sốt</center></h2>
<strong>Trần Mạnh Hảo</strong>
Mới mười lăm, mười sáu tuổi đầu, tâm hồn cậu thiếu
niên Chế Lan Viên kỳ lạ thay, đã bằng tuổi Tháp Chàm. Hay
chính là hồn vía Tháp Chàm miền Trung đã nhập vào thân xác
nhà thơ từ thuở lọt lòng, mượn chú hài đồng họ Phan mà oa
oa cất tiếng khóc nghìn năm ứ nghẹn tự muôn trùng gạch đá?
Sau này, lớn lên, đi học tại Quy Nhơn, Chế Lan Viên lại bị
vây bủa bởi những Tháp Chàm cô độc, như những cánh tay hư
vô đột ngột giơ lên xin phát biểu ý kiến với trời xanh.
Những Tháp Chàm bí mật, câm nín mấy trăm năm chợt hu hu khóc
nấc, chợt hú rít lên, rên la lên, chợt rúc lên u u ơ ơ tiếng
tù và địa phủ bằng vần điệu, bằng thi ca <em>"Điêu
tàn"</em>, như tiếng phát ngôn của dân Hời vạn thuở. <div
class="boxright200"><img src="http://danluan.org/files/u23/tranmanhhao.jpg"
/><div class="textholder">Nhà văn Trần Mạnh Hảo</div></div>Tập thơ
được viết xong lúc tác giả mười sáu tuổi, ra mắt làng thơ
năm 1937. <em>"Điêu tàn"</em> như một hiện tượng kỳ vĩ,
ngay lập tức làm sửng sốt thi đàn Việt Nam, <em>"như một
niềm kinh dị"</em> theo chữ của Hoài Thanh. Không sửng sốt,
không kinh dị sao được khi một cậu thiếu niên dáng vẻ hiền
lành, bỗng học được phép chui vào quan tài của nỗi hư vô,
dùng thi ca tỏ tình với cái chết.
Chế Lan Viên dẫn đầu một phái đoàn ma, kéo vào thi đàn
Việt Nam như cô hồn thập loại chúng sinh của Nguyễn Du xưa
kéo về rằm tháng bảy: <em>"Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau
đi"</em> (Trên đường về). Ông ước: <em>"Hãy cho tôi một
tinh cầu giá lạnh/Một vì sao trơ trọi cuối trời xa"</em>
(Những sợi tơ lòng). Tinh cầu ấy, vì sao ấy, với Chế Lan
Viên chính là chiếc sọ người. Chiếc sọ người – biểu
tượng hóa niềm siêu hình thăm thẳm, bao hàm ba trạng thái: cô
đơn – cái chết – hư vô từng thách đố triết học và tôn
giáo giáo. Chế Lan Viên dùng thi ca giải mã chiếc sọ người
mong tìm tôn giáo và triết học, tìm bí mật phía bên kia tồn
tại, như tìm nỗi không đâu vơ vẩn kiếp người. Với
<em>"Điêu tàn"</em> bầu trời kia cũng mang hình hộp sọ. Tinh
cầu – sọ người bay lơ lửng trong không gian Chế Lan Viên,
như một thứ hạt giống thi ca gieo vãi hư vô lên từng trang
giấy. Đến nỗi nhà thơ muốn cắn chiếc sọ người vỡ tan
như cắn hạt bồ đào: <em>"Ta muốn cắn mi ra từng mảnh
nhỏ/Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô"</em> (Cái
sọ người). Hãy nghe Chế Lan Viên nói về công việc trước
tác của mình: <em>"Nền giấy trắng như xương trong bãi
chém/Bỗng run lên kinh hãi dưới tay điên/Tiếng bút đưa rợn
mình như tiếng kiếm/Nạo những thành sọ trắng của ma
thiêng"</em> (Tiết trinh). <em>"Điêu tàn"</em> mang âm hưởng
sọ người cọ nhau ken két, như cái chết cũng biết nghiến
răng.
Trong lời tựa <em>"Điêu tàn"</em>, Chế Lan Viên viết:
<em>"Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm
thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ không phải người. Nó là
Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là
Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại… Nó gào, nó thét,
nó khóc, nó cười. Cái gì của nó cũng tột cùng. Nó gào vỡ
sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào máu mắt, nó cười tràn
ra cả tủy là tủy. Thế mà có người tự cho là hiểu được
nó rồi đem nó so sánh với Người…"</em>. Có thể nói đây
là tuyên ngôn của trường thơ <em>"Loạn"</em> bấy giờ.
Một số yếu tố trong tuyên ngôn trên còn ứng với Chế Lan
Viên suốt đời ví như mệnh đề <em>"Cái gì của nó cũng
tột cùng"</em>. Chịu ảnh hưởng thi pháp Beaudelaire và Edgar
Poe, cộng với siêu hình tôn giáo và thơ Đường, nhà thơ đã
làm nên Tháp Chàm <em>"Điêu tàn"</em> hay đến kinh hãi.
Những tuyên ngôn thơ trên của Chế Lan Viên, phải chăng là sự
mô phỏng Beaudelaire – kẻ gây sốc, <em>"nhà thơ bị nguyền
rủa"</em> (le poète maudit), loài <em>"Ác hoa"</em> dị
thường, mở đầu trào lưu thơ hiện đại Pháp bằng cách phá
bỏ mỹ học hài hòa cổ điển Apollon, nghiêng về mỹ học
phản hài hòa, xộc xệch, rách rưới, mê sảng Dionisos, mở ra
một thế giới thi ca phi thường, rùng rợn, cuồng điên với
tuyệt đỉnh đàn bà, hư vô và cái chết. Lấy màu vàng sắc
không nhà Phật nhuộm lên thi pháp Beaudelaire, kết hợp linh
diệu Christ, sắc không nhà Phật và niềm hư ảo Ấn Độ giáo
Tháp Chàm, Chế Lan Viên muốn đập vỡ sọ ma Hời tìm hư vô,
tìm cái vô cùng, vô hạn. Nhưng ông đã không tìm thấy gì
ngoài nỗi cô đơn co rút lại nơi hồn mình, như loài chim cú
siêu hình chui vào ruột đêm lẩn trốn. Nhà ma học Chế Lan
Viên tu với ma, sống với ma ngay từ tấm bé, mong tìm kiếm
bản thể trầm luân mình, như nhà triết học Hy Lạp Diogène
thế kỷ thứ IV trước công nguyên đốt đèn đi tìm một
người hư ảnh giữa ban ngày. <em>"Điêu tàn"</em> tập thơ
mê sảng nhất của văn học Việt Nam, biểu hiện thiên tài kỳ
lạ Chế Lan Viên, là niềm sửng sốt, là cú sốc của mỹ học
cái chết độc nhất vô nhị vậy.
Cách Mạng Tháng Tám vĩ đại 1945 đã cuốn mọi trào lưu tư
tưởng, mọi trường phái văn chương vào đứng dưới bóng cờ
đỏ sao vàng. Chế Lan Viên phải làm một lúc hai cuộc kháng
chiến: chống Pháp và chống con ma Hời siêu hình từng ám hồn
ông. Cuộc chia tay giữa Chế Lan Viên với con ma xó cô đơn
thật quyết liệt, đớn đau, quằn quại, rớm máu suốt 15 năm,
bằng với số năm lưu lạc của Thúy Kiều. Tư tưởng nhà thơ
đã đi về phía con người, về phía nhân dân, phía kháng
chiến, nhưng tâm hồn ông còn bị ma Hời đeo bám, cứ thập
thò như cua cáy giành giật những giấc mơ, những suy tưởng
trong ông. Cuộc chiến đấu giữa chàng Faust - Chế Lan Viên với
con quỷ siêu hình để giành lại quyền sở hữu linh hồn mình
trong thi ca là cả một chặng đường thương khó. Cây thập tự
tôn giáo đè lên đôi vai tinh thần nhà thơ nặng nề hơn một
số phận, hệt như nó là một phần cơ thể khổ đau ông phải
mang theo trong câm nín. Nhưng Con Người trong ông đã tuyên
chiến, đã mở giao thông hào đánh lấn, giành từng tấc đất
tâm hồn lại từ phía lô cốt hư vô. Và cuối cùng, con ma siêu
hình đã bỏ chạy, đã hoảng loạn thoát ra từ chính những
vết thương tâm hồn nhà thơ. Cuộc giằng xé, vật lộn giữa
ma hời với con người suốt 15 năm đã thai nghén, sinh nở ra thi
phẩm <em>"Ánh sáng phù sa"</em> năm 1960 thật kỳ diệu, như
thể sau khi bị đóng đinh trên câu rút siêu hình, nhà thơ đã
phục sinh.(Thi phẩm này của Chế Lan Viên vẫn còn khoảng bảy
đến tám bài thơ chính trị dung tục thô thiển, ví như bài
<em>"Ngô tổng thống trong dinh thuốc độc"</em> làm giảm giá
trị tập thơ).
Vâng, <em>"Ánh sáng và Phù sa"</em> quả là một Chế Lan Viên
khác hẳn với Chế Lan Viên <em>"Điêu tàn"</em>, một thi pháp
khác, một phong cách khác, một thể xác khác,một linh hồn
khác, một ngôn ngữ khác, mỹ học khác, một khổ đau khổ và
hạnh phúc khác. <em>"Ánh sáng và phù sa"</em> lập tức trở
thành hiện tượng văn học kinh động thời ấy, một niềm
sửng sốt thứ hai Chế Lan Viên mang lại cho thi đàn Việt Nam.
Qua dằn vặt, chiêm nghiệm bản thân, với chút ảnh hưởng từ
các nhà thơ Eluard, Aragon, Neruda, Ritsos, Hitmet…, Chế Lan Viên
đã làm cho Thơ Mới mới thêm một lần nữa kể cả nội dung
và hình thức, kể cả cảm thức sáng tạo và thi pháp. Nhà thơ
nới rộng không gian Thơ Mới từ tháp ngà nghệ thuật ra giữa
vòm trời Nhân Dân, Tổ Quốc, cùng với thế hệ các nhà thơ
chống Pháp, đưa thơ từ cặp mắt mỹ nhân, từ nỗi buồn son
phấn, rong rêu xuống với đám đông, với bùn đất, với mồ
hôi, nước mắt và máu xương cuộc đời thường: <em>"Con
gặp lại nhân dân như nai về suối cũ/Cỏ đón giêng hai chim
én gặp mùa/Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa/Chiếc nôi
ngừng bỗng gặp cánh tay đưa"</em> (Tiếng hát con tàu). Xưa
nhà thơ trầm mình trong cái chết, trong hư vô sọ người, thì
nay ông được tái sinh trong ròng ròng sự sống, trong thực tại
nụ cười và nước mắt, trong sự hòa điệu với triệu
người: <em>Tôi yêu quá cuộc đời như con đẻ/Như đêm xuân
người vợ trẻ yêu chồng".…"Tâm hồn tôi khi Tổ Quốc soi
vào/Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ"</em> (Chim lượn trăm
vòng). Nếu không có Cách Mạng Tháng Tám chắc Chế Lan Viên
vẫn còn phải núp vào Chiêm Thành mà khóc than nỗi vong quốc xa
xưa, vẫn còn tha thẩn ngoài bãi tha ma vong thân trên chính quê
hương mình, sống trong vay mượn kể cả nỗi đầu rơi máu
chảy, vay mượn cả thân phận mất nước. Đến Tổ Quốc mình
ông cũng không dám gọi tên lên, không dám thốt lên lời sông
Hồng, sông Mã, không dám gọi Trường Sơn lên mà hùng vĩ hồn
mình. Phải chăng đây chính là ý nghĩa cứu chuộc, ý nghĩa
nhân văn cao cả nhất mà Cách Mạng Tháng Tám mang lại cho không
chỉ Chế Lan Viên? Vì vậy, nhà thơ lúc nào cũng rưng rưng nhớ
ơn sự tái sinh của Cách Mạng, rơm rớm chạnh niềm đau cũ:
<em>"Thuở nước mất nằm mơ còn thấy khóc/Nỗi đau đón
đường cướp hết vàng ta"</em> (Nỗi đau ngày cũ). Mỹ học
<em>"Ánh sáng phù sa"</em> là mỹ học đớn đau, mỹ học
của hạt nảy mầm phải tự chết bản thể hạt đi để tái
sinh một đời sống mầm, bản thể mầm thi tứ. Nhà thơ đã
về lại sông Ngô siêu hình xưa để lấy lại vàng tâm hồn
mình, lấy lại nước mắt hư vô xưa chợt hóa ngọc trai tư
tưởng bây giờ: <em>"Xưa ở sông Ngô ta đánh mất vàng/Đánh
mất tâm hồn ta. Nhưng hiện tại/Như sông Tương đã trả vàng
ta lại/Khắp đôi bờ tư tưởng chói hào quang"</em> (Vàng của
lòng tin). Từ <em>"Ánh sáng phù sa"</em>, Chế Lan Viên nhân
lên hàng chục tập thơ kỳ vĩ khác mà nghệ thuật thi ca đã
đạt tới mức toàn bích của sự kết hợp hài hòa giữa phù
sa của cảm xúc và phù sa tâm hồn, ánh sáng của trí tuệ. Ông
có công làm thi ca Việt Nam nồng cháy hơn, mê cuồng hơn, trí
tuệ hơn, sang trọng và quý phái hơn. Quả thực, <em>"Ánh sáng
và phù sa"</em> là niềm sửng sốt thứ hai, là đỉnh thứ hai
Chế Lan Viên vậy.
Một con người 69 tuổi đã để lại hai lần trong đời mình
hai sự kiện có tính chất cột mốc: <em>"Điêu tàn"</em> năm
1937, <em>"Ánh sáng và phù sa"</em> năm 1960, hai lần làm sửng
sốt thi đàn, trưng ra hai ông Chế Lan Viên khác nhau như nước
với lửa, như hai đỉnh thi ca ngược nhau: một đỉnh âm siêu
hình lộn ngược xuống đất và một đỉnh cao hiện thực vút
lên trời, tưởng đến thế đã vĩ đại lắm, đã thiên tài
lắm. Không dè, Chế Lan Viên sau khi chết đi vẫn còn làm kinh
dị, làm sửng sốt nền thơ lần thứ ba, quá tam ba bận, bằng
ba tập <em>"Di cảo thơ I , II và III"</em> khổng lồ ngoài
sức tưởng tượng. Đỉnh thơ thứ ba hậu Chế Lan Viên này là
đỉnh sâu, đỉnh lộn trái tâm hồn thi hào ra chiều thứ tư
của không gian thơ: <em>"Bắt chước đào lộn hột/Vỏ tâm
hồn lộn tuốt/Bớt bớt điều kiêng khem"</em> (Lộn trái).
Quá trình lộn trái sự vật, lộn trái tâm hồn và tư tưởng,
có khi lộn trái cả sự lộn trái, phản biện cả sự phản
biện không chỉ là phẩm chất của nhà tư tưởng, mà còn của
chính nhà thơ. Hơn nữa, Chế Lan Viên lại là nhà triết học
của thi ca, lấy thi ca để làm mềm mại và dịu dàng lại hòn
đá tảng triết học, như quá trình tâm hồn hóa tư tưởng,
cảm xúc hóa tư duy. Từ bỏ Ma thuở <em>"Điêu tàn"</em> để
đi theo Người nơi <em>"Ánh sáng và phù sa"</em>, cuối đời,
nhất là trước lúc chết vài ba năm, Chế Lan Viên rút vào Viên
Tĩnh Viên tạm xa lánh Người để tự theo Mình, để học theo
phương pháp bất tử của loài rắn, thử lột xác tâm hồn
mình, lột xác cả niềm tin và sự hoài nghi mà Marx cho là phẩm
chất đẹp nhất của người trí thức, lột xác cả sự lột
xác, Anti cả cái Anti. Trong bài <em>"Tự tìm mình"</em> viết
năm 1997, nhà thơ vừa tìm Mình, vừa hoài nghi Mình: <em>"Có
một kẻ vô tình trong gió nó là ai kia/Có một kẻ hữu hình
trong mùi hương, đấy là anh, chẳng lẽ/Có một cái gì đâu
đó/Anh tìm anh thử hỏi làm gì/Tìm phiên bản nào rồi anh cũng
đốt đi"</em>. Đúng là Chế Lan Viên <em>"Cái gì…cũng tột
cùng"</em>, tột cùng Chết, tột cùng Sống, tột cùng chính
trị, tột cùng hư vô, tột cùng đánh giặc, tột cùng hoài nghi
bản thân mình, như suốt đời ông mải tìm chiều thứ tư của
tồn-tại-tôi, chiều thứ tư của cá nhân – thời gian – tôi,
như bài "…Và chiều thứ tư" ông viết năm 1997: <em>"Cái
individu anh có ba chiều không gian, một chiều nước chảy/Tất
cả những gì mất đi là mất đi trong chiều ấy/Đừng nghe,
đừng nghe, đừng nhìn, đừng nhìn, đừng hỏi, đừng hỏi/Cái
chiều hư huyễn ấy/Nó mới thật là anh đấy: thời
gian"</em>.
Nền thơ Việt Nam tự hào vì có Chế Lan Viên, một mình mở
rộng thơ ra tất cả các đề tài, từ sao trời đến con đom
đóm, từ con người đến con ma, như quá trình lửa – phản
Prométhée – trong bài <em>"Prométhée"</em> viết năm 1987:
<em>"...Phát minh ra tro phản lửa của mình .../ Phải có tro thì
mới có ngày ngọn lửa hồi sinh/Có tro tàn vải liệm/Phủ lên
những gì đã cháy, những hoàng hôn và cả những bình
minh".</em>. Thảo nào, trước khi Chết, Chế Lan Viên di chúc lại
hãy đốt xác ông thành tro bỏ vô chùa: <em>"Tro bao giờ cũng
tồn tại lâu hơn lửa/Lửa hoan lạc một giây, tro cay đắng
một mùa/Anh thiêu tất cả quá khứ thành tro là thơ đấy/Và
thiêu hồn anh sau này không là lửa, lại là tro"</em> (Tro và
lửa -1988). <em>"Di cảo Thơ"</em> chính là quá trình tro hóa
ngọn lửa thi ca một đời thiêu cháy Chế Lan Viên.
Chế Lan Viên – thiên tài đầy mâu thuẫn: vừa là lửa vừa
là nước, vừa mê Phật, vừa tôn sùng Chúa, vừa say Cách Mạng
và rồi nghi ngờ Cách Mạng, coi Cách Mạng chính là một tai
họa cho dân tộc, đất nước. Ông tự xẻ mình ra làm hai mảnh
thực tại và siêu hình, vừa theo gót Dante đạt tới ba cõi:
địa ngục, luyện tội, thiên đàng, vừa theo Goethe phiêu du tìm
niềm vui cõi Người-thực-tại – Faust. Rốt ráo tinh thần
<em>"Di cảo thơ"</em> chừng như giấu cả trong bài tứ tuyệt
<em>"Tháp Bay-on bốn mặt"</em> này đây: <em>"Anh là tháp
Bayon bốn mặt/Giấu đi ba còn lại đấy là anh/Chỉ mặt đó
mà nghìn trò cười khóc/Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn
hình"</em>. Ba chặng đường thơ quá sức đồ sộ làm sửng
sốt thi đàn của Chế Lan Viên đi từ Ma qua Người đến Mình,
rồi trước khi chết dường như ông lại lộn về đối thoại
với Ma xưa, thương tiếc Ma xưa đã bị Người lừa đảo?
Phải chăng hành trình khổ đau sinh nở kia chỉ mới là gương
mặt Thi Ca nhìn thấy của một Brahma - Sáng tạo Chế Lan Viên?
Còn ba gương mặt Brahma siêu hình khác ông phải đau đớn chôn
cất trong hồn, nén chúng vào bản thể như nén cà nén dưa, tự
giấu hư vô mình đi mà tồn tại, giấu đi cả Siva hủy diệt
và Vishnu bảo tồn; như giờ đây Chế Lan Viên hằng sống bằng
cách tự giấu mình trong bình tro bé như bình mực của cái
chết tại tháp chùa Vĩnh Nghiêm, đặng bất tử trên Niết Bàn
Thi Ca. Thương thay Chế Lan Viên, chết rồi mới được đi tu,
mới được vào chùa làm một Phật tử có tên là tro cốt.
Hành trình tới cửa Phật của Chế quả là một hành trình kinh
hãi: bỏ mác lê (đao, giáo) xuống mà thành Phật được chăng?
<strong>Trần Mạnh Hảo</strong>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11031), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét