Nguyễn Ngọc Già - Sửa Hiến pháp là mệnh lệnh của Dân tộc & Tổ quốc Việt Nam

Nguyễn Huy Canh viết:

<div class="special_quote">Tôi cho rằng, hạn chế của điều 4
Hiến Pháp 1992 chính là ở chỗ này: Đảng chỉ là một tổ
chức chính trị xã hội chứ không phải là một lực lượng
lãnh đạo (toàn xã hội). </div>

Tác giả Phạm Viết Đào cho biết cảm giác chưa an tâm về ý
kiến của ông Nguyễn Huy Canh, nên bài viết <a
href="http://phamvietdao2.blogspot.com/2011/09/ve-ieu-4-hien-phap-1992.html">"Về
điều 4 Hiến pháp 1992"</a> đã được đưa lên để rộng
đường dư luận và mong có thêm các ý kiến khác nhằm làm sao
từng người dân có thể tham gia vào vấn đề sửa đổi Hiến
pháp 1992 đảm bảo được thực chất <em>"Quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân"</em> trong bối cảnh xã hội VN đang
thay đổi từng ngày. Trên tinh thần đó, người viết bài xin
có ý kiến gồm 2 phần: tóm tắt các ý kiến của tác giả
Nguyễn Huy Canh và trình bày ý kiến cá nhân của bản thân.

<h2>I. CÁC LUẬN ĐIỂM CHÍNH CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN HUY CANH:</h2>

<strong>1.</strong> Quốc Hội khóa XIII có rất nhiều việc hệ
trọng phải làm, trong đó có việc sửa đổi HIẾN PHÁP 1992
(sau đây xin gọi tắt là HP).

<strong>2.</strong> Theo tác giả, việc sửa đổi HP nói chung và
điều 4 nói riêng làm sao vừa đảm bảo "củng cố, tăng
cường và nâng cao sức chiến đấu và lãnh đạo của Đảng",
lại vừa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn là <em>"phản ánh
được lợi ích dân tộc, và phù hợp với logic vận động
của HIỆN THỰC TUYỆT ĐỐI"</em> (*). Tác giả cũng chỉ ra hạn
chế của điều 4: xem ĐCSVN là tổ chức chính trị - xã hội,
không phải là "lực lượng lãnh đạo" toàn xã hội???!!! Tác
giả khẳng định "không thể luật hóa điều 4HP được", vì
làm thế là "tước bỏ (hoặc ít ra là hạn chế) quyền lãnh
đạo của Đảng, là biến Đảng ta thành một quyền lực trừu
tượng, thành hư quyền". Tác giả cũng nói, có thể chỉnh sửa
điều 4 cho phù hợp với logic của lí thuyết quyền lực và
thực tiễn chính trị tại VN hiện nay, đồng thời cho rằng
"cần có một bộ luật về chính đảng"(nhưng đừng nên nhầm
lẫn điều này với việc luật hoá điều 4). Tuy vậy, tác giả
lại không nói rõ sự khác biệt cơ bản (để đừng nhầm
lẫn) giữa việc luật hóa điều 4 và "một bộ luật về chính
đảng", cũng như không cho thấy chỉnh sửa điều 4 như thế
nào mới "phù hợp với logic của lý thuyết quyền lực và
thực tiễn chính trị" tại Việt Nam.

<strong>3.</strong> Tác giả phân tích để chỉ ra những lạc
hậu, lỗi thời của hệ thống ( và bộ máy) quyền lực ĐCSVN
(tính cho đến nay nó chỉ phù hợp với thời chiến). Từ đó,
ĐCSVN trở thành "vua tập thể" (lấy ý của ông Nguyễn Văn An)
cùng các hệ lụy tai hại kéo theo. Tuy vậy, tác giả cho rằng
quyền lực chính trị (của ĐCSVN) và quyền lực Nhà nước
hiện nay đang tồn tại song song, do đó mong ĐCSVN "mạnh dạn
hoá thân cấu trúc quyền lực ấy của mình vào bộ máy nhà
nước" cũng như "các nhà lãnh đạo ĐCSVN "cần sáng suốt hiểu
ra rằng nhà nước phải là, chính là hình thức tồn tại duy
nhất của quyền lực Đảng" (**)

<strong>4.</strong> Tác giả đề xuất một mô hình hệ thống
quyền lực sao cho hợp lý, khoa học nhất bằng mấu chốt quan
trọng: "Nguyên thủ quốc gia- người đứng đầu cơ quan hành
pháp (Chủ tịch hoặc Tổng thống) có quyền lựa chọn, chỉ
định Thủ tướng. Thủ tướng không nhất thiết phải là một
đảng viên của Đảng. Nguyên thủ quốc gia và CP hoạt động
theo nguyên tắc chế độ trách nhiệm cá nhân và theo những qui
định của HP, pháp luật".

Tóm lại,tác giả Nguyễn Huy Canh mong muốn ĐCSVN (làm sao) vừa
giữ vững vai trò lãnh đạo thực quyền, xuyên suốt thông qua
hình thức "Nguyên thủ Quốc gia" [có lẽ vừa là TBT vừa là
Chủ tịch (hay tổng thống)] nghĩa là mọi quyền lực tập trung
vào ĐCSVN nhưng lại vừa ĐẢM BẢO đáp ứng ĐƯỢC LỢI ÍCH
DÂN TỘC, mặc dù tác giả nhận rõ vai trò quan trọng của tư
pháp phải đạt được tính độc lập (cần phải "phi đảng
hóa").

<h2>II. SỬA HIẾN PHÁP LÀ MỆNH LỆNH CỦA DÂN TỘC VÀ TỔ
QUỐC:</h2>

Trước tiên, tác giả Nguyễn Huy Canh không nên né tránh việc
sửa đổi HP bằng cách cho đó là việc của Quốc hội (ngay
câu mở đầu). Hãy nhìn thẳng vào thực tế (ĐCSVN buộc phải)
sửa đổi HP là kết quả cả một quá trình đấu tranh, đòi
hỏi quyết liệt và phải trả giá bằng nhiều hy sinh mất mát
của dân tộc Việt Nam (ít nhất 20 năm qua, tính từ HP). Nhìn
vào danh sách chính thức của 30 thành viên thuộc Ủy Ban sửa
đổi HP (1), chúng ta đều thấy 100% là đảng viên ĐCSVN. Quốc
hội lại luôn tổ chức bầu cử sau đại hội ĐCSVN, cũng như
90% đại biểu QH là đảng viên ĐCSVN, điều đó chứng tỏ
ĐCSVN xem đất nước này là CỦA RIÊNG như một "luật bất
thành văn"!

Tác giả Nguyễn Huy Canh đã bày tỏ nhiều luận điểm mâu
thuẫn nghiêm trọng. Mâu thuẫn nghiêm trọng nhất, vừa muốn
ĐCSVN (làm sao) vẫn giữ quyền cai trị độc tôn lại vừa
(cần) đáp ứng được LỢI ÍCH DÂN TỘC, trong khi (lại) CHỐI
BỎ vai trò ĐCSVN (là tổ chức chính trị - xã hội (chứ) không
phải là LỰC LƯỢNG LÃNH ĐẠO)???!!!. Tác giả khá hoang tưởng
khi cho rằng LỢI ÍCH của Dân tộc Việt Nam hoàn toàn có thể
trùng khớp với LỢI ÍCH ĐCSVN. Hiến pháp phải và chỉ đặt
LỢI ÍCH DÂN TỘC LÊN TRÊN TẤT CẢ CÁC LỢI ÍCH (dù cho lợi
ích của đảng phái), chỉ có như thế Quyền phúc quyết của
dân tộc mới đúng thực chất cần phải có. Hoang tưởng tiếp
theo của tác giả Nguyễn Huy Canh chính là (làm sao) ĐCSVN nắm
thực quyền nhưng lại "phi đảng hóa" vai trò của Tư pháp và
một Thủ tướng không nhất thiết là đảng viên ĐCSVN.

Tiếp tục thực hiện việc "đảng hóa" trong HIẾN PHÁP (bất
kể là đảng nào) thì Việt Nam tiếp tục tình trạng phi dân
chủ.

Điều 4 HP:

Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ
nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.

Việc buộc phải đưa Hiến pháp 1992 ra sửa đổi là yêu cầu
khách quan, xuất phát từ đòi hỏi của xã hội ngày càng tiến
bộ theo hướng văn minh, hiện đại, dân chủ, bởi Việt Nam
đã thay đổi quá nhiều theo hướng hội nhập Quốc tế ngày
càng sâu rộng, qua hai sự kiện quan trọng bậc nhất trong 20
năm qua:

- Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam.

- Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức WTO.

Sửa đổi Hiến pháp làm sao bảo đảm chuyển hóa xã hội
Việt Nam tiến tới dân chủ trong ôn hòa với thời gian ngắn
nhất (có thể) lại không trả thù, bạo loạn, chính là mục
tiêu tối thượng đặt ra cho ĐCSVN. Đó là mong muốn của tất
cả mọi người, bất luận đảng viên hay công dân bình
thường, đặc biệt trước tình hình an nguy Tổ Quốc chưa bao
giờ bị đe dọa nghiêm trọng như hiện nay.

Vậy, ĐCSVN phải xác định việc sửa đổi Hiến pháp là MỆNH
LỆNH của dân tộc Việt Nam, là TRÁCH NHIỆM, BỔN PHẬN của
ĐCSVN, cũng là NHU CẦU SỐNG CÒN của ĐCSVN.

Đại đa số người Việt Nam đều không muốn máu đổ, trả
thù thêm nữa, do đó, theo logic không hề muốn tiêu diệt ĐCSVN.
Điều quan trọng bậc nhất là triệt tiêu chế độ độc tài.
Xin nhấn mạnh, triệt tiêu chế độ độc tài không đồng
nghĩa tiêu diệt ĐCSVN (bằng chứng tại nhiều nước trên thế
giới, ĐCS vẫn hoạt động bình thường).

Luật pháp do con người tạo ra, tất nhiên không bao giờ có
một hệ thống Luật pháp hoàn chỉnh tuyệt đối. Đó là tính
vận động liên tục trong triết học. Ví dụ, Hoa Kỳ (quốc gia
được xem là chuẩn mực về Luật pháp trên thế giới) phải
đến khi bị nạn khủng bố 11/9 mới có nhu cầu tạo ra luật
mới: Luật Yêu Nước.

Theo tác giả Nguyễn Huy Canh, nhu cầu kiến thiết một hệ
thống chính trị mới phù hợp với xã hội VN hiện nay quan
trọng hơn nhiều so với việc sửa đổi Hiến Pháp. Tuy vậy,
có vẻ tác giả rơi vào vòng lẩn quẩn và mấu chốt bế tắc
ở chỗ: tác giả không nhắc gì đến tính dân chủ.

Xin nhớ:

<div class="special_quote"><em>Hiến Pháp không tạo nên dân chủ, mà
chính dân chủ tạo nên hiến pháp.</em>

<strong>Benjamin Barber</strong></div>


Tuy nhiên, "không thể luật hóa điều 4" của Nguyễn Huy Canh là
đúng. Bởi lẽ, nó sẽ bất khả thi ngay lập tức (khi vừa ban
hành) với một hệ thống chính trị vừa ngang vừa dọc, toàn
bộ đều là đảng viên ĐCSVN. Nói cách khác, ĐCSVN tự thân
đã len lỏi quá sâu và thật lâu vào từng mạch máu xã hội,
ảnh hưởng nghiêm trọng trên từng lĩnh vực lớn nhỏ, ngay
cả điều tưởng chừng vô hại (ví dụ cái khăn quàng đỏ
của thiếu nhi). Điều này (luật hóa điều 4) cũng mâu thuẫn
với ý kiến "phi đảng hóa" nền Tư pháp của Nguyễn Huy Canh(!)

Câu hỏi cần đặt ra cho ĐCSVN:

- Nền tảng tư tưởng nào mang tính quyết định để trở
thành tiền đề cho việc sửa HP? Phải chăng chỉ có tư tưởng
"lợi ích dân tộc là tuyệt đối"?

- Nếu thực là vậy, bằng cách nào Hiến pháp (mới) nhanh chóng
và nghiêm túc đi vào cuộc sống bằng những bộ luật khả thi?

- Hệ thống Tư pháp đã đến lúc (dù quá muộn) phải "phi
đảng hóa"?

- Công cụ bảo vệ Tổ Quốc, giữ gìn an ninh xã hội (tức là
Quân đội và Công an) thay vì thấm nhuần "trung với đảng" và
"còn đảng còn mình" có quá muộn để hiểu "Còn Tổ Quốc
(mới) còn mình"?

<h2>III. KẾT:</h2>

Phải chăng, sửa đổi HP là cơ hội (trăm năm có một) để
vừa tránh được sự tan nát của ĐCSVN (trong đổ máu) vừa
bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam, vừa mang lại dân chủ ôn hòa cho
Dân tộc Việt Nam?

Có đáng tiếc không, khi một lần nữa chúng ta nhắc lại: Dân
tộc Việt Nam đã bỏ qua nhiều cơ hội để làm cho đất
nước trở thành một Quốc gia: DÂN CHỦ - VĂN MINH - DÂN MẠNH -
NƯỚC GIÀU?

<strong>Nguyễn Ngọc Già</strong>
_______________

http://www.baomoi.com/Danh-sach-30-thanh-vien-Uy-ban-sua-doi-Hien-phap/122/6764472.epi
(1)

(*) Hẹn dịp khác để nói về "vận động hiện thực tuyệt
đối" là cách dùng từ ngữ triết học không rõ ràng lắm,
bởi lẽ "vận động là tuyệt đối, đứng yên là tương
đối" (a). Vì vận động bao hàm tính hiện thực tại từng
thời điểm mà sự vật hay hiện tượng đang xảy ra vào lúc
đó, nên khái niệm "vận động hiện thực tuyệt đối" nghe
tối nghĩa, vì nếu vận động hiện thực mang tính tuyệt đối
(phải ý tác giả là thế?), lúc đó nó đã đứng yên (mâu
thuẫn). Do đó, tôi nghiêng về ý nghĩa tác giả đang muốn nói
"vận động là tuyệt đối" và mọi tư duy, hành vi, hành động
đều nên đặt dưới góc nhìn vận động.
http://www.wattpad.com/1430681-c%C3%A2u-4-c%C3%A1c-quy-lu%E1%BA%ADt-c%C6%A1-b%E1%BA%A3n-c%E1%BB%A7a-ph%C3%A9p-bi%E1%BB%87n-ch%E1%BB%A9ng-duy
(a)

(**) Ý nghĩa này nghĩa là: Tổng bí thư và Chủ tịch nước
(Tổng thống) do 1 người đảm nhiệm (như Trung Quốc). Đây
cũng là ý kiến của ông Nguyễn Trung (cựu Đại sứ VN tại
Thái Lan) trước đây và GS. Chu Hảo gần đây. Ý kiến này chỉ
khả thi và đúng thực chất trong một chế độ dân chủ đa
đảng và tam quyền phân lập đúng nghĩa.

_______________________________________


<center><h2>Nguyễn Huy Canh - VỀ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP
1992</h2></center>

<div class="special_quote">
<strong>Phamvietdao.net:</strong> Đây là một vấn đề lớn đang
được nhiều người suy nghĩ; những điều tác giả Nguyễn Huy
Canh viết ra sau đây, bản thân chủ blog cũng chưa cảm thấy
yên tâm; đã trao đi đổi lại nhiều lần mong tác giả trình
bày rõ hơn, cụ thể hơn, nâng cao hơn… để cho giá trị của
góp ý đạt được cái đích mong muốn…

Nguyễn Huy Canh nguyên là cán bộ giảng dạy tại một trường
Đảng địa phương (trung cấp chính trị), hết sức quý trọng
ý kiến của anh, mặc dù chưa thật thỏa mãn trước những
điều mà anh đặt ra và kiến giải, song cũng xin đưa lên mạng
để mong được rộng đường dư luận và mong nhận được các
ý kiến thảo luận khác…</div>


Kính gửi:

- Các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước
- Các chính trị gia
- Cùng tất cả những ai quan tâm tới hiện tình đất nước…

- Theo tôi Điều 4 Hiến pháp cần chỉnh sửa để hiến định
khâu nhân sự của Đại hội Đảng, đây là một bước chuẩn
bị nhằm hiện thực hoá quyền lực của Đảng thông qua bầu
cử của nhân dân. Đại hội Đảng lựa chọn ra những đại
biểu ưu tú, những ứng cử viên sáng giá giới thiệu cho nhân
dân lựa chọn (lần 2); nhân dân sẽ bầu cử Nguyên thủ quốc
gia theo chế độ phổ thông đầu phiếu (có chương trình tranh
cử) do Đảng giới thiệu và bầu cử QH. Phải thông qua lá
phiếu của nhân dân thì quyền quản lý nhà nước của Đảng
mới là quyền hiến định; Còn như hiện nay là "Đảng định
"...

- Nguyên thủ quốc gia - người đứng đầu cơ quan hành pháp
(Chủ tịch hoặc Tổng thống) có quyền lựa chọn, chỉ định
Thủ tướng. Thủ tướng không nhất thiết phải là một đảng
viên của Đảng. Nguyên thủ quốc gia và CP hoạt động theo
nguyên tắc chế độ trách nhiệm cá nhân và theo những qui
định của HP, pháp luật.

Quốc Hội khóa XIII có rất nhiều việc hệ trọng phải làm,
trong đó có việc sửa đổi HIẾN PHÁP 1992.

Sửa đổi HP1992 có rất nhiều điều phải quan tâm đặt ra cho
các chính trị gia, các nhà luật học. Tôi cho rằng, HP với
tính cách là TUYÊN NGÔN chính trị của một QUỐC GIA, một DÂN
TỘC chỉ có thể có một sự chỉnh sửa hoàn chỉnh đáp ứng
được những đòi hỏi của thực tiễn khi chúng ta có một quan
niệm, một tư tưởng chính trị dẫn đường có tính hệ
thống phản ánh được lợi ích dân tộc, và phù hợp với
logic vận động của HIỆN THỰC TUYỆT ĐỐI. Không đạt tới
cái logic ấy, tôi e rằng chúng ta sẽ lại chỉ có một sản
phẩm chắp vá đầy tính kinh nghiệm vụn vặt, hoặc dập khuôn
ở đâu đó…

Điều 4 HP và việc có nên chỉnh sửa nó hay không chính là tư
tưởng chính trị có tính dẫn đường như thế.

Tôi được biết có rất nhiều chính trị gia (có chính kiến
khác nhau) đều mong muốn và đưa ra yêu cầu về việc luật
hóa nó (ít ra cũng phải bằng một đạo luật như ý kiến của
cựu đại biểu NGUYỄN MINH THUYẾT)

Bỏ hay luật hóa nó không thể được viết ra như một nhu cầu
cảm tính (hay bức xúc) trước những hạn chế và hệ lụy mà
nó gây ra mà phải bắt đầu, theo tôi, từ cách mà chúng ta
kiến thiết mô hình chính trị đã có từ hơn 50 năm nay đã
lỗi thời sau bao biến chuyển của thực tiễn nước nhà có
tính cách bản thể học từ trong sự vận động của HIỆN
THỰC KHÁCH QUAN…

Trước hết phải nhận thấy việc đổi mới hệ thống chính
trị dĩ nhiên đã trở thành yêu cầu bức thiết của xã hội,
và cũng là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng
nhằm củng cố, tăng cường và nâng cao sức chiến đấu và
lãnh đạo của Đảng.

Tôi xin bắt đầu từ cấu trúc quyền lực của Đảng. Xét theo
chiều từ cao xuống, về mặt lý thuyết chúng ta có Đại hội
Đảng toàn quốc là cơ quan quyền lực cao nhất, đến Ban chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị và cuối cùng là Tổng Bí thư.

Cấu trúc quyền lực này cũng đồng thời trên thực tế là
quyền lực chính trị cao nhất của đất nước, của xã hội.
Vì điều thực tế này đã làm cho cấu trúc trên ngày càng
bộc lộ nhiều bất cập. Sự hạn chế của nó có thể được
xem như đã đến mức trở thành vật cản trên con đường
phát triển của chính bản thân Đảng và của dân tộc. Đó
là:

1. Cấu trúc trên được sinh ra phù hợp với thời kỳ đất
nước có chiến tranh, và đặc biệt sức mạnh của nó càng
được củng cố trong giai đoạn có sự tồn tại của cơ chế
quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp.

Sau hơn 50 năm đất nước đã có nhiều thay đổi lớn, cấu
trúc đó đã trở thành giáo điều trước xu thế dân chủ hoá
đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế - văn hoá -
chính trị ngày càng mạnh mẽ. Người dân, xã hội đã nhận
thấy rằng cấu trúc quyền lực cao nhất của xã hội thì
người dân nhất định phải được tham gia sinh hoạt chính
trị, tham gia vào quá trình kiến tạo, hình thành cấu trúc
quyền lực trên đây bằng lá phiếu của mình (đây là cốt
lõi của chế độ dân chủ chính trị ). Sự phát triển của
nhu cầu trên càng bộc lộ sâu sắc sự bất cập giữa lý
thuyết về quyền lực(khép kín) của Đảng và những quy định
của Hiến pháp về dân chủ.

2. Trong thực tiễn cấu trúc quyền lực trên lại diễn ra theo
chiều ngược lại. Điều đó đã phản ánh lý thuyết không
chỉ ra được bản chất công cụ của quyền lực. Vì vậy sự
tồn tại bên cạnh và tách rời của cấu trúc trên trong quan
hệ với quyền lực nhà nước đã làm cho quyền lực nhà
nước trong rất nhiều trường hợp, cũng như xét theo bản
chất, trở thành quyền lực trừu tượng, thành hư quyền.
Nhiều người đã gọi quyền lực Nhà nước là hình thức,là
tượng trưng ,(phụ thuộc) bởi sự áp đặt và lấn sân của
cấu trúc trên.

Sự áp đặt chủ trương, đường lối, ý chí quyền lực của
Đảng lên nhà nước là điều diễn ra đương nhiên. Hệ lụy
của tình thế đó nhiều khi đã biến Đảng ta (ở nhiều cấp)
thành những ông vua của thời hiện đại (theo cách diễn đạt
của nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An).

Ông Nguyễn Văn An cũng như nhiều người khác đã cố gắng tìm
ra lời giải cho bài toán chính trị trên đây bằng việc quy
về yêu cầu luật hoá điều 4 Hiến pháp. Với ý muốn vạch ra
giới hạn cho Đảng, chỉ ra đâu là công việc của Đảng,
đâu là của nhà nước; rằng Đảng được quyết cái gì,
không được quyết cái gì ...

Tư duy chính trị triệt để chỉ ra rằng không thể luật hoá
Điều 4 (dù chỉ bằng một đạo luật) với ý muốn, với nội
dung đó được. Bởi vì tôi ý thức một cách sâu sắc rằng
một chính đảng muốn trở thành quyền lực chính trị của xã
hội thì chính đảng ấy phải nắm giữ, phải chi phối được
quyền lực nhà nước (suy nghĩ về một quyền lực chính trị
bên cạnh quyền lực nhà nước là một sự mơ hồ và không
tưởng của tư duy chính trị).

Vì vậy yêu cầu luật hoá Điều 4, trên lí thuyết cũng như
thực tế là nhằm tước bỏ (hoặc ít ra là hạn chế)quyền
lãnh đạo của Đảng, là biến Đảng ta thành một quyền lực
trừu tượng, thành hư quyền. Điều này cũng đau khổ chẳng
kém gì nỗi đau của nhà nước mà ta đã và đang trải qua.

Vậy con đường nào để nhân dân tham gia vào quá trình kiến
tạo quyền lực cao nhất trong Đảng bằng lá phiếu ? Con
đường đổi mới nào để vừa giữ được vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với nhà nước, nhưng không rơi vào chế độ
quân chủ chuyên chế tập thể , nghĩa là vẫn bảo đảm
được quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân như những
chính thể cộng hòa của xã hội hiện đại, tiên tiến hiện
thời?

Không thể đổi mới theo cách cải tiến, thử nghiệm của tư
duy kinh nghiệm vẫn làm. Đây là vấn đề thuộc về Hệ thống
và do đó việc đổi mới nó phải được xây dựng trên tư duy
logic chính trị.

Trên chiều hướng đó, tôi cho rằng để giữ vững sự lãnh
đạo của mình, đã đến lúc Đảng ta phải dũng cảm vượt
lên chính mình, dũng cảm phá bỏ mô hình quyền lực đã cũ
(theo cách kiến tạo, tổ chức BCHTW, BCT, BBT…), mạnh dạn hoá
thân cấu trúc quyền lực ấy của mình vào bộ máy nhà
nước.(Tôi mong muốn các nhà lãnh đạo của chúng ta cần sáng
suốt hiểu ra rằng nhà nước phải là, chính là hình thức
tồn tại duy nhất của quyền lực Đảng)

Điều đó có nghĩa rằng công tác nhân sự của các lần Đại
hội không phải là ở chỗ bầu ra BCHTW cũng như sắp xếp (dự
định) các chức danh chủ yếu của bộ máy nhà nước.

Nhân sự của Đại hội là một bước chuẩn bị nhằm hiện
thực hoá quyền lực của Đảng thông qua bầu cử của nhân
dân. Đại hội lựa chọn ra những đại biểu ưu tú, những
ứng cử viên sáng giá giới thiệu cho nhân dân lựa chọn (lần
2) qua bầu cử Nguyên thủ quốc gia theo chế độ phổ thông
đầu phiếu (có chương trình tranh cử) và bầu cử QH.

Trong Quốc hội hình thành tổ chức Đảng Đoàn QH (giống như
Bộ Chính trị) đó là cơ quan chỉ đạo, lãnh đạo mọi hoạt
động của Quốc hội.

Nguyên thủ quốc gia - người đứng đầu cơ quan hành pháp
(Chủ tịch hoặc Tổng thống) có quyền lựa chọn, chỉ định
Thủ tướng. Thủ tướng không nhất thiết phải là một đảng
viên của Đảng. Nguyên thủ quốc gia và CP hoạt động theo
nguyên tắc chế độ trách nhiệm cá nhân và theo những qui
định của HP, pháp luật.

Tính thống nhất của quyền lực chính trị trước đây được
tổ chức trong cấu trúc quyền lực của Đảng và ánh xạ vào
nhà nước trong hình thức tam quyền phân công đã dẫn đến
một mô hình quyền lực tập quyền chuyên chế (như đã phân
tích ở trên) .Tôi cho rằng, hạn chế của điều 4 HP1992 chính
là ở chỗ này: Đảng chỉ là một tổ chức chính trị xã
hội chứ không phải là một lực lượng lãnh đạo (toàn xã
hội). Chỉ trở thành lực lượng lãnh đạo khi đảng chuyển
hóa thành ĐẢNG CẦM QUYỀN, và với tư cách này, ĐCS trở
thành lực lượng lãnh đạo nhà nước theo từng nhiệm kì
(khoảng giao giữa 2 nhiệm kì, quyền lực chính trị này không
còn hoàn toàn thuộc về Đảng như trước khoảng giao thời- có
thể chỉ là thời gian ngắn). Chỉ có thể khắc phục được
tính độc quyền (hay chuyên quyền) của quyền lực chính trị,
làm cho quyền lực thuộc về nhân dân một cách thực chất;
chúng ta sẽ tìm thấy lời giải, kinh nghiệm trong lịch sử nhà
nước pháp quyền hiện đại bằng cách xây dựng quyền lực
TƯ PHÁP là một cơ chế độc lập với QH và CP. Tư pháp là
một cấu trúc quyền lực phi đảng hóa, và có tính chuyên
nghiệp (phi nhiệm kì). Chính nó duy trì tính liên tục của
quyền lực chính trị của nhân dân, và cũng là quyền lực
đối trọng trong mối tương quan với QH và CP

Như vậy, có thể đi đến kết luận: không thể luật hóa
điều 4HP được. Mà chỉ có thể chỉnh sửa nó cho phù hợp
với logic của lí thuyết quyền lực và thực tiễn chính trị
nước nhà . Và dĩ nhiên cũng rất cần có một bộ luật về
chính đảng. (nhưng đừng nên nhầm lẫn điều này với việc
luật hoá như đã nói ở trên)

Dự án chính trị trên đây cho thấy quyền lãnh đạo của
Đảng được thể hiện và thực hiện trực tiếp (nghĩa là
không phải thông qua một công đoạn nào) bởi Quốc hội,
Nguyên thủ quốc gia và ở Hiến pháp và pháp luật.

Dự án này cũng cho thấy quyền lực của Đảng đồng thời
cũng là quyền lực nhà nước (hiện hình ở 2 cơ quan) và
được nhân dân trực tiếp tham gia lựa chọn trong quá trình
sinh thành của nó; Cơ cấu tổ chức bộ máy lãnh nhà nước
kiểu này nó luôn được kiềm chế, giám sát bởi quyền lực
đối trọng là cơ quan TƯ PHÁP (chưa kể đến quyền lực thứ
tư là xã hội dân sự sẽ được hình thành từ những đổi
mới này)

Nếu con đường đổi mới này được thực hiện sẽ tạo ra
cơ sở hiện thực cho việc vận dụng giá trị quyền lực
phổ biến của nhà nước hiện đại vào thể chế chính trị
nước ta. Đó là điều mong muốn của người viết bài này về
một mô hình chính trị cho đất nước: Đảng lãnh đạo - Nhà
nước tam quyền - Xã hội dân sự và một nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước…

Tôi hy vọng sâu sắc rằng từ suy ngẫm, phân tích về điều 4
HP, chúng ta sẽ xây dựng được (ít ra trong tư tưởng) về
mẫu hình một xã hội dân chủ hiện đại, và dự án chính
trị trên đây mong muốn góp phần thúc đẩy sự tiến lên của
Đảng và dân tộc ta, và nó cũng là sự gợi mở cho việc sửa
đổi HP1992 cũng như điều 4 của HP này nói riêng…

<strong>Nguyễn Huy Canh </strong>

Đảng viên

http://phamvietdao2.blogspot.com/2011/09/ve-ieu-4-hien-phap-1992.html

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9878), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét