhà nước vẫn
gần gũi và ủng hộ tôi, trong khi có những người làm việc
ở khu vực không liên quan gì tới nhà nước lại tỏ ra tránh
né. Hoặc có những người chưa bao giờ gặp lại quan tâm, chia
sẻ hơn cả những người đã từng thân thiết hoặc thậm chí
là họ hàng ruột thịt. Hoặc có người là đảng viên cộng
sản, ở nông thôn, nhưng lại có suy nghĩ cởi mở về những
người bất đồng chính kiến hơn nhiều trí thức ngoài đảng
sống ngay ở thành phố. Dĩ nhiên, trong xã hội hiện nay, quan
hệ với những người bất đồng chính kiến vẫn là một vấn
đề. Ngay cả những người ủng hộ, có cảm tình, có thể
vẫn có phần nghi kỵ, e ngại. Nhưng theo tôi, trong một xã hội
đang có những hỏng hóc rất lớn về nền tảng thì các quan
hệ xã hội tránh sao khỏi trục trặc. Ví dụ, theo những gì
tôi quan sát, quan hệ giữa những người làm việc trong các
công sở nhà nước đa phần chỉ có tính hình thức và khá
lỏng lẻo. Mối quan hệ đó thường chỉ dựa trên những giá
trị như ăn uống, du hý, kiếm tiền, ma chay, cưới hỏi, và bao
trùm lên các quan hệ đó là các mưu tính, tranh chấp, ganh đua
về quyền lực, quyền lợi bằng những cách không đàng hoàng.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Việc anh bày tỏ công khai quan
điểm chính trị ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống
hàng ngày của anh và gia đình?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Đã từ lâu tôi thống nhất
được với gia đình về quan điểm sống là sẵn sàng đón
nhận một cách tích cực những gì nằm ngoài khả năng của
mình. Ở Việt Nam hiện nay đâu cứ phải công khai quan điểm
chính trị thì mới bị "ảnh hưởng". Các em học sinh cấp
I, II, III và tuyệt đại đa phần bố mẹ của các em có phát
biểu gì về chính trị đâu, nhưng có ai trong chúng ta dám nói
đời sống học sinh của các em là hạnh phúc, là không bị
thiệt thòi? Những nông dân bị mất đất, những công chức có
lương tâm, những nhà báo yêu sự thật cũng thế, đâu cần
phải phát biểu chính trị mới bị "ảnh hưởng". Những
năm tháng tĩnh tâm ở trong tù trước đây đã cho tôi một ý
nghĩ là con người không thể định đoạt được tất cả
những bất trắc, nguy hiểm đang rình rập từng giờ, từng
phút quanh ta, từ thiên nhiên hoặc từ chính con người, nhưng
có một điều chúng ta có thể định đoạt được là chủ
động chọn lấy một hướng đi. Nếu có những nguy hiểm, bất
trắc, rủi ro xảy ra thì đó là những điều đỡ tẻ nhất,
đỡ vô nghĩa nhất.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Anh có thấy mình cô đơn
không?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Theo tôi cô đơn là một khái
niệm rất tương đối. Cô đơn thường bị gắn với số ít,
với sự đơn độc. Nhưng cô đơn cũng còn là cảm giác, là
nhận thức của chính bản thân con người. Người ta có thể
hoàn toàn cảm thấy cô đơn, lạc lõng, tủi thân ngay giữa
một lễ hội náo nhiệt, nhưng lại không thấy cô đơn khi
phải sống nhiều năm một mình trong một không gian nhỏ xíu
với 4 bức tường bao quanh. Có người chỉ vì thấy cô đơn,
không ai ủng hộ, nên đành từ bỏ những ý nghĩ của riêng
mình, hoặc tệ hơn lại đồng ý, thỏa hiệp với những
người khác, thành ra đánh mất những suy nghĩ độc lập của
mình. Hành động của Hữu Loan, cách đây nửa thế kỷ, một
mình đi thẳng về quê đập đá, bỏ lại sau lưng ông tất cả
mọi thứ ở nơi đô hội, trong đó có cả công trạng, quyền
lợi, sự nhàn nhã mà ông đáng được hưởng, theo tôi có ý
nghĩa với ông và với đời hơn rất nhiều những náo nhiệt,
đông đúc, "đoàn kết" khác. Có lúc có những người bất
đồng chính kiến ở Việt Nam cảm thấy đơn độc hoặc mệt
mỏi, thậm chí chán nản, hoặc có thể có những người tự
nghĩ mình đang cô đơn, nhưng, theo tôi, về ý nghĩa sâu xa thì
bất đồng chính kiến với người cầm quyền, với chính
quyền không hề cô đơn vì bất đồng chính kiến đã có một
nền tảng chung cho mọi con người, có một triết lý đúng
đắn có tính phổ quát đã được thử thách qua hàng ngàn năm
của nhân loại. Trong Đại Tượng truyện, một pho sách cổ
của Trung Quốc có cách đây hơn hai ngàn năm, đã có quan điểm
cho rằng không phải cứ đồng ý kiến, đồng một cách sống
mới là tốt, mà dị (tức bất đồng) ý kiến, dị về cách
sống cũng tốt và cần thiết, nhất là trong thời loạn, trong
thời cái ác thống trị xã hội. Còn nếu nhìn vào các công
ước quốc tế của thời nay liên quan tới nhân quyền, tới
giá trị Người của con người thì việc có ý kiến khác biệt
với bất kỳ ai cũng được coi là chuyện hết sức bình
thường và không ai có quyền xâm phạm. Dĩ nhiên, những người
bất đồng chính kiến ở Việt Nam hiện nay vẫn còn là số
ít, vẫn gặp nhiều khó khăn. Trong con mắt của nhiều người
và đôi khi trong con mắt của chính họ, họ là những kẻ dị
biệt. Nhưng có điều mới nào thuở ban đầu không mang trong nó
tính dị và có sự tiến bộ nào ngay khởi đầu đã to lớn,
đã là số nhiều?
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Phần lớn, ngay cả những
người có cảm tình với giới bất đồng chính kiến tại
Việt Nam, cho rằng thể chế chính trị Việt Nam chỉ có thể do
chính Đảng Cộng sản thay đổi, không một lực lượng chính
trị đối lập nào được coi là đáng kể để thực hiện
nhiệm vụ này.</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Vâng, nếu giả thiết rằng quan
điểm vừa nêu đã được phát biểu với một sự trung thực
tuyệt đối thì quan điểm này cũng mang trong nó các lựa chọn,
những quan niệm cần phải xét lại. Xin hỏi lại, thế nào là
do "chính Đảng Cộng sản thay đổi"? Sự "thay đổi" do
chính bản thân Đảng Cộng sản tự nhận thức hay do Đảng
Cộng sản nhận thức thông qua những khuyến cáo, phân tích,
đòi hỏi đến từ bên ngoài? Hay sự thay đổi mà Đảng Cộng
sản không thể không thực hiện vì sức mạnh đòi hỏi thay
đổi của xã hội, của toàn thể giới trí thức, của quảng
đại quần chúng? Một cách khác, chúng ta sẽ ngồi chờ để
Đảng Cộng sản thay đổi, hay sẽ làm điều gì đó để thúc
đẩy Đảng Cộng sản phải thay đổi? Và những người có quan
điểm vừa nêu liệu có mong đợi một sự tự thay đổi của
Đảng Cộng sản theo chiều hướng chỉ nhằm tạo ra những
hình thức mới mà vẫn giữ nguyên bản chất phi dân chủ như
hiện nay? Hơn nữa, theo tôi quan niệm "cách mạng", "thay
đổi" hiểu theo nghĩa là những cuộc lật đổ bạo động
trong chớp nhoáng và thay đổi hoàn toàn các cấu trúc chính
trị, kinh tế, xã hội trong một thời gian ngắn, là những quan
niệm đã lỗi thời và có tính chất nguy hiểm. Nhìn lại
những thay đổi quan trọng của thế giới trong khoảng ba thập
niên qua chúng ta có thể thấy những cuộc cách mạng thành công
nhất đều có ba yếu tố tinh thần có tính nền tảng, đó là
tinh thần ôn hòa (phi bạo lực), tinh thần chủ động đòi
thực thi các nhân quyền cơ bản (các giá trị chung của con
người) và tinh thần chấp nhận hy sinh đến cùng của những
người theo đuổi những giá trị chung đó. Tôi đồng ý là
sức mạnh của một lực lượng chính trị hay lực lượng xã
hội có thể biểu hiện qua những yếu tố vật chất, hữu
hình, như số người tham gia, phương tiện vật chất…, nhưng
nền tảng sâu xa cho sức mạnh và tiềm năng của một lực
lượng xã hội hay chính trị lại là các yếu tố phi vật
chất như tính tiến bộ và tính phù hợp với khát khao chung
của cộng đồng, xã hội hay rộng hơn là nhân loại. Và nếu
nhìn kỹ hơn ta sẽ thấy, trước khi có những biểu hiện về
sức mạnh vật chất thì đã phải có những chuẩn bị, chia
sẻ, thống nhất về tinh thần, tư tưởng. Dĩ nhiên, vấn đề
tổ chức, dù hiểu theo cách nào hoặc không muốn nói ra, cũng
không thể thiếu để tạo nên sức mạnh thống nhất cho một
lực lượng, một phong trào xã hội, nhưng chính vấn đề tổ
chức cũng liên quan nhiều đến tư tưởng, tinh thần hơn là
vật chất. Như vậy, quan điểm "không một lực lượng chính
trị đối lập nào được coi là đáng kể để thực hiện
nhiệm vụ (thay đổi chính trị) này" là quan điểm chỉ có
thể đúng với góc nhìn rất hẹp và ngắn về thời gian. Còn
dưới góc độ đạo đức thì tôi cho rằng đó là quan điểm
sai hoàn toàn. Vì sao chúng ta lại vẫn đặt niềm tin, vẫn giao
phó sự trông chờ vô điều kiện cho một đảng đã tự chứng
minh là đã mắc những sai lầm trầm trọng trong chính sách phát
triển và bảo vệ chủ quyền đất nước, đã gây ra nhiều
mất mát, thương đau cho dân tộc? Mặc dù tôi không tin những
người có quan điểm "phó thác" nói trên còn tin tuyệt đối
vào Đảng Cộng sản. Nhưng nếu xuất phát điểm của những
người muốn tiến bộ lại là một tinh thần trông chờ, phó
thác cho Đảng Cộng sản thì ngay cả trong trường hợp Đảng
Cộng sản có muốn thay đổi theo chiều hướng dân chủ thật
(hiện nay giả thiết này là một viễn viễn tưởng) thì họ
cũng sẽ thôi.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Chủ nghĩa phó thác này có
những nguyên cớ của nó…</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Đúng, nhưng theo tôi, nó nguy
hiểm. Nó không chỉ khó có thể mua được lòng tin, sự thành
ý lắng nghe của nhà cầm quyền độc tài mà còn làm một bộ
phận lớn trong xã hội, những người ít có thói quen hay điều
kiện để tìm hiểu kỹ về chính trị, vẫn hy vọng, trông
ngóng, trông chờ sự tự thay đổi (theo hướng tiến bộ) của
Đảng CSVN. Mà một xã hội trong đó người dân không có tinh
thần tự lập, không biết chủ động trong các vấn đề xã
hội, chính trị thì xã hội ấy vẫn là mảnh đất màu mỡ cho
độc tài, mị dân, phi dân chủ. Hơn nữa, tất cả những gì
diễn ra từ các cuộc Cách mạng ở Tây Âu và ở Mỹ trong thế
kỷ 17, 18 cho đến nay đều cho thấy, những cái đầu luôn bị
tù hãm trong những cái vỏ dai cứng của tự đại, tự huyễn
của các nhà độc tài chỉ có thể được đột phá, khai mở
bằng một ý chí cứng rắn khác.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Vậy vai trò của những
người bất đồng chính kiến tại Việt Nam trong bối cảnh này
là gì? Họ có một cơ hội nào để quy tụ thành một phong
trào đối lập không?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Thật là một câu hỏi khó. Tôi
cho rằng tất cả những người bất đồng chính kiến đều tin
rằng việc làm của họ ít nhất cũng giúp cho việc khẳng
định lại rằng Con Người không phải là một loài động vật
chỉ cần tồn tại hay chỉ mong muốn cho riêng bản thân họ.
Vế sau trong câu hỏi của chị làm tôi nhớ đến hai câu cách
ngôn và hai câu chuyện cổ. Hai câu cách ngôn là "Cơ hội
không bao giờ tự trên trời rơi xuống" và "Người ta thành
công chỉ vì người ta đã tin rằng người ta sẽ thành công".
Hai câu chuyện cổ là "Cô bé quàng khăn đỏ" và "Bó
đũa".
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Các lực lượng đối lập,
ở đâu và thời nào cũng vậy, bao giờ cũng gồm nhiều khuynh
hướng từ khác nhau đến khác xa nhau. Một trong các khuynh
hướng đáng chú ý tại Việt Nam là đối lập trung thành. Anh
đánh giá lực lượng này như thế nào?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Một cách sơ bộ, lực lượng
này đang chiếm số đông và có sức thu hút dư luận lớn so
với các lực lượng khác và cũng đang lớn mạnh hơn so với
chính họ. Trong lực lượng này có những người tài năng và
lương thiện và cũng có một vài dấu hiệu cho thấy có người
đang trở thành ít "trung thành" hơn. Nhưng đáng tiếc cũng
có những người tài năng và cơ hội. Bản thân người phương
Đông đã kín đáo, lại phải sống lâu trong một chế độ
toàn trị cộng sản thì sự kín đáo sẽ còn lớn hơn nữa. Do
đó lực lượng đối lập trung thành ở Việt Nam – những
người phê phán Đảng Cộng sản, phản biện các chính sách
của nhà nước nhưng vẫn bảo vệ tính nhất thống của Đảng
hay chỉ dựa trên các nguyên tắc của Đảng – vẫn là một
ẩn số.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Những người bất đồng
chính kiến tất nhiên quan tâm đến những sai lầm của nhà
cầm quyền. Còn những sai lầm, những căn bệnh của chính họ
thì sao?</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Tôi không thể đưa ra những
chẩn đoán có tính toàn diện và chi tiết vì muốn vậy tối
thiểu cần phải có một cuộc khám nghiệm tổng quát với
nhiều phương tiện và nhân lực và, theo ngôn ngữ y tế, có
thể cần cả những cuộc "hội chẩn". Theo tôi những
người bất đồng chính kiến Việt Nam, có cả bản thân tôi,
dù ít hay nhiều, đều mang trong mình những căn bệnh của thời
đại, của môi trường (chính trị, văn hóa, lịch sử, truyền
thống…) mà họ đang sống. Ở đây tôi chỉ muốn nêu ra vài
điểm. Thứ nhất chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ
về tiêu dùng vật chất (material consumption) và các phương tiện
truyền thông, rất hấp dẫn và mạnh mẽ, dễ làm con người
rơi vào những ngộ nhận, lừa gạt, cạm bẫy, chỉ hướng
đến hình thức và tính ngắn hạn hơn là nền tảng và dài
hạn. Thứ hai, môi trường xã hội của Việt Nam còn rất
thiếu tính khoan dung, độ lượng với những sự khác biệt.
Đặc điểm này không chỉ là đặc tính của một chính quyền
độc đoán, độc tài mà còn là đặc tính của dân chúng (gồm
cả những người bất đồng chính kiến) phải sống lâu dưới
các chế độ quân chủ chuyên chế, chuyên chính cộng sản hay
thần quyền. Thứ ba, truyền thống của tầng lớp sĩ phu và
trí thức Việt Nam từ trước đến nay là gần như đều không
quan tâm đến chính trị nói chung và khoa học chính trị nói
riêng. Ở đây tôi không đề cập đến nguyên nhân, nhưng nếu
tầng lớp có học nhất của một quốc gia lại không quan tâm
đến chính trị hay coi khinh chính trị là xấu, là công việc
của những kẻ đầy thủ đoạn nên tránh xa, không tìm hiểu
các qui luật, các kỹ thuật, các điểm hay dở, tốt xấu của
các mô hình chính trị cũng như các "thủ đoạn" cầm quyền
thì quốc gia sẽ không thể có được một chế độ chính trị
đúng đắn, tốt đẹp. Vì giới có học, người tử tế còn
không hiểu về chính trị, không muốn can dự vào chính trị
thì đại chúng làm sao có thể không bị lôi kéo bởi những
lực lượng chính trị hắc ám, những thủ đoạn mỵ dân, lừa
gạt của quyền lực độc đoán. Mà một khi chế độ chính
trị đã không đúng đắn thì mọi mặt khác của xã hội cũng
sẽ không thể đúng đắn và tốt đẹp được. Ngoài ra, theo
quan điểm của tôi, những người bất đồng chính kiến hiện
nay cũng có thể nhìn lại ngay những người cộng sản Việt Nam
tiền bối, trước năm 1945 chính họ cũng là những người bất
đồng chính kiến, để tránh một số căn bệnh và học được
những phẩm chất tốt đẹp. Và một khi đã có ý thức để
tìm hiểu, xác định những căn bệnh, điểm yếu của mình
một cách nghiêm túc thì chắc chắn những người bất đồng
chính kiến sẽ biết cách để vượt qua được chúng.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Xin anh thử nêu ngắn gọn
những sở trường và sở đoản của những người cộng sản
Việt Nam tiền bối.</em>
<strong>Phạm Hồng Sơn:</strong> Một số căn bệnh lớn của
những người cộng sản tiền bối tôi cho cần phải chú ý là:
thiếu tính hệ thống trong cách nhìn về sự vật hiện tượng;
thiếu quan niệm tiến bộ về độc lập, tự do; rất thiếu
lòng khoan dung với sự khác biệt chính kiến; coi nhẹ lợi ích
xã hội, quốc gia khi quyền lợi của bản thân, phe nhóm gặp
thách thức. Những phẩm chất đáng học ở họ là: sự nghiêm
túc trong lối sống; tinh thần kỷ luật nghiêm; khả năng chịu
đựng, hy sinh cao; sự gắn bó, gần gũi với đại chúng.
<strong>Phạm Thị Hoài:</strong> <em>Cảm ơn anh Phạm Hồng
Sơn.</em>
06.01.2012
© 2012 pro&contra
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11213), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét