có sông sâu lơ lững vần quanh êm xuôi về nao...
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau,
bóng tre rung bên mấy hàng cau, đồng quê mơ màng...
Nhưng than ơi,
có một chiều thu lá thu rơi,
có một chiều thu lá thu rơi,
ôm mối tình quê gọi thầm mơ bóng ngày về.
Mơ trông bóng ngày về...
Quê tôi chìm chân trời mờ sương.
Quê tôi là bao nguồn yêu thương.
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn,
là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương… </em></center>
Bài hát của thày Chung Quân Nguyễn Đức Tiến sáng tác ấy đã
rộn ràng trong tôi tự thuở thiếu thời. Bài tả về một thể
chế Dân Chủ Làng Nước mà tôi từng nghe Nội tôi kể lại,
và khiến tôi bàng hoàng xúc động mỗi khi nhớ lại Định
Chế Làng Nước, là một kiệt tác chính trị của Tổ Tiên
ngàn đời truyền lại.
Theo lời Nội tôi kể, thì Nguyên Lý Tiên Rồng Song Hiệp đã
được Tổ Tiên ứng dụng vào việc xây dựng và phát triển
hệ thống tổ chức Làng Nước, lưu truyền qua lịch sử ngàn
đời, với những ngôn từ thân thương như làng tôi, quê tôi,
nước tôi… Làng Nước Việt Nam là một cơ cấu sinh hoạt tự
do tự lập. Nếp sống thân thương và bình đẳng, làng thôn
quả thật là nơi bảo toàn lực lượng dân quân, bảo vệ và
nung đúc tinh thần yêu nước của mọi người, và cũng là nơi
bảo tồn nếp sống tự do dân chủ thuần túy, dầu trong thời
bình cũng như trong thời loạn.
<h2>1. Làng Xã Tự Chủ</h2>
Đặc tính nền tảng của Định Chế Làng Nước là người dân
tự ý tới ở, quy tụ thành làng. Tuy cách khởi lập có khác
nhau, nhưng điều kiện tiên quyết trong việc Dựng Làng vẫn là
lợi ích và sự tự quyết của những người quy tụ, không ai
bắt buộc ai.
Làng được thành lập không chỉ vì lợi ích vật chất, biến
nơi khô cằn hoang vu thành miền phì nhiêu trù phú, mà còn vì
lợi ích tinh thần. Làng giúp cho người dân thoát nạn sống
cảnh bơ vơ thiếu nơi nương tựa, trái lại đã giúp cho toàn
dân có cuộc sống xum vầy đầm ấm, tươi mát trong Xã Hội
Đồng Bào.
Nếu chỉ để thu tích của cải lợi lộc, dầu dưới bất cứ
hình thức nào, như chủ trương của xâm lăng, của đế quốc,
của phong kiến, của tư bản, của cộng sản… thì chẳng
những không giúp ích gì cho Dân Tộc, mà còn làm cho Dân Tộc
thêm khốn khổ, biến Dân Tộc thành nô lệ hay thành thú vật,
máy móc.
Tụ họp thành làng, mọi người chia sẻ cảnh sống vui buồn
sướng khổ có nhau, giúp nhau vượt thắng những khó khăn, cùng
nhau gánh vác trách nhiệm, cùng nhau xây đắp cho đời, cho làng
cho nước ngày thêm giầu đẹp. Và cũng không một thường dân
nào bị bó buộc phải cư trú tại một nơi nhất định; dân
chúng có thể tùy thích tới ở hay tự ý bỏ đi, miễn là tự
quyết và chấp nhận Lệ Làng là nơi mình muốn gia nhập cư
ngụ.
Khác với tổ chức chính trị của nhiều quốc gia, quyền hạn
vua quan Việt chẳng những không can thiệp vào đời sống từng
người dân, mà cũng không xâm phạm vào nếp sống sinh hoạt
của các làng thôn. Đối với triều đình, mỗi làng Việt là
một quốc gia thu hẹp có chủ quyền và độc lập; việc làng
thì dân chúng tự lập và tự quyết.
Làng tự lập đến nỗi chẳng những có một ban quản trị
riêng, do chính dân bầu ra, mà còn có cả những điều lệ
riêng cho hệ thống hành chính của làng. Làng có một ngôi
đình để thờ vị Thành Hoàng riêng, với những nghi thức do
truyền thống riêng. Làng có cả tổ chức trị an riêng, với
những tiêu chuẩn thưởng phạt do làng quy định. Dĩ nhiên làng
cũng có tài sản riêng, và toàn quyền xử dụng ngân sách tài
chánh theo nhu cầu.
Trong phạm vi làng, cả quyền phép của vua quan cũng kiêng nể
những điều lệ riêng này. Phép vua thua lệ làng… Bởi thế
không còn có chế độ nào trực tiếp do dân, của dân, vì
dân… hơn thể chế dân chủ làng nước Việt.
Đang khi Cộng Sản đã coi thường và xóa bỏ Định Chế Làng
Nước, xem toàn dân làm nô lệ, tự do bị tước đoạt, nhân
quyền bị chà đạp, truyền thống tự do dân chủ bị thủ
tiêu. Người dân hôm nay chỉ còn có quyền đi bầu cử, theo
hình thức bịp bợm lòe lọet.
Tất cả mọi quyền hành, kể cả tuyển chọn người đại
diện cho dân, đều nằm trong tay những nhóm đặc quyền hay
lợi ích. Và nhóm người đặc quyền đặc lợi này tự đặt
ra luật pháp, sửa đổi luật pháp, và áp dụng luật pháp để
giúp cho đảng CSVN của họ hưởng lợi. Xin hỏi Dân Tộc Việt
Nam thực sự được gì? Quốc Gia Việt Nam thực sự là gì?
Tất cả, phải chăng chỉ là vết hằn vết thù của một chế
độ Cộng Sản đã khiếm khuyết, suy thoái, lỗi thời và cần
được thiêu hủy để trở về cội nguồn Dân Tộc.
<h2>2. Định Chế Làng Nước</h2>
Khi góp phần vào việc nước, làng là đơn vị đại diện
người dân. Trong truyền thống chính trị Việt, người dân
không trực tiếp với vua quan mà qua làng. Trong tất cả mọi
việc, từ tiếp xúc, lệnh truyền, tới sưu thuế, lính tráng…
của nước chỉ cần căn cứ vào làng, liên lạc với làng, và
theo khả năng của toàn làng mà định phần đóng góp.
Do đó, làng là đơn vị nền tảng của cơ cấu chính trị,
của chính quyền, của nước. Đang khi gia đình là đơn vị
nền tảng của xã hội, của cộng đoàn, của dân tộc.
Khác biệt với nhiều thể chế chính trị như hiện nay, người
dân không phải đơn độc đương đầu trực diện với cơ quan
quyền lực, mà còn được bà con thân thuộc của làng nước
xóm giềng chia sẻ, trợ giúp, bù đắp, bảo bọc… Miễn là
sao mà làng chu toàn được công tác chung, việc nước.
Đối với người dân, làng trở thành một bước tường che,
một mái ấm, một bảo đảm vừa vật chất lại vừa tinh
thần, vừa thực tế lại vừa pháp lý.
Nhìn chung, làng thôn Việt Nam không phải là nếp sống ngẫu
nhiên, mà đã được Tổ Tiên tạo thành một thể chế chính
trị rất độc đáo, nhân bản và tuyệt vời, gọi là Định
Chế Làng Nước.
Tổ Tiên cũng phân biệt rõ ràng hai loại công tác chính trị:
Việc Làng và Việc Nước. Việc làng việc nước là hai việc
khác biệt, khác biệt từ phần chủ động tới mức độ dấn
thân, khả năng tài trí và các vấn đề nhu yếu khác. Bởi
thế chúng ta có hai loại công tác làng và công tác nước.
Người dân ai cũng có thể làm việc làng, và ai cũng có quyền
can dự vào việc tổ chức, điều hành, bầu cử, hay quyết
định của làng. Nhưng để đủ tầm vóc để làm việc nước
thì người đó phải học hành ở trường sở, phải thông
thạo những khoa chính trị "Thịnh Nước An Dân," và phải
thi cử (thi hương, thi hội, thi đình…) để xác định khả
năng tài trí.
Vẫn biết bất cứ nơi nào, bất cứ thời nào cũng có những
kẻ sẵn có ưu thế và muốn củng cố thêm quyền lực hay
địa vị. Nhưng Văn Hóa Việt và Đại Chúng Việt luôn quyết
tâm sống thực, bảo vệ và kiện toàn định chế tuyệt hảo
này qua mấy ngàn năm lịch sử.
Thể chế làng nước, phép vua thua lệ làng, đã giúp người
dân nước ta được hưởng nếp sống tự chủ, đang khi vẫn
tích cực đóng góp đầy đủ và hòa điệu với đời sống
Quốc Gia. Thể chế làng nước là đặc điểm căn cội, làm cho
nền Quân Chủ Việt đã khác biệt với những nền quân chủ
của nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong Văn Hóa Việt, với chủ trương chính đáng về bổn phận
của vua quan (người lãnh đạo) và với thể chế làng nước,
việc chung được quan niệm và thực sự là việc giúp ích cho
mọi người.
Khi vua quan đem hết tâm hồn và tài trí chăm lo cho tòan dân
hạnh phúc, và khi người dân được thực sự sống trong tự do
dân chủ đúng nghĩa, thì đóng góp vào việc chung là một
đồng tâm hiệp lực, một tương trợ cần thiết để bảo
đảm cho hạnh phúc chung của nhau. Đi làm việc chung chính là ta
đem tài trí giúp ích cho đời.
Tuy nhiên, nhiều khi việc chung cũng vượt quá nếp sống
thường ngày và ít mang lại kết quả lợi lộc trước mắt.
Vào thời loạn, gánh vác việc chung còn kèm theo cả nguy hiểm
tánh mạng, do đó việc chung thường đòi hỏi tầm nhìn xa
trông rộng, và cũng thường làm cho nhiều người ái ngại.
Định chế làng nước là một đặc điểm chẳng những đã
giúp cho Dân Tộc Việt Nam thoát nạn quân chủ chuyên chế ở
thời quá khứ, mà còn là phương thức tổ chức giúp cho chúng
ta thoát nạn "đấu thầu dân chủ" trong thời hiện tại.
Từ xưa, các nền văn hóa phương Tây đã luôn bắt từng con
người đơn độc phải gánh chịu mọi tai ương do giới cầm
quyền và thế lực áp đặt, từ những thuế khóa, sưu dịch,
quân vụ… đều ảnh hưởng trực tiếp tới từng người.
Việc chung, việc làng việc nước được coi như công tác phục
vụ cho giai cấp cầm quyền thống trị.
Các chế độ hiện nay chẳng những biến đổi tổ hợp của
người dân thành phương tiện phục vụ giới đặc quyền, mà
còn tìm mọi cách để phá hủy tổ ấm gia đình và cơ chế
bảo bọc người dân trong một xã hội.
Khi con người trở thành cô độc lạc lõng, thì những thế
lực tiền bạc, quyền chức, luật lệ, chuyên môn, nghiệp
đoàn, đảng phái… sẽ mặc tình thao túng. Và người dân trở
nên đơn độc, nhỏ bé, bất lực trước một bộ máy quyền
thế ngày thêm to lớn, với sự đàn áp bóc lột một cách tinh
xảo, vơ vét toàn bộ tài sản quốc dân một cách bất nhân phi
nghĩa.
<h2>3. Hệ Thống Làng Nước</h2>
Sống đúng nguyên tắc Giữ Nước Là Việc Của Toàn Dân, Tổ
Tiên lập ra một hệ thống phòng thủ an toàn trong dân. Làng
thôn là của dân và trở thành mạng lưới thành lũy an ninh
quốc phòng trải rộng khắp nước.
Nhìn lại lịch sử chúng ta thấy rằng vua quan Việt cũng xây
thành, nhưng thành thị không phải là nơi tập trung sức nước.
Thủ đô và thủ phủ đã chỉ là những cái làng lớn với số
cơ sở thích ứng, cần thiết cho nhu cầu hành chánh, nghi lễ
ngoại giao… Khi nguy cấp, vua quan ta sẽ sẵn sàng bỏ thủ đô
mà chạy về chiến đấu trong địa bàn ở các làng mà chống
giặc cứu nước, và không ảnh hưởng tới dữ kiện mất
nước. Do đó, Thể Chế Làng Nước, làng là trung tâm sinh hoạt
tự lập tự chủ của mọi người dân, mà cũng là sức mạnh
của toàn thể dân tộc.
Trước cuộc xâm lăng thuộc các lãnh vực, trước mưu đồ làm
tổn hại cuộc sống hạnh phúc của người dân, hệ thống
làng thôn Việt luôn là cơ cấu chính yếu giúp dân tộc bảo
toàn lực lượng, phục hồi sức mạnh, và vùng lên phá giặc.
Giặc không những chỉ quân xâm lăng cướp nước hay kẻ nổi
loạn phá rối, mà còn là những ai, những gì, ở bất cứ
phương diện hay mức độ nào làm thiệt hại cuộc sống hạnh
phúc của con người, phá hoại nếp sống thanh bình của toàn
dân.
Dưới khía cạnh quân sự làng là nơi huấn luyện mọi người,
toàn dân trở thành nghĩa sĩ, chống giặc. Chẳng những có hệ
thống canh gác nghiêm nhặt, luôn bảo đảm có lớp người túc
trực, mà còn có những lò võ thuật đào tạo ra nhiều bậc anh
hùng đánh giặc, nhiều cấp lãnh đạo chỉ huy tài ba. Làng
cũng là nơi phát xuất sức mạnh dân tộc về mọi phương
diện. Vì vậy trong công cuộc giữ nước, mở nước, cứu
nước thì làng đóng vai trò then chốt và quyết định sự
thành công của cả dân tộc.
<h2>4. Kết Luận</h2>
<em>"Quê tôi chìm chân trời mờ sương. Quê tôi là bao nguồn
yêu thương. Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn, là bao vấn vương
tâm hồn người bốn phương…"</em>
Quả thật, chỉ có bình đẳng và thân thương là hai nguyên lý
nền tảng của đời sống con người, và được Tổ Tiên ta cơ
chế hóa vào trong một hệ thống tổ chức Làng Nước Việt
Nam.
Theo thể chế làng nước, giá trị cuộc sống của Người Dân
đã không quy định bằng quyền, bằng chức, bằng giàu sang uy
thế, cũng không bằng tài năng, nghề nghiệp, dòng họ, giai
cấp, đảng phái… hay trên bất cứ gì ngoài con người, mà
trên việc Người Dân Việt thể hiện chính mình một cách
trọn vẹn. Bởi thế trong làng, chúng ta thường kính trọng
thiên tước (người có tuổi) hơn nhân tước (người có quyền
chức). Vì thiên tước thể hiện việc tạo Hạnh Phúc Làm
Người vừa cho chính mình, lại vừa cho những người khác,
trong cuộc sống cá nhân cũng như xã hội.
Vì vậy, giá trị cuộc sống của người dân Việt chính là
ảnh hưởng hạnh phúc của con người đó đối với những
người xung quanh. Trong cuộc sống, ai càng làm cho nhiều người
cùng hưởng hạnh phúc Làm Người với chính mình, qua chính
mình, thì người đó càng được quý trọng hơn: như thày Chung
Quân Nguyễn Đức Tiến tác giả bài Làng Tôi đang sống mãi
trong lòng tôi vậy.
<center><em>Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
có sông sâu lờ lững vờn quanh
êm xuôi về Nam.
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau.
Bóng tre ru bên mấy hàng cau.
đồng quê mơ màng!
Nhưng than ôi.
Có một chiều thu lá thu rơi...
Có một chiều thu lá thu rơi...
ôm súng chiều quê
tôi thầm mơ bóng ngày về
Mơ trong bóng ngày về
Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn
người bốn phương.</em></center>
Phạm Văn Bản
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9448), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét