Lê Thương - Tết Nguyên Đán

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/tet.jpg" width="500"
height="300" alt="tet.jpg" /></center>

Tết Nguyên Đán là ngày lễ truyền thống lớn nhất trong năm
của Việt Nam. Ngày Tết không những là ngày thiêng liêng của
người Việt mà nó còn mang sắc thái văn hóa đặc thù của
dân tộc ta. Trên bầu trời cao, những cánh én đã về, mùa
Xuân đã trở lại với vạn vật. Những cành lá trơ trụi của
mùa Đông đã chuyển mình với những mầm non, với lá xanh mơn
mởn. Trong bốn mùa, Xuân là mùa của ngàn hoa tươi thắm, với
những cành lộc non xanh tươi vì thế mùa Xuân được người
đời ưa chuộng hơn cả. Trong niềm rạo rực đón Xuân, Hàn
Mạc Tử đã sáng tác bài <em>"Mùa Xuân Chín"</em>, xin hãy
nghe:

<center><em>Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý – bóng xuân sang</em></center>


<center><em>Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi.
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.</em></center>

<center><em>Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.</em></center>


<center><em>Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
"Chi ấy năm nay còn gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?</em></center>

Sau 37 năm lưu lạc nơi đất khách quê người, cứ mỗi lần
Tết đến người Việt tha hương khắp năm châu cảm thấy lòng
nao nao nhớ lại những mùa Xuân êm đềm mang nhiều kỷ niệm
nơi cố quốc và cảm thấy thấm thía qua những vần thơ
<em>"Xuân Tha Hương"</em> của Nguyễn Bính:

<center><em>Bốn biển vẫn chưa yên sóng gió,
Xuân nầy em chị vẫn tha hương.
Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ,
Son sắc say hoài rượu bốn phương.</em></center>

<center>...</center>

<center><em>Em đi non nước xa khơi quá,
Mỗi độ Xuân về bao nhớ thương.
Mỗi độ Xuân về em lại thấy,
Buồn như tên lính ở biên cương.</em></center>

Chữ Tết Nguyên Đán mang các nghĩa: Tết do chữ Tiết, có nghĩa
là ngày lễ; Nguyên có nghĩa là bắt đầu; Đán có nghĩa là
buổi sớm mai. Vậy Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho một
năm mới với nhiều hy vọng và may mắn mới. Đúng ra phải
dùng cả ba chữ Tết Nguyên Đán, nhưng người Việt ta có tính
giản dị nên chỉ gọi Tết hay Ngày Tết. Chữ Tết được
dùng trong nhiều thành ngữ như: Ngày Tư Ngày Tết, Năm Hết
Tết Đến, Sống Tết Chết Giỗ, Tết Nhất, Chợ Tết, Ăn
Tết, Chúc Tết, Thiệp Tết, Quà Tết, Lương Tết, Tết Thầy,
Tết Xếp... Ngày Tết mang rất nhiều phong tục cổ truyền và
các phong tục này đã thấm nhuần trong lòng người Việt Nam
từ xưa đến nay.

<h2>Sửa Soạn Tết</h2>

Ngay từ đầu tháng Chạp, ở thôn quê cũng như thị thành,
thiên hạ đã bắt đầu sửa soạn Tết. Nhà nhà lo mua heo, bò,
gà, vịt để sẵn, rồi còn mua nếp, đậu hầu chuẩn bị gói
bánh chưng, bánh tét. Ngoài ra còn muối dưa, nén hành, may sắm
quần áo mới, sơn phết trang hoàng nhà cửa, lau chùi bàn thờ,
mua tranh, pháo, câu đối, cùng các loại bánh mứt, trái cây,
trà, rượu... Còn những người thích chơi cảnh, chơi hoa như
các loại hoa hải đường, hoa mai, bích đào, thủy tiên... phải
lo vun trồng, cắt xén để hoa kịp nở vào đầu Xuân. Đa số
người Việt Nam chỉ lo ăn Tết có 3 ngày, tuy nhiên nhiều gia
đình, nhất là những gia đình khá giả chuẩn bị Tết trong
nhiều tháng trước.

<h2>Chợ Tết</h2>

Khoảng trung tuần tháng Chạp, phố xá, chợ búa bắt đầu thêm
nhộn nhịp, nhất là các buổi chợ cuối năm càng tưng bừng
tấp nập, đông đúc kẻ bán người mua. <em>"Đông như chợ
Tết"</em>. Vào những ngày chợ Tết hàng hóa tràn ngập,
nhiều gấp bội ngày thường, nào gian hàng vải, gian hàng bánh
mứt, hàng hoa, hàng trái cây, dưa hấu bày bán la liệt. Thấy
dưa hấu là thấy Tết. Dưa hấu lềnh khênh, chất cao thành
đống. Khách mua cố lựa những trái dưa khi cắt ra ruột đỏ
tươi vì người ta cho rằng mua dưa đầu năm lựa được những
trái dưa ruột đỏ thắm thì suốt năm gặp tòan những điều
may mắn. Còn những người bán thì trưng bày những trái dưa
mẫu ruột đỏ au để chiêu dụ khách hàng. Đặc biệt là vào
những ngày cận Tết, ta thấy các ông đồ Nho râu tóc bạc phơ
gò mình trên những tờ giấy hoa ở vỉa hè hay góc chợ, múa
bút viết những câu đối với những nét chữ <em>"Rồng bay,
Phượng múa"</em> để bán cho những khách hàng mua về dán ở
nhà hay ở bàn thờ.

<h2>Đưa Ông Táo Về Trời</h2>

Một trong những cổ tục của ngày Tết là đưa ông Táo về
Trời. Ông Táo là cái bếp nấu cơm trong mọi gia đình. Người
ta tiễn ông Táo về Trời bằng bánh mứt, thèo lèo, trà và
pháo. Theo truyền thuyết, cứ mỗi năm vào ngày 23 tháng Chạp,
ông Táo cỡi cá chép bay về Trời để <em>"báo cáo"</em>
với Ngọc Hoàng mọi chuyện xảy ra dưới trần gian trong suốt
năm qua.

<h2>Cây Nêu</h2>

Ở thôn quê, thiên hạ bắt đầu dựng cây nêu vào ngày 27
tháng Chạp, trễ lắm là vào buổi chiều ngày 30 Tết, nếu
tháng thiếu là ngày 29 và hạ nêu vào ngày mồng 7 tháng Giêng.
Nêu là cây tre dài chặt tới gốc còn đủ ngọn lá, được
dựng ở trước sân với một cỗ mũ nhỏ và một tảng vàng
buộc ngang thân, có nơi treo trên ngọn mấy chiếc khánh và bùa
chú mà người ta tin tưởng rằng có thể ngăn cản, xua đuổi
tà ma xâm nhập vào nhà để quấy phá gia chủ trong những ngày
Tết. Riêng ở thành thị vì nhà cửa phố phường san sát không
tiện trồng cây nêu nên ta thường buộc cành đa, lá dứa ngoài
ngõ. Có nơi thiên hạ rắc vôi ngoài sân, ngoài cổng với hình
bàn cờ, cây cung cùng tên bắn ra đằng trước và hai bên, ngụ
ý trấn giữ nhà cửa ngăn chận tà ma.

<center><em>Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Trông mau đến Tết dựng nêu ăn chè.</em></center>

Vật điển hình thứ hai của Tết là hoa mai. Mai vàng là màu
sắc đặc thù của ngày Tết, thấy mai là thấy Tết và mai
vàng tạo niềm rạo rực, rộn ràng trong lòng mọi người. Cho
nên, dù giàu, dù nghèo thiên hạ nhà nào cũng tạo cho được
một cành mai. Giàu có, khá giả không những tạo một nhành mai
mà còn rước cả một cây mai to lớn đầy hoa về để trang
trí nhà cửa trong những ngày Xuân. Còn nghèo khó không mua nổi
một nhánh mai tươi thì cũng phải sắm cho được một cành mai
giả để cũng có màu sắc Tết cho gia đình.

<center><em>Tết không mai không ai biết Tết,
Mai không Tết chẳng thiết khoe vàng.</em></center>

Vật điển hình thứ ba của Tết là bánh chưng. Tùy theo tục
lệ từng miền, người ta có bánh chưng hay bánh tét, đó là
hương vị không thể thiếu được của mọi gia đình trong
những ngày Tết. Bánh chưng, bánh tét thường được ăn với
thịt mỡ, dưa hành hay củ kiệu. Trong lúc nhìn mai vàng nở
trên cành, nghe những tràng pháo Tết rộn rã mà ăn một lát
bánh chưng hay một khoanh bánh tét với một cục thịt mỡ và
một miếng dưa hành là nuốt cả một mùa Xuân dân tộc vào
tâm hồn ta vậy.

<div class="boxright200"><img
src="http://danluan.org/files/u23/banhchung.JPG" /><div
class="textholder"></div></div>
Vật điển hình thứ tư của ngày Tết là pháo. Pháo là âm
thanh, âm điệu rạo rực nhất của ngày.

Xuân. Nghe pháo nổ là nghe như Tết đang reo vang trong lòng mọi
người. Pháo bắt đầu nổ lác đác từ chiều 23 tháng Chạp,
ngày đưa ông Táo về Trời. Rồi đến Giao Thừa pháo càng rộ
lên cùng một lúc, xen lẫn trong những tràng pháo chuột là
những tiếng pháo đại nổ chát chúa, vang rền như những quả
đạn pháo kích. Tết đến, từ các cơ sở thương mại cho
đến tư gia, nhà nào cũng đốt một vài phong pháo để đón
Chúa Xuân. Người ta đốt pháo từ lễ Giao Thừa và vào sáng
mồng một, mồng hai, mồng ba. Ngoài ra khi người bạn quý đến
<em>"xông đất"</em> chủ nhà cũng mang ra một phong pháo đốt
để <em>"nghinh tân"</em> ngược lai, người bạn cũng đốt
một phong pháo để <em>"Chúc Xuân"</em> gia chủ. Còn các cơ
sở thương mại, những nhà giàu có vào ngày Tết đốt pháo
thường có múa lân vì thiên hạ tin tưởng rằng lân đến nhà
đầu năm sẽ mang lại thịnh vượng.

<center><em>Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ,
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh.</em></center>

<h2>Mâm Ngũ Quả</h2>

Mâm ngũ quả thường gồm thơm, đu đủ, dừa, xoài, trái sung.
Phải thừa nhận rằng đa số nguời Việt Nam, nhất là giới
bình dân mang nhiều sự mê tín, dị đoan rất dễ thương. Vì
thế mâm ngũ quả chưng bàn thờ trong những ngày Tết người ta
thường chọn những loại trái cây có tên tốt, mang ý nghĩa
như thơm, đu đủ, dừa, xoài, sung... vì theo họ, những loại
hoa quả nầy tượng trưng cho một năm mới đầy thơm tho, tiền
bạc trong nhà đầy đủ và cuộc sống sung túc.

<h2>Tiệc Tất Niên</h2>

Ở thành thi, theo thông lệ, cứ đến cuối năm, thiên hạ
thường tổ chức những bữa tiệc tất niên tại các công, tư
sở, xí nghiệp, trường học hầu các công tư chức, nhân viên,
học sinh, sinh viên, thầy cô có dịp họp mặt vui vẻ, chuyện
trò thân mật, chúc Tết lẫn nhau trước khi chia tay để về
nhà hoặc về quê ăn Tết với gia đình.

<h2>Đưa Rước Ông Bà</h2>

Vào ngày Tết người Việt Nam ta có tục đưa rước ông bà.
Trưa hôm 30 Tết người ta làm lễ cúng tất niên đồng thời
đón rước ông bà hoặc người thân quá cố để vong linh họ
về sum họp với gia đình trong những ngày Xuân. Qua đến ngày
mồng bốn, ta tiễn đưa vong linh ông bà về phương cũ.

<h2>Giao Thừa Và Lễ Trư Tịch</h2>

Giao Thừa có nghĩa là cũ giao lại cho mới tiếp nhận. Hết
giờ Hợi sang giờ Tý vào lúc nửa đêm 30 Tết là Giao Thừa,
thiên hạ làm lễ Trừ Tịch tiễn vị thần năm cũ, đón vị
thần năm mới còn được gọi là lễ <em>"Tống Cựu, Nghinh
Tân"</em>. Theo cổ tục, người ta tin rằng từ năm Tý đến
năm Hợi là 12 năm thì có 12 vị thần Hành Khiển luân phiên
nhau, mỗi năm một vị lo trông coi việc nhân gian vì thế mà ta
có lễ Trừ Tịch để tiễn đưa và đón các vị thần Hành
Khiển của năm cũ và năm mới, đồng thời cầu cúng cả Bản
Cảnh Thành Hoàng và Thổ Công Thần Kỳ mà ta có câu tục ngữ
<em>"Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá".</em>

Lễ Trừ Tịch ở các làng xã còn giữ cổ tục, người ta
thiết lập hương án ở trong trung thiên hoặc nơi sân đình,
cũng có khi ở ngã ba làng xã với vàng mã, hương, đèn, trầu,
rượu, hoa quả, xôi gà tế lễ rất trọng thể. Trong khi tế
lễ, họ đánh trống, khua chiêng, đốt pháo vang dậy trong giờ
Giao Thừa. Còn các tư gia cũng cúng lễ Giao Thừa trong sân hay
trước cửa nhà với mâm lễ vật đặt trên bàn rồi vái tứ
phương. Khi tới Giao Thừa chuông, trống ở các Đình, Chùa,
Giáo Đường khắp nơi cũng được đánh lên vang rền kèm theo
tiếng pháo đón Giao Thừa nổ giòn giã. Tiếng chuông, tiếng
trống, tiếng pháo của giờ Giao Thừa là âm điệu truyền
thống của ngày Tết.

Những kẻ đã từng nghe những âm điệu nầy trong quá khứ, nay
vì hoàn cảnh bắt buộc họ phải xa lìa đất mẹ thân yêu,
vào đêm Giao Thừa họ thường gục đầu im lặng để chờ nghe
lại âm điệu ngày xưa, nhưng giờ Giao Thừa cứ lặng lẽ trôi
qua và những âm điệu âu yếm kia vẫn biền biệt, khiến họ
hụt hẫng, lòng họ dâng trào niềm nuối tiếc và uất hận,
rồi lòng họ cảm thấy nghẹn ngào và đôi dòng lệ tự nhiên
tuôn trào thấm ướt bờ mi. Vì ai mà họ đã đánh mất kỷ
niệm thân yêu nầy? Vì ai mà họ phải khóc trong những đêm
Giao Thừa xa cố quận?

Về Giao Thừa, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có hai câu đối như sau:

<center><em>Tối ba mươi khép kín càn khôn,
Kẻo sợ ma vương đem quỷ tới.</em></center>

<center><em>Sáng mồng một lỏng then tạo hóa,
Để cho thiếu nữ rước Xuân vào.</em></center>

<h2>Tiền Của Vào Như Nước</h2>

Ở thành thị, phố phường ta có tục lệ sau giờ Giao Thừa,
những người gánh nước mướn tự động gánh nước đến
những nhà trong hàng xóm một vài đôi nước ngụ ý rằng năm
mới gia chủ sẽ làm ăn phát đạt <em>"tiền của vào như
nước"</em> và gia chủ vui vẻ thưởng tiền rất hậu. Cũng
có những người buôn bán, vào những ngày cận Tết đã ân
cần dặn trước những người gánh nước thuê đừng quên gánh
nước đổ vào nhà cho mình.

<h2>Đi Lễ Chùa, Giáo Đường Và Hái Lộc</h2>

Sau khi cúng Giao Thừa xong, thiên hạ làm lễ Thổ Công rồi sửa
soạn đi lễ tại các Đền, Miếu, Đình, Chùa, Giáo Đường
để cầu phúc, cầu may cho năm mới. Ngoài mục đich đi lễ
Phật, lễ Chúa, lễ các vị Thần Linh họ còn có dụng ý hái
lộc và xin xăm. Hái lộc là một tục lệ nên thơ của người
Việt Nam. Người ta tin rằng lộc là lộc của Trời vì thế
hái lộc đầu năm sẽ mang lại nhiều may mắn, thịnh vượng
cho suốt một năm. Vì lẽ đó mà vào ngày đầu năm thiên hạ
già, trẻ, trai, gái chen chúc nhau lên Chùa để hái lộc. Còn xim
xăm, đa số người Việt rất tin vào số mệnh nên song song
với việc lên Chùa lễ Phật, hái lộc họ còn lên Chùa để
xin xăm hầu biết vận mệnh của mình và gia đình mình trong
năm mới. Hình thức xin xăm là sau khi van vái Trời, Phật với
tất cả lòng thành rồi người ta rút một thẻ xăm trong ống
(hoặc lắc cho thẻ xăm rơi ra), đoạn mang đến cho người
đoán xăm, đôi khi là một thầy bói, đôi khi là một nhà sư
để giải đoán dùm những ngụ ý trong quẻ xăm. Hầu hết
những người lên Chùa xin xăm vào dịp đầu năm đều ra về
với vẻ mặt <em>"vui như ngày Tết"</em> vì những lá xăm
của họ đều hứa hẹn những điều tốt đep.

<h2>Xông Nhà, Xông Đất</h2>

Theo cổ tục, vào đầu năm người đến nhà ai trước nhất là
người <em>"xông nhà, xông đất"</em> cho gia chủ và thiên
hạ tin rằng đầu năm mới được người vui vẻ, dễ tính,
tốt nết hoặc những người có tên như: Thương, Mến, Hùng,
Dũng, Đẹp, Giàu, Sang, Phú, Quý, Thịnh, Vượng, Tài, Báu, Lợi,
Phước, Lộc, Thọ, Có, Tiền, Bạc, Vàng, Triệu, Tỷ, Thơm...
đến nhà trước nhất thì gia chủ sẽ được mọi chuyện tốt
lành, đẹp đẽ, thịnh vượng, phú quý, may mắn quanh năm. Còn
ngược lại, gặp người khẳn tính, cộc cằn, độc ác, khờ
dại, ngu ngơ, đần độn hoặc những người có tên như: Nghèo,
Khổ, Xấu, Ghét, Ngu, Hư, Thúi, Chết, Xụi, Thua, Lỗ, Nợ, Nần,
Túng, Thiếu, Đau, Ốm, Bệnh, Ghẻ, Chốc, Bại, Xụi, Bần, Hàn,
Đói, Rách, Gian, Ác... thì suốt năm gia chủ làm ăn lủng củng,
thất bại hay gặp những chuyện vẩn vơ, bực mình.... Chính vì
vậy mà các cụ lớn tuổi hoặc những người còn mang nặng
cổ tục rất kén chọn người đến xông nhà, xông đất,
thường họ mượn người tốt nết, tính tình dễ thương, có
tên đẹp đến xông đất dùm. Còn trong gia đình, sau khi đi lễ
Chùa, Nhà Thờ về là xông đất nhà mình và gia đình thường
để cho người tốt nết nhất vào nhà trước.

Theo tục lệ, người đến xông đất đốt một phong pháo và
chúc gia chủ mọi điều tốt lành, tùy theo trường hợp, lời
chúc có thể:

- Nếu gia chủ có cha mẹ già thì chúc <em>"Tăng phúc, tăng
thọ"</em>

- Nếu gia chủ là nhà nông thì chúc <em>"Phong đăng hòa
cốc"</em>

- Nếu gia chủ là một nhà công kỹ nghệ thì chúc <em>"Tốt
tài sai lộc"</em>

- Nếu gia chủ là một thương gia thì chúc <em>"Buôn may, bán
đắt, nhất bản vạn lợi"</em>

- Nếu gia chủ là một quân nhân hay công chức thì chúc
<em>"Mau thăng quan, tiến chức" </em>

Trong trường hợp chẳng may gặp người xấu nết, tính tình
cộc cằn hay xui hơn nữa bị một lão ăn mày đến viếng đầu
năm thì gia chủ phải lấy gạo, muối ra vãi tứ phía và cúng
vái gọi là <em>"đốt phong long"</em> rồi chờ một người
khác khá hơn đến <em>"tái xông"</em>.

<h2>Mừng Tuổi Và Chúc Xuân</h2>

Một trong những tục lệ đẹp đẽ nhất của người Việt Nam
là mừng tuổi ông bà, cha mẹ vào dịp đầu Xuân. Đây là một
hình thức hiếu đạo của con cháu đối với công ơn dưỡng
dục của các đấng sinh thành đã nuôi dưỡng nên mình mà chỉ
Việt Nam mới hãnh diện có cổ tục nầy trên thế giới ngày
nay.

Mừng tuổi là mừng ông bà, cha mẹ thọ thêm một tuổi. Sáng
mồng một Tết, sau khi ông bà, cha mẹ khăn áo chỉnh tề, con
cháu cũng xúng xính trong những bộ quần áo mới, trải chiếu
xuống đất lạy 2 lạy đồng thời chúc ông bà, cha mẹ những
lời tốt đẹp, hiếu thảo. Ông bà, cha mẹ cũng chúc lại con
cháu ngoan ngoãn, thông minh, chóng lớn, học hành mau đỗ đạt
rồi cho con cháu những tờ giấy bạc mới đựng trong những
phong bì màu đỏ gọi là tiền <em>"lì xì"</em>, có nghĩa là
những đồng tiền may mắn.

Ngoài tục lệ mừng tuổi, vào ngày Tết thiên hạ còn có lệ
chúc Tết lẫn nhau. Nếu ở xa người ta gởi thiệp, còn nếu
ở gần bạn bè, họ hàng thăm viếng và chúc Tết với nhau.
Những lời chúc thông dụng là <em>"Phước, Lộc, Thọ", "An
Khang, Thịnh Vượng", "Vạn Sự Như Ý", "Sống Lâu Trăm
Tuổi", "Tân Xuân Vạn Hạnh", "Con Đàn, Cháu Lũ",
"Tiền Vào Như Nước", "Tiền Rừng Bạc Biển", "Đa
Tài, Đa Lộc", "Mau Thăng Quan, Tiến Chức"</em>...

Ngoài việc họ hàng, bạn bè thăm viếng chúc Tết lẫn nhau,
các nhân viên thuộc quyền ở các Ty, Sở, Đơn Vị vào ngày
Tết cũng có lệ đến chúc Tết các xếp của mình. Kèm theo
những lời chúc Tết đẹp nhất, họ còn có <em>"quà
biếu"</em> cho các xếp họ nữa. Xin hãy nghe bài <em>"Chúc
Tết"</em> của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương:

<center><em>Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giả trầu.</em></center>


<center><em>Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu,
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu.
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi lọ phải cầu</em></center>


<center><em>Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang,
Đứa mua tước, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lộng
Vừa bán vừa la cũng đắc hàng.</em></center>


<center><em>Lẳng lặng mà nghe nó chúc con,
Sinh năm, đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.</em></center>

<h2>Kiêng Cữ</h2>

Đa số người Việt Nam ta tin rằng việc gì xảy ra đầu năm
thì sẽ liên tục xảy ra suốt năm vì thế ta có rất nhiều
tục kiêng cữ trong những ngày Tết:

<h3>Giông</h3>

Giông có nghĩa là xui xẻo, cho nên vào những ngày cuối năm có
mượn đồ vật hoặc nợ nần của ai thì phải lo trả vì nếu
để sang năm mới người ta đến đòi thì bị
<em>"giông"</em>. Vì thế vào những ngày cuối năm, các chủ
nợ thường đến đòi tiền các con nợ vì để qua năm mới
đến đòi sợ <em>"giông"</em> người vay nợ. Ngược lại,
các con nợ Tết đến cũng lo chạy đôn, chạy đáo để thanh
toán tiền nợ của mình vì sợ để leo qua năm mới sẽ bị xui
và sẽ bị mang nợ suốt cả năm nên ta có câu:

<center><em>Khôn ngoan đến cửa quan mới biết,
Giàu khó ba mươi Tết mới hay.</em></center>

<h3>Cữ Quét Nhà</h3>

Vào ngày Tết người ta cữ quét nhà trong suốt ngày mồng một,
mồng hai và mồng ba vì sợ rằng quét nhà sẽ quét hết tiền
bạc, của cải và các điều may mắn ra ngoài. Nều nhà có rác,
ta chỉ quét sơ và gom vào một xó để chờ hết Tết rồi mới
đem đi đổ.

<h3>Cữ Quần Áo</h3>

Trong những ngày Tết, người Việt ta cữ ăn mặc quần áo
trắng hoặc đội khăn trắng vì sợ trong năm sẽ có tang.

<h3>Cữ Ăn Nói</h3>

Vào những ngày đầu năm, người trong gia đình phải hết sức
thận trọng về <em>"lời ăn tiếng nói"</em>, chỉ nên dùng
những lời lẽ đẹp và tránh những lời nói không hay như
khỉ, chết, đau, ốm hay những lời nói tục tằn, chửi thề...
để suốt năm không gặp những chuyện xui xẻo.

<h3>Cữ Đánh Con</h3>

Vào ngày Tết cha mẹ phải cữ đánh con cho dù rằng vào những
ngày nầy con cái <em>"phá như quỷ"</em> cha mẹ cũng đành
dằn lòng vì nếu đánh con trong những ngày Tết thì con sẽ bị
<em>"huông"</em>, nghĩa là suốt năm con sẽ bị đòn hoài.

Ngoài các điều trên, thiên hạ còn kiêng cữ nhiều thứ khác
trong ngày Tết như kiêng cãi nhau, kiêng đánh lộn, kiêng gây
tiếng động, kiêng làm vỡ chén bát, ly tách, kiêng tiếng khóc
dù là tiếng khóc của trẻ con đòi bú sữa. Ngoài việc kiêng
cữ những điều <em>"xấu"</em>, người ta còn phải làm
những điều "tốt", đó là tục lệ đi mua muối đầu năm.
Muối tượng trưng cho sự đậm đà, mặn mòi. Nhưng ngược
lại ta cữ đi mua vôi vì vôi tượng trưng cho sự bạc bẽo,
vong ân, bội nghĩa như ta thường nghe câu <em>"ăn ở bạc như
vôi"</em> vì thế dân gian có câu tục ngữ <em>"Đầu năm mua
muối, cuối năm mua vôi"</em>.

<h2>Bói Toán</h2>

Vào ngày đầu năm người Việt ta thích đi xem bói toán để
biết vận mệnh của mình trong năm mới. Bói toán có nhiều
cách, như bói Kiều, bói sách, bói tuồng, nhờ thầy bói xem bói
dùm... Bói Kiều là lấy cuốn Kiều ra để trên bàn, sau khi
thắp hương đèn và khấn vái Nguyễn Du, Thúy Kiều, Kim Trọng
rồi người ta lật bất cứ trang nào của Kiều ra xem, những
câu thơ sau đây được xem là tốt:

<center><em>Dưới dòng suối chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.</em></center>

Đầu năm mà gặp nước, gặp cầu, gặp vàng thì không có gì
may mắn, hạnh phước cho bằng. Nước tượng trưng cho tiền
bạc nên ta có câu thành ngữ <em>"tiền vào như nước"</em>,
còn cây cầu tượng trưng cho sự thông giao, sự liên lạc, sự
đoàn tụ và vàng tượng trưng cho sự giàu sang, phú quý.

Ngược lại những câu thơ sau đây được xem là điềm xấu:

<center><em>Hàn huyên chưa kịp giãi giề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao,
Đầu trâu, mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
Một dây vô lại buộc hai thâm tinh.</em></center>

Hoặc:

<center><em>Sầu đong càng lắc càng đầy.
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.</em></center>

Đầu năm bói Kiều mà gặp cảnh gia đình tan nát, phân ly hay
gặp cảnh <em>"Sầu đong càng lắc càng đây"</em> như trên
thì người ta tin rằng đó là điềm xui xẻo.

Bói sách cũng tương tự như bói Kiều, còn bói tuồng là ngày
Tết ta chọn tuồng hát để xem, nếu xem nhằm tuồng kết thúc
cốt chuyện bằng sự sum họp, thắng lợi, hạnh phúc, giàu có
là điềm may. Còn nếu tuồng hát kết thúc bằng cảnh gia đình
tan nát, chia ly, chết chóc là điềm không tốt. Ngoài việc bói
Kiều, bói sách, bói tuồng, thiên hạ còn tìm đến các thầy
bói để nhờ xem dùm vận mệnh, tình duyên, công ăn, việc làm
của mình trong năm mới.

<h2>Khai Bút</h2>

Vào dịp đầu Xuân, người Việt Nam ta có tục lệ tao nhã khác
đó là tục lệ Khai But đầu năm. Khai Bút là năm mới cầm bút
viết lần đâu tiên. Những người thường hay viết lách như
các cụ đồ, các nhà khoa giáp, các văn nhân thi sĩ, các nhà
báo vào dịp đầu Xuân chọn ngày giờ tốt lấy giấy mực ra
làm thơ, viết văn, ngâm vịnh và thưởng Xuân.

<h2>Khai Quân</h2>

Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, các đơn vị Quân Đội có
truyền thống tổ chức Lễ Khai Quân và Lễ Thượng Kỳ Đầu
Năm với mục đích phô trương sức mạnh của Quân Đội cũng
như nâng cao ý chí và tinh thần của binh sĩ hầu đạt được
nhiều thắng lợi cho đơn vị trong năm mới.

<em><strong>Kính Chúc Quý Vị Độc Giả Một Năm Mới An Khang –
Thịnh Vượng</strong></em>

<strong>Lê Thương</strong>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11201), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét