Chế Lan Viên là một nhà thơ mà người yêu kẻ ghét ngang nhau.
Những người căm ghét Chế coi ông là hung thần chuyên đánh anh
em để lập công dâng đảng. Phe thù Chế Lan Viên chính là phe
đổi mới theo ông Nguyễn Văn Linh cởi trói cho văn nghệ và
trí thức. (Ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã công khai thừa
nhận đảng trói văn nghệ sĩ và trí thức khá lâu rồi, nay ta
làm cách mạng cởi trói). <div class="boxright200"><img
src="http://danluan.org/files/u23/clv.jpg" /><div class="textholder">Chế
Lan Viên (1920-1989)</div></div>Sau khi đảng thấy cởi trói cho các
nhà văn là hớ, là lợi bất cập hại, liền trói đám cầm
bút lại cho dễ quản lý. Chế Lan Viên đã thực hiện lệnh
của đảng mà gây chiến với Nguyên Ngọc và Hoàng Ngọc Hiến
bằng đao pháp tưng bừng khói lửa trên báo Văn Nghệ. Tất
nhiên, kẻ chiến thắng là người của đảng. Mối thù của phe
đổi mới với Chế Lan Viên rất lớn, đến nỗi vì con người
Chế mà họ toan phủ nhận tài thơ của ông. Chỉ sau khi Chế
Lan Viên mất, ba tập thơ di cảo khổng lồ của ông được nhà
văn Vũ Thị Thường (là vợ) công bố, trưng ra một Chế Lan
Viên khác, một Chế Lan Viên phản Chế Lan Viên, một Chế Lan
Viên dùng thơ để phản biện chính trị, để nói toẹt ra
rằng ông đã bị lừa (bài <em>"Bánh Vẽ"</em>), ông đã có
tội với nhân dân (bài <em>"Trừ đi"</em>- các ông Cộng vào
thì Chế ta Trừ đi), ông đã đi nhầm đường…
Sự nhận thức lại rất quyết liệt này của Chế Lan Viên mà
ông gọi là "Lộn trái", là đảo chiều, là phản nhận
thức, phản siêu hình, phản đề, rất đúng với nguyên lý
của phép biện chứng Mác-xít, tôn trọng và đề cao yếu tố
đối lập, yếu tố phản đề, phản biện trong nhận thức
luận: <em>" Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các
mặt đối lập thống nhất"</em>. Không có sự tham gia của
đối lập trong nhận thức, trong mọi hoạt động xã hội,
được coi như là phản Mác-xít! Sau khi ba tập di cảo thơ ra
đời, hầu như phe đổi mới đã nhận thức lại về Chế Lan
Viên; rằng hóa ra Chế mới là tổ sư đổi mới; rằng Chế
chỉ giả vờ yêu đảng để yên thân mà viết di cảo thơ,
lật lại con đường ông đã bị đi chứ không phải được
đi…
Trong đời mình, Chế Lan Viên đã đánh nhiều người nhưng đã
cứu nhiều người. Cuối năm 1974, trong rừng miền Đông Nam
Bộ, nhà thơ Thanh Thảo có in bài thơ <em>"Người lính nói về
thế hệ mình"</em> trong báo Văn Nghệ Giải Phóng do nhà văn
Anh Đức làm tổng biên tập. Sau khi báo ra, ông Trần Bạch
Đằng đọc bài thơ này của Thanh Thảo, liền nổi trận lôi
đình, quy kết bài thơ phản động, nối giáo cho giặc. Thanh
Thảo nguy to, có thể bị bỏ tù ngay trong rừng vì một ông
<em>"Tố Hữu con"</em> là anh Tư Ánh (Trần Bạch Đằng) phán
như thế. May quá, giữa Hà Nội, Chế Lan Viên đọc bài thơ này
của Thanh Thảo và thấy bài thơ rất tốt, sao lại <em>"giết
nó"</em>? Chế bèn tìm được chùm thơ khá hay của Thanh Thảo
gồm ngót chục bài, liền in tất tần tật trên tạp chí
<em>"Tác Phẩm mới"</em> cứu Thanh Thảo thoát án tù trong
rừng Nam Bộ.
Năm 1982, trong trại viết văn ở Vũng Tàu do Hội nhà văn VN tổ
chức, chúng tôi (TMH) có viết bài thơ: <em>"Cho một nhà văn
nằm xuống"</em> nhân việc nhà văn Nguyên Hồng mất. Ngay lập
tức bài thơ lọt tới tay ông Hà Xuân Trường và ông Hoàng
Tùng (ông HXT là ủy viên trung ương đảng, trưởng ban văn hóa
văn nghệ trung ương, ông Hoàng Tùng là ủy viên trung ương
đảng, trong ban bí thư trung ương đảng) tuyên bố phải bỏ tù
tên phản động số một Trần Mạnh Hảo ngay trong cuộc họp
giao ban và đưa tin lên báo; rằng ngày xưa đảng trao súng cho
tên Hảo đi đánh Mỹ, nay hắn dám dùng súng của đảng bắn
vào đảng. Trần Mạnh Hảo tôi biết chắc chắn mình sẽ ở
tù.
Chế Lan Viên là người đầu tiên cứu chúng tôi bằng cách
gọi điện đi khắp nơi cho các ông to. Ông còn viết thư tay cho
ông Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Tố Hữu (đưa thư cho chúng
tôi đi gửi bưu điện) nói đừng bắt thằng Trần Mạnh Hảo,
sẽ rất không tốt về chính trị, rằng đảng sẽ bị mang
tiếng xấu là đàn áp quá mức nhà văn chỉ vì một bài thơ
bất mãn ấm ớ…Ông viết cả thư cho Hoàng Phủ Ngọc Tường
nhờ gọi đi các nơi cứu thằng Trần Mạnh Hảo. Trong thư
viết cho Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông dùng hai câu thơ của Đỗ
Phủ thương Lý Bạch, khi Lý Bạch bị vua bắt đeo gông, đầy
đi Qúy Châu để nói về Trần Mạnh Hảo đang lâm nguy:
<em>"Thế nhân giai dục sát/Ngô ý độc liên tài"</em> (mọi
người đều muốn giết/Riêng lòng ta thương tài). Chúng tôi
còn giữ lá thư của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rất kỹ
về việc này. (Việc chúng tôi thoát án tù năm 1982 còn do
được nhiều <em>"quý nhơn phù trợ"</em> ví như nhà thơ Lưu
Tọng Lư, nhà báo Thép Mới, ông Võ Văn Kiệt và ông Võ Trần
Chí <em>"hai ông Nam Kỳ này là Ủy viên Bộ Chính trị từng
là Bí thư thành ủy TP.HCM"</em>…)…Vâng, Chế Lan Viên đích
thị quê CHOA là người Quảng Trị, nơi <em>"Những đồi tranh
ăn độc gió Lào"</em>…</div>
Xin bạn đọc vào hai bài chính:
<h2><h2>Phần I: Chế Lan Viên - Người Làm vườn vĩnh
cửu</h2></h2>
<strong>Trần Mạnh Hảo</strong>
Gia đình văn chương họ Chế
Ông đang ngồi nấu cám heo trong bếp, thấy khách tới, vội
chạy ra mở cổng. Ông xin lỗi khách, chờ tí, vì nhà đi vắng
hết, vả nồi cám heo đang sôi ở mức cao trào. Với gương
mặt mồ hôi nhễ nhại, ông gân sức lực của người gần
bảy mươi tuổi, ngoáy tít nồi cám heo bằng chiếc đũa cả
sừng sỏ dáng vẻ rất chuyên nghiệp, như thể ông khiêu vũ
cái vũ điệu của bếp núc.
Mới ngày hôm qua, từ cuộc hội thảo văn học tại Bồ Đào
Nha về, với bao nhiêu chuyện trên trời, dưới đất, nào mây
bay đi, nào hồn ở lại, nào các thiên hà có biết suy tưởng
hay không đến sự ô nhiễm môi trường ăn mòn nhân tính…
Vâng, từ chân trời của thơ ca thế giới, với những hội
nghị quốc tế, gặp gỡ đàm đạo với những nghệ sĩ lừng
danh, những khách sạn sang trọng, những bữa ăn đắt tiền…
Chế Lan Viên trở về với chân trời của riêng ông với gà
heo, vườn tược và những bản thảo dập xóa như vườn cây
bị nghìn bão đi qua. Từ năm 1937, năm tập thơ <em>"Điêu
tàn"</em> ra đời cho đến ngày ông mất, Chế Lan Viên đã
bày, đã soạn cho người Việt Nam, cho văn hoá Việt Nam những
bữa ăn thơ thịnh soạn, ngon lành, trìu mến và sang trọng;
chúng ta nào đã một lần biết được bếp núc thi ca ông vất
vả, tần tảo và cực nhọc biết bao. Vâng, đôi khi văn học
cũng cần phải có những nồi cám heo của mình, với những tro
cùng trấu, những củi cùng lửa, những muỗi cùng ruồi, những
mồ hôi cùng nước mắt…
Đúng như nhà phê bình Hoài Thanh nhận xét từ năm 1941:
<em>"Giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở giữa thế kỷ hai
mươi, Chế Lan Viên đứng sừng sững như một Tháp Chàm, chắc
chắn và lẻ loi, bí mật… đột ngột xuất hiện giữa làng
thơ Việt Nam như một niềm kinh dị…"</em>. Từ độ 16 tuổi
đến lúc viên tịch, quả thực, Chế Lan Viên vẫn chắc chắn
và lẻ loi, bí mật, thậm chí sau khi hai tập thơ di cảo đồ
sộ của ông ra mắt, ông vẫn tiếp tục để lại sau mình vô
vàn niềm kinh dị cho người đọc như lời tiên tri của Hoài
Thanh.
Như một lữ hành đơn độc, Chế Lan Viên đã lầm lũi vượt
qua sa mạc siêu hình, đi từ <em>"thung lũng đau thương đến
cánh đồng vui"</em> (đầu đề một bài viết của C.L.V.). Ra
đến cánh đồng vui rồi, sao đôi lúc gương mặt ông vẫn
đầm đìa giọt khóc? Và thơ ông, kỳ lạ thay, vẫn bàng bạc
một nỗi đau như mưa phùn, như đom đóm, như thể những vết
thương xưa của ông chưa chịu khép miệng mà chúng đang ca hát.
Có lẽ, chính vì nỗi đau ma ám ấy, cái nỗi buồn thương
định mệnh ấy đã làm nên cái bất tử của tập thơ
<em>"Ánh sáng và phù sa"</em> do Nxb. Văn học ấn hành năm
1960, với số lượng phát hành kỷ lục: 6.070 cuốn. Tập thơ
đã gây một tiếng vang cực lớn thời đó, chỉ trong vài ba
tháng đầu đã bán hết. Có thể nói không ngoa rằng, <em>"Ánh
sáng và phù sa"</em> đã thành cái mốc chuyển biến quan trọng
của thơ Chế Lan Viên nói riêng, của thơ Việt Nam nói chung
(trong tập thơ còn một số bài dở vỉ chính trị thô thiển,
ví như bài: <em>"Ngô tổng thống trong dinh thuốc độc"</em>).
Sau hai mươi lăm năm, kể từ Thơ Mới ra đời, đến lúc
<em>"Ánh sáng và phù sa"</em>, thơ Việt Nam đã xuất hiện
một thi pháp mới, một giọng điệu mới, một cách cảm nghĩ
mới. Rất tiếc, một tập thơ quan trọng như thế của thi ca
hiện đại, ba mươi tư năm rồi chưa được tái bản. Có thể
khẳng định một cách chắc chắn rằng, hầu hết các nhà thơ
trên dưới năm mươi tuổi sống trên đất Bắc, những bước
đầu chập chững làm thơ, đều có chịu ảnh hưởng của
<em>"Ánh sáng và phù sa"</em>.
Cái chết, niềm hư vô và niềm cô đơn là nỗi ám ảnh khôn
cùng của thơ ông ngay từ thời niên thiếu. Tâm hồn ông hầu
như đã biến thành vỏ ốc của sự chết, để ngọn gió hư
vô thổi vào và ngân lên bài ca bi ai, hoan lạc của bản hòa
tấu cô đơn. Mới mười lăm, mười sáu tuổi, ông đã đi lại
trên mặt đất như một cái Tháp Chàm. Ông mơ trong cả khi
tỉnh thức. Đôi mắt của hồn ông chỉ nhìn thấy thế giới
siêu hình, toàn là những bóng ma, những âm hồn phiêu dạt,
những óc phọt, những xương trào, máu cuộn. Ông coi cái thế
giới bên kia mới là đích thực hơn cái thế giới bên này, tin
vào hư mà ngờ thực. Rất may là trời chưa kịp ban cho ông
đôi cánh. Nếu không, ông đã bay lên tít mù xanh thẳm, biến
thành tinh cầu vô định, nơi con người cũng như thơ ca không
còn một chút trọng lượng. Và vì chưa có đôi cánh, ông đã
coi vòm trời kia bất quá cũng chỉ là một bóng cây, các vì
tinh tú cũng chẳng khác gì một trái ổi:
<em>"Kìa em trông một vì sao đang rụng
Hãy nghiêng mình mà tránh đi nghe em…"</em>
(Đêm tàn)
Ông hợp nhất mình với vũ trụ như làn hương hợp nhất với
vòm trời. Tuy nhiên, ông thừa biết trò chơi của tạo hoá: vũ
trụ vô tận kia cũng mong manh như một cánh phù dung, nên khuyên
người yêu cũng chính là để khuyên mình. Những vì sao chói
ngời và run rẩy kia, mi có thể rụng như sung vào tình yêu của
ta bất cứ lúc nào. Quả thực, mỗi ban mai, những vì sao kia
rụng đâu hết cả. Và vì vậy, chừng như những người đang
yêu vì phải né tránh cái rơi rụng của các tinh cầu, nên dáng
đi của họ có vẻ nghiêng nghiêng, nếu không muốn nói rằng
như vệt nắng xiên khoai… Tuồng như Chế Lan Viên suốt đời
phải đi kiểu nắng xiên khoai như vậy, để né tránh các tinh
cầu hư vô rớt xuống từ bầu trời cô đơn, cắt rừng siêu
hình ra mà tìm đến con người. Và khi ông tìm thấy con người,
ông đã gặp được nỗi đau. Nỗi đau ấy ông gọi là hạnh
phúc.
Những ngày hoàn tất tập thơ <em>"Ánh sáng và phù sa"</em>,
Chế Lan Viên vừa trải qua bệnh phổi nặng. Đến nỗi ông tin
rằng mình sắp chết. Chừng như niềm hư vô như một con mọt
đang ăn rỗng ngực ông như nó từng ăn rỗng cả vũ trụ. Bên
cạnh đó, số phận đã bắt ông phải uống chén đắng của
cuộc tình tan vỡ, khiến ông gần như không còn nơi bám víu
nữa. Nhưng, ở bên bờ tuyệt vọng, ông đã may mắn gặp
được nàng thơ của mình. Nàng thơ đó có tên là cuộc sống.
Chừng như mỗi lần cái chết tính gõ cửa hồn ông, ông lại
có thơ hay. Có thể nói, trong phản ứng hoá học của tư
tưởng và cảm xúc để tạo ra một chất thứ ba là thi ca, cái
chết hầu như là một chất xúc tác kỳ diệu của Chế Lan
Viên. Và những cơn đau chính là nhiệt độ, là lửa để tạo
ra phản ứng thi ca của ông. Ông đã có những câu thơ rất hay
về đất nước, về con người, những câu thơ ám ảnh suốt
một thời trai trẻ của tôi và nhiều bạn bè khác:
<em>"Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét"</em>
…
<em>"Con nhớ em con thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ…"</em>
…
<em>Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn"</em>
(Tiếng hát con tàu)
Đây là cái nhìn của ông, một người miền Trung về đất
Bắc:
<em>"Chỉ còn máu sông Hồng trong quả ngọt
Con chim ăn thấy vị phù sa trong tiếng hót"</em>
(Giữa tết trồng cây)
Ông nhìn chân trời trong bài "Đọc Kiều":
<em>"Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên" </em>
Ông nhìn thấy được tiếng chim và nghe được mùi hương quả
chín từ thẳm xa đưa tới, trong một tình thương bình dị mà
thẳm sâu đến sững sờ:
<em>"Tiếng cu xa gáy đến phòng em
Bóng nhãn theo vào với tiếng chim
Bệnh yếu, em chưa về hái quả
Thương em, mùa lại đến đây tìm"</em>
(Tiếng chim)
Quả thực, Chế Lan Viên có rất nhiều thơ hay, tứ thơ hay,
nhiều bài thơ tứ tuyệt tuyệt vời, vừa rưng rưng sương khói
cảm xúc, lại vừa chói lòa ánh sáng của trí tuệ. Ông tìm
thấy ánh trăng sao trong bùn đất, thấy cái tơ non ngay trong linh
hồn đá sỏi; thấy cái nước, cái lạnh trong lửa và ngược
lại. Tôi đồ rằng ông đã suy tưởng bằng trái tim và xúc
cảm bằng bộ óc? Và vì vậy, Thượng Đế chừng như đã cấu
tạo nên cơ thể ông trong lúc Ngài mải làm thơ trong trạng
thái hưng phấn không bình thường, nên đã bỏ lộn trái tim
ông vào hộp sọ và đem bỏ hai bán cầu não ông xuống phía
ngực trái?
Có người hận ông vì điều gì đó đã cho rằng, tâm hồn
của ông <em>"Điêu tàn" </em>thuở nào như vầng trăng non đã
bị gấu ăn hết. Rằng, Chế Lan Viên chỉ còn thuần có bộ
óc. Rằng, ông chỉ làm thơ bằng trí thông minh, bằng trò chơi
ma giáo của chữ nghĩa…Do đó, thơ ông trong suốt như nước
phèn, không sinh vật cá tôm nào, thậm chí đến cả phù sa cũng
không sống nổi trong cái dung dịch thơ lý trí kia (!) Không,
vầng sáng của trí tuệ Chế Lan Viên đầy năng lượng sương
khói, cái lý trí đầy ắp bản năng của ông bao giờ cũng là
mảnh vườn màu mỡ cho thi ca sinh trưởng. Chúng ta thử đọc
qua một bài thơ tứ tuyệt: <em>"Tháp Bay-on bốn mặt"</em>,
ông đề dưới là viết trong mùa bệnh 1988, xem ông viết bằng
trí thông minh hay viết bằng tình cảm:
<em>"Anh là tháp Bay-on bốn mặt
Giấu đi ba, còn lại đấy là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình" </em>
Vâng, có thể ông đã viết bài thơ này bằng trí thông minh,
nhưng là trí thông minh của nỗi đau, của niềm nhức nhối.
Hồn ông hình như vẫn lảng vảng, lẩn khuất đâu đây như
ánh trăng, như hơi thở của ngôi nhà lý trí. Khi bài thơ đã
đạt được sự hay, nó không còn phân biệt đâu là tư
tưởng, đâu là cảm xúc, đâu là xác, đâu là hồn nữa.
Có người bảo Chế Lan Viên là người hai mặt trong đời và
hai mặt trong thơ. Người ta đã cố ý biến ông thành con thò
lò, thành con rối của thời thế, để đổ hết lỗi của
những người khác vào ông. Làm như chính ông đã gây ra những
thảm hoạ, những bi kịch của đời sống, những tráo trở
bất nhẫn của kiếp người. Họ vẽ chân dung ông ra thành con
ngáo ộp của văn nghệ, chuyên bắt nạt và sát phạt anh em
(cũng có một phần đúng) (!) Như bài thơ vừa trích dẫn, Chế
Lan Viên tuyên bố rằng ông như tháp Bay-on có đến bốn mặt
cơ, phải giấu đi ba mà chỉ bày ra một mặt. Đừng hiểu cái
mặt này theo ý nghĩa chính trị. Xét về ý nghĩa triết học,
mỗi con người quả tình có đến nghìn muôn bộ mặt giấu bên
trong. Cái con người bên trong của chúng ta đã được tôn giáo
diễn đạt bằng tượng Phật nghìn mắt, nghìn tay và dĩ nhiên
phải hiểu là có cả nghìn gương mặt. Vậy cái chuyện bảo
Chế Lan Viên có hai bộ mặt âu là chuyện thừa. Mỗi bộ mặt
của hồn thơ ông hầu như quay về những hướng khác nhau, kéo
bản thể của ông đi về muôn phía, toàn là những phía trái
ngược nhau. Do đó, cái con người tinh thần của ông từng phút
giây đều phải đau cái nỗi đau đoạn trường của Vệ Ưởng
bị bảy con trâu kéo nát thịt da về bảy hướng. Nỗi đau
chính là tình nhân đầu tiên và cuối cùng của thơ ông:
<em>"Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu
Ta đẻ ra đời sao khỏi những cơn đau"</em>
(Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?)
Từ <em>"Điêu tàn"</em> đến <em>"Ánh sáng và phù sa"</em>,
Chế Lan Viên phải mất gần hai mươi năm trăn trở, quằn
quại, vật vã trên con đường đau khổ như chữ dùng của nhà
văn Nga A-lếch-xây Tôn-xtôi. Ông đã phải bỏ đi, phải vượt
qua cả một tập thơ của mình: <em>"Gửi các anh"</em>. Tập
thơ này hầu như không phải do chính tay ông viết, nhợt nhạt
và ấm ớ, giản đơn và tầm thường. Nó chính là một tập
thơ đệm, một trạm trung chuyển, một gã ăn theo. Cũng giống
như trong các tập thơ hùng vĩ của mình, đâu đây vẫn thấy
thơ ông còn những bài đệm, những bài thơ trung tính, trung
bình, những bài thơ cảm xúc bò như sên và lý lẽ thì phóng
nhanh như tên lửa. Nhưng đó là chuyện bình thường, đừng vì
một hạt sạn bé con mà bỏ đi cả nồi cơm gạo tám thơm ngon.
Chế Lan Viên là một thiên tài. Mà tất cả các thiên tài đều
tự mâu thuẫn, nhiều giằng xé không sao giải quyết. Trong ông,
con sư tử và con nai ở chung với nhau, mèo phải hội họp với
chuột, cái ác và cái thiện là một cặp bài trùng chuyên môn
cãi lộn nhau, sự thuỷ chung và sự phản bội phải làm phép
hôn phối trước vị linh mục có tên là nhân tính. Ông phức
tạp hơn cái người ta hiểu bội phần. Thậm chí, cái sự
phức tạp, nhiêu khê, rối rắm, thậm chí hỏa mù của thế
giới nội tâm mình, ông cũng không tự nhận thức nổi.
Trong cuộc chiến tranh thành Troie của tư tưởng nhập cuộc,
của hành động dấn thân chống lại cái tình cảm hồng hoang
mù sương của tầng tháp cổ, của bóng ma trơi siêu hình, siêu
tưởng, tâm hồn ông bao giờ cũng là một bãi chiến trường
đầy ắp thương vong và chiến tích. Nói cho cùng, cuộc đời
của một thi sĩ kể ra cũng chẳng lấy gì làm sung sướng, toàn
là đau dùm và khổ mượn, lấy nỗi buồn của chim sa cá nhảy
làm nỗi buồn của chính mình, dại dột cõng vòm trời trên
lưng như cõng một em bé, để rồi ấm ớ luôn hồ nghi, luôn
tự hỏi mình đang đi, đang sống đây hay là một đám mây,
một quầng lau trắng?
Từ <em>"Ánh sáng và phù sa"</em> rồi qua các tập thơ lừng
danh: <em>"Hoa ngày thường – chim bào bão", " Đối thoại
mới", "Hái theo mùa", " Hoa trên đá"…</em> và hai tập
thơ di cảo, Chế Lan Viên luôn luôn phải đơn độc chống trả
với thế giới siêu hình. Ghét của nào trời trao của đó, cố
gắng đến cạn sức lực để chống lại cuộc chiến tranh
không giới tuyến, mà đám giặc - siêu - hình kia luôn luôn
<em>"mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"</em>, nên Chế Lan
Viên đến phút lìa đời vẫn không thoát khỏi ám ảnh siêu
hình. Bởi vì, cái siêu hình kia nó không nằm ở ngoài ông, mà
nó tồn tại, nó đóng tổng hành dinh trong chính tâm hồn ông,
trong tốc độ vũ trụ của tư duy ông, nó bày binh bố trận
trong hơi thở, trong cái nhìn bản năng ông. Cái mà trong đoạn
thơ dưới đây trích trong bài thơ <em>"Gió lật lá sen
hồ"</em> ông viết năm 1988, tức là trước khi mất một năm,
ông gọi là <em>"ai đó"</em>. Bởi, <em>"ai đó"</em> cứ
ném thia lia trong hồn ông:
<em>"Gió thổi lá sen hồ lật lại phía bên kia
Phía ấy gọi anh về
Về đâu chưa biết nữa
Chỉ biết hồn anh lật lại cùng với gió
Ở trong hồn ai đó ném thia lia" </em>
Ôi cái phía bên kia, cái phía gọi anh về, chắc là ông đã linh
cảm được phía ấy, nhưng vì sợ nên chưa gọi thẳng tên nó
ra mà thôi. Cái phía bên kia của mặt trăng, cái bên kia của
thế giới có tên là cái chết. Mà cái chết với Chế Lan Viên
chính là tên gọi thứ hai của cõi siêu hình. Từ bỏ cõi siêu
hình trở về cõi thực, Chế Lan Viên hầu như đã phải chết
đi một con người, cứ tưởng ông đã hồi sinh thành một con
người khác. Ai dè, sau những cơn vui chiến thắng, sau những hò
reo, những hoan hô, ca tụng, những hạnh phúc đầm đìa khóe
mắt, ông lại trơ ra chỉ còn lại một mình với con mọt hư
vô đang từng ngày gậm nhấm cuống phổi mình như chuột gặm.
Mà suốt mấy chục năm reo cười, hò hát bản anh hùng ca thời
đại hết sức tuyệt vời, hết sức chân thành, cảm động
nhưng đôi khi cũng lại ngô nghê, sống sượng và vờ vịt,
riết rồi cũng mệt, riết rồi cũng khản tiếng, tàn hơi. Nói
cho cùng, niềm vui hầu như không có khả năng tạo ra thế
giới; chỉ có tiếng cười hềnh hệch như pháo tết đâu có
thể tạo ra nghệ thuật. Vâng, cuộc đời thực kia, ông đã
yêu đến cạn cùng hai lá phổi, yêu như "đêm xuân người
vợ trẻ yêu chồng", yêu đến nghẹn thở, đến cuống quýt,
ồn ào. Tuy nhiên, chạy một mạch mấy chục năm như con trẻ
chạy theo con diều giấy, Chế Lan Viên đột ngột dừng lại suy
nghĩ về cái thế giới <em>"danh vọng ầm ào, vinh quang xí
xố"</em>! Và, nói đi rồi cũng phải nói lại mới toại lòng
nhau, chẳng ai nỡ bắt bẻ một thi sĩ suốt đời cúc cung tận
tụy cho lý tưởng, khi chợt một ngày nào đó trước nỗi
chết, ông theo phép biện chứng mà lộn trái các sự vật:
<em>"Xưa nghiêm túc, nghiêm trang
Giờ nửa khôn, nửa dại
Lộn lèo trong gió trái"</em>
<em>…"Chơi trò hề lăng nhăng
Bớt cái điều trọng đại" </em>
<em>…"Bắt chước đào lộn hột
Vỏ tâm hồn lộn tuốt
Bớt bớt điều kiêng khem"</em>
(Lộn trái – 1988, ba hôm trước ngày lật trái phổi ra cắt)
Cuộc đời thì vui vẻ thế, cớ sao thời thế lại hắt hiu như
một người đánh cờ với chính bản thân mình: <em>"Để anh
chơi chỉ có một mình"</em>. Nhà thơ chợt buồn đến lặng
cả người khi: <em>"Chả hiệp sĩ nào buồn xách gươm lên
ngựa/Gươm muốn làm lành cùng cối xay"</em>. (Don Quichotte).
Chế Lan Viên đã đi, đã chạy, đã bay mà không đuổi kịp
chân trời: <em>"Vọng phu tình ái, vọng phu thơ, vọng phu lý
tưởng"</em>. Bởi ông hiểu thấu cái nỗi đời trớ trêu,
tưởng được đó mà mất đó, vừa thấy TẠO xong, đã HOÁ
liền:
<em>"Ai có một chân trời
Và mất gì sau đó phía chân mây?"</em>
(Vọng phu)
Ngỡ đã tới đích của đời, ai dè đấy lại là khoảng
trống vô cùng của hư vô, cái lỗ kim siêu hình mà cả đời
ông chạy theo xâu chỉ hiện thực:
<em>"Tôi như người xâu sợi chỉ vào cây kim ngay trước mặt
Chỉ đã lọt rồi, kim bỗng lùi xa
Tôi đã bước lên một bước, Kim lùi thêm một bước"</em>
(Hồi ký bên bàn viết)
<em>"Có lúc chỉ lọt vào rồi lại sẩy
Xâu vừa xong gió tuột nửa chừng
Lỗ kim…lỗ kim trước mắt"</em>
(Xâu kim)
Giờ đây, ở thế giới bên kia, bằng sợi chỉ duy vật, hẳn
là Chế Lan Viên đã xâu được cái lỗ kim tôn giáo, cái lỗ
kim vô hình mà con lạc đà trong Kinh Thánh không thể nào chui
lọt. Cái lỗ kim ấy cũng có tên là chân trời, là xa vời lý
tưởng, là cõi đích thực của cái đẹp vĩnh hằng; nơi sinh
thời, suốt bảy mươi năm, ông đã kéo bản thân mình ra thành
sợi chỉ, lầm lũi và đăm đăm hướng tới như con chiên
hướng về tín ngưỡng của mình. Nhưng chừng như tất cả
đều vô vọng, tất cả còn vẫn ở đâu đâu. Phép lạ, có
lẽ chỉ có khả năng xảy ra sau khi ta ngừng thở. Rốt ráo,
tính nhân văn cao cả của thơ Chế Lan Viên chừng như đọng
lại thành phù sa, thành ánh sáng ở chỗ này đây. Ông ví mình
như con ong của thời thế, đến đây yêu xong là chết, vất
vả cực nhọc, cúc cung tận tụy, tận hiến, tận trung, tận
tình mà chẳng hề mang về cho mình một chút gì ngoài niềm
đau, thi ca và cái chết: <em>"Làm nên mật đạo đức/Chả hút
gì ở môi"</em>. Sinh thời, ông không hề ta thán oán trách gì,
đòi hỏi mè nheo gì. Nhưng, đối với thời đại này, ông quả
là một đại công thần về văn hóa. Ông đã đi hầu khắp
thế giới, trừ có Mỹ châu, để làm người thuyết khách,
người rao giảng của cách mạng, của cuộc kháng chiến cứu
nước. Trong thời chống Mỹ, tùy bút <em>"Những ngày nổi
giận"</em> có sức mạnh tinh thần của cả mười đạo binh.
<em>"Những bài thơ đánh giặc"</em>… của ông có sức mạnh
ngang hàng với sức mạnh của những dàn tên lửa Sam I, Sam II.
Sự đóng góp của ông thật vô cùng to lớn. Thế nhưng, ông
được đãi ngộ cái gì? Ông chưa hề được cấp nhà một
lần trong đời, không bao giờ có được cái điện thoại. Cho
đến khi mất, ông chưa hề được những nhà xuất bản nhà
nước tái bản một cuốn sách nào. Ông sống đạm bạc mà
thanh cao, tự tại nơi khuất nẻo xa xôi trong góc ngoại ô phía
Tân Bình. Đến nhà ông mùa mưa thì lầy lội, mùa khô thì bụi
mù. Ngôi nhà của ông quá đỗi đơn sơ, chẳng có gì quý giá
ngoài trang bản thảo.
Nhưng con người ông với tất cả nội lực phi thường, vẫn
thung thăng đi tiếp về phía chân trời của triệu người, từ
chân trời tháp cổ cô đơn của mình như lời khuyên của P.
Eluard. Ông là người "ăn cây nào rào cây nấy", chẳng như
ai kia <em>"được ăn, được nói, được gói mang đi, được
hòn chì ném lại"</em>. Thế mà có lắm người cuống cả lên,
làm như Chế Lan Viên đã ăn hết lộc của thiên hạ. Ông ăn
gạo nhà Chu và ông có bổn phận rào cây lúa nhà Chu. Bá Di,
Thúc Tề lên rừng ăn lá ư? Nhưng rừng kia cũng vẫn của nhà
Chu cơ mà? Điều đó giải thích thái độ quyết liệt, thậm
chí riết róng, dữ dằn đằng đằng sát khí của ông trong
hàng loạt bài tiểu luận về quan điểm nghệ thuật khi phải
tranh biện, cãi vã. Và vì vậy, có khá nhiều người không ưa
ông, rồi không ưa luôn cả thơ ông nữa. Nhưng ở đời, cái
gì ra cái ấy, sự nghiệp thi ca đồ sộ của ông đã thành tài
sản chung của dân tộc. Ông có thể vay trả, ân oán với
người đời ở chỗ khác; nhưng với thơ, ông mãi mãi là cây
đại thụ của thế kỷ hai mươi trong lịch sử văn học nước
nhà. Có thể ông đúng. Cũng có thể ông sai. Nhưng ông có
quyền bảo vệ những quan điểm chính trị của mình. Chỉ có
điều thuộc về tính khí, trong tranh biện, ông là người đôi
khi truy đối phương tới cùng, quyết không cho đối phương
đứng lại thở. Vâng, mỗi con người đều có những khiếm
khuyết để tồn tại, huống hồ ông lại là một tài năng
lớn, một người tầm cỡ mang trong mình tất cả thiện ác
của thời đại, tất cả nghịch lý của kiếp người, cái mâu
thuẫn không sao giải quyết của số phận. Trong bài thơ
<em>"Từ thế chi ca"</em>, ngay cả khi trăn trối mà ông còn
đáo để:
<em>"Những kẻ nguyền rủa anh sẽ buồn
Chả còn anh cho họ giết
Dao sẵn rồi họ không dễ để yên"</em>
Chế Lan Viên, xin ông hãy yên trí làm vườn lan nhà họ Chế ở
bên kia biển, bên kia trời siêu hình; bởi trên đời này,
người yêu ông, kính trọng và khâm phục ông nhiều vô kể.
Những người không ưa ông còn ở trong quá khứ. Nhưng ông và
thơ ông đã bay về phía tương lai của con người!
Chế Lan Viên là người Mác-xít. Vâng, cả Picasso, Romain Rolland,
Eluard, Aragon, Néruda…cũng đã từng là người Mác-xít (nhưng
cuối đời họ đã từ bỏ Mác-xít). Điều kiện tiên quyết
để trở thành người Mác-xít là phải theo chủ nghĩa vô
thần. Nhưng Chế Lan Viên lại cho rằng con người có linh hồn
và khi chết rồi, linh hồn con người bất tử. Ông trăn trối
lại cho vợ con sau khi ông chết, hãy đốt xác ông, lấy tro đem
gởi vô chùa. Và như vậy, chết rồi ông mới đi tu, mới trở
về với Phật mà khi sống ông không ngớt hồ nghi. Tôn giáo là
nỗi ám ảnh khôn nguôi suốt một đời ông sống. Nhà Mác -
xít Chế Lan Viên tự mâu thuẫn với nhà Phật học Chế Lan
Viên. Như trên đã nói, ông tập trung mọi nghịch lý, mọi mâu
thuẫn của thời đại quá nhiều tôn giáo mà thiếu đức tin
này. Đúng như lời của Jiri Wolker: <em>"Qua nhà thơ, người ta
thấy tầm cỡ thời đại mà ông ta sống"</em>. Chế Lan Viên
chính là một thời đại của thi ca của lịch sử xã hội
Việt Nam trong thế kỷ đầy đau thương, bi hài kịch mà đầy
hùng khí, đầy mê muội hèn hạ xấu xa. Tráng ca, anh hùng ca
cũng là ông, mà bi ca, khốc ca cũng lại chính là ông. Điều
đó làm ta dễ hiểu khi đọc những bài thơ làm giật thót mình
các phía như bài <em>"Trừ đi"</em> và <em>"Bánh vẽ"</em>
(Sẽ đọc sau bài này); thậm chí có nhà chính trị cực đoan
còn bảo họ Chế thực chất là <em>"phản động ngầm"</em>.
Phàm con người muốn biện chứng phải biết phản biện, muốn
tin tưởng, cần phải học được cách nghi ngờ. Mác cũng từng
khuyên người trí thức luôn phải biết nghi ngờ. Bởi vì khoa
học chỉ có thể là chính nó, khi nó tồn tại trong niềm nghi
hoặc của con người. Suốt một đời đi xuôi, trước lúc lìa
đời, con người cần phải đi vài bước ngược lại, quay lại
một chút mà ngẫm nghĩ, mà suy tưởng về thân phận mình. Vì
vậy, chúng ta càng yêu ông hơn vì cái nỗi đau đời, cái nỗi
buồn tủi, cái niềm biết thân, biết phận của mình rất chi
là người, là trần gian, rơm rác, bụi bặm, đời thường:
<em>"Anh đẽo tâm hồn thành con rối để yêu em
Anh hoá gỗ, hoá dây, hoá dại khờ, ngũ sắc
Tuồng tích ấy chú rối mình đủ khóc
Cần chi bàn tay nào đến giật giật dây thêm
Anh rối nước muốn lên bờ cùng rối cạn
Em đi xa, ao thương nhớ hoá đầy</em>
<em>… Anh đứng giữa lệ mình trơ trơ không dám khóc
Vui nỗi gì khán giả vỗ ran tay?"</em>
(Rối cạn và rối nước)
Bài thơ làm nhức nhối người đọc, huống hồ là người
viết ra nó phải đau, phải nhân tình thế thái biết là chừng
nào. Nói về mình khi chưa gặp cách mạng, Chế Lan Viên viết:
<em>"Lòng ta thành con rối/Cho cuộc đời giật dây"</em>. Ngày
đó ông mới vừa hai mươi lăm tuổi, sân khấu đời ông đã
kịp diễn gì đâu? Con rối ấy hoạ có chăng là rối siêu
hình? Còn giờ đây, con rối nước xưa đã bò lồm ngồm lên
cạn như ếch nhái, để lại diễn đủ trò như con rối cách
mạng cho thiên hạ vỗ tay. Còn mình thì vẫn rối như sợi chỉ
hiện thực trước lỗ kim vô cùng?
Càng gần tới cái chết, thơ ông viết càng hay, càng bớt chất
luận đề, chính luận, càng thêm cảm xúc và sâu đọng. Hầu
hết các nhà thơ mới, kể cả Xuân Diệu, Huy Cận, cái phần
thơ hay nhất, đóng góp lớn nhất cho thi đàn lại là những thi
phẩm ra đời trước năm 1945. Chỉ có Chế Lan Viên và phần
nào Tế Hanh, mà những trước tác sau này thậm chí còn đồ
sộ, còn hay hơn nhiều thời tiền chiến. Sau Thơ Mới, ông đã
làm cho Thơ Mới được mới thêm một lần nữa. Đấy chính là
sự đóng góp có tính tiền phong, tính mở đường của thơ
Chế Lan Viên cho thời đại thi ca mới. Chính ông mới là nhà
thơ hiện đại đúng nghĩa nhất của nó.
<em>"Lòng ta mục đồng/Cũng đi chăn đấy"… … "Tôi chỉ
là nhà thơ cưỡi trâu"</em>. Do đó, đôi khi thi ca cũng cần
được tung tăng hồn nhiên như con nghé ọ. Nhà thơ không cưa
sừng làm nghé, vì tâm hồn ông đã được thả rông trên đời
này để có lúc vừa ăn cỏ của đời sống, vừa uống nước
sông Ngưu siêu hình của trời xanh:
<em>"Con trâu nghé ọ
Có cặp sừng bỡ ngỡ
Chiều buồn không biết cọ vào đâu"</em>
(Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh -1988)
Câu thơ viết như chơi, viết như đùa, như không mà hay đến
nghi hoặc. Yêu biết bao nhiêu cái cặp sừng non bỡ ngỡ của
thi ca. Này con nghé ọ, mi đang cọ sừng vào cõi hư vô mà
chẳng biết. Nhà thơ bảy mươi tuổi nhưng thi ca của ông sinh
ra muôn đời phải là con trẻ, phải là con nghé ọ của đời.
Con nghé thơ sẽ lớn thành con trâu kéo cày trên cánh đồng văn
học. Và, trâu thơ ơi, sau khi người chết đi, người đời sẽ
mượn da người làm trống, để đánh lên nhịp nhảy, nhịp
sống của con người. Và trâu thơ ơi, xin mi để lại cặp
sừng làm chiếc tù và báo động. Đi từ cặp sừng non của con
nghé đến chiếc tù và của con trâu, Chế Lan Viên vẫn tiếp
tục cất lên tiếng trống, tiếng tù và, báo hiệu một ngày
mới trên cánh đồng vĩnh cửu của thi ca…
<strong>Trần Mạnh Hảo</strong>
(còn tiếp)
________________________________
Phụ Lục:
<h2>Trừ đi</h2>
<strong>Chế Lan Viên</strong>
<em>Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu! Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau – giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm – giết một ước mơ – tôi giết
Cái cánh sắp bay – trước khi tôi viết
Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển – Giết mưa
Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi.
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi – Người có lỗi
Đã phải giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình</em>
(Tạp chí Văn, Paris 1992)
<h2>Ai? Tôi!</h2>
<strong>Chế Lan Viên</strong>
<em>Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi!
Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi cuộc xung phong.
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy?
Lại chính là tôi!
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời,
Tôi ú ớ.
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ.
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười</em>
(Rút trong sổ tay thơ tập 5 của tác giả)
<h2>Bánh vẽ</h2>
<strong>Chế Lan Viên</strong>
<em>Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc…
Thế thì còn dịp đâu nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi
Họ cũng ngồi thôi
Nhai nhồm nhoàm</em>
(Prométheé 86, Văn học và Dư luận, 8-1991)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11025), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét