src="http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/07/HTVy-400x300.jpg"
/><div class="textholder">Huỳnh Thục Vy</div></div>
Dù là trong một xã hội lớn hay một cộng động nhỏ, sự
phản kháng luôn đóng vai trò một giềng mối giữ thăng bằng.
Điều đó hợp quy luật tự nhiên, cũng giống như khi ta tác
dụng một lực thì tất nhiên chính tại đó xuất hiện một
phản lực tương ứng. Trong bất cứ lĩnh vực nào của đời
sống, sự phản kháng là yếu tố quan trọng và cần thiết
khiến cho sự tác động không đi theo một chiều thiên lệch,
mà bảo đảm cho mối quan hệ tác động song phương đi theo hai
chiều ngược nhau. Ví như có chế tài thì phải có phản kháng.
Mất đi sự phản kháng là mất đi động lực cải tạo xã
hội.
Vì thế thiển nghĩ, việc tìm ra những nguyên nhân làm thui
chột sự phản kháng trong xã hội là bước đầu tiên trong
việc vận động cho một sự đổi thay xã hội. Dưới nền cai
trị độc đoán của những người cộng sản, nỗi sợ hãi đã
ăn sâu vào tiềm thức người dân Việt, đặc biệt là những
người được sinh ra trước năm 1975. Sự sợ hãi ấy gặm
nhấm dần sự phản kháng và sẽ có thể đi đến chỗ tiêu
diệt nó. Nhưng đó chỉ là một nguyên nhân lớn có thể
được nhận thấy ngay, chắc chắn phía sau nó còn nhiều nhân
tố khác. Ngoài tác động của sự sợ hãi và cái di sản văn
hóa thụ động được thừa kế từ quá khứ (như đã được
phân tích ở bài "Chủ nghĩa tập thể và tự do cá nhân" ),
tinh thần chủ động và năng lực phản kháng của người
Việt chúng ta còn bị bào mòn đến mức có khả năng biến
mất bởi những điều kiện chính trị, kinh tế-xã hội đương
thời. Hôm nay trong bài này tôi chỉ tập trung nói về nhân tố
thứ hai. Sau gần bốn thập kỷ áp đặt sự cai trị lên cả
nước, đảng Cộng sản Việt Nam đã triệt tiêu dần sự phản
kháng của người dân bằng những điều kiện chính trị kinh
tế mà họ chủ động tạo ra.
Sự xuất hiện của Nhà nước trong nền văn minh nhân loại đã
đương nhiên trao cho phần còn lại của cộng động quốc gia
hai lựa chọn định mệnh: Một, là mỗi một chúng ta phải là
những công dân mạnh mẽ để kiểm soát cái quyền lực mà
chúng ta đã trao cho họ (Nhà nước); hai, là chúng ta im tiếng
thần phục kẻ cai trị như những thần dân yếu đuối hoặc
những tên nô lệ ngoan ngoãn. Tôi vẫn luôn tin rằng chúng ta
được sinh ra là có quyền lựa chọn cho mình một cuộc sống
theo cái cách mà chúng ta muốn. Tương tự như thế, nhận thức,
thái độ và hành động của người dân quyết định vận
mệnh của đất nước đó. Thái độ nghiêm khắc và sự phản
kháng của người dân là tối cần thiết cho sự vận hành
guồng máy quốc gia và cả những sự thay đổi chính trị cần
thiết. Thay đổi chính trị là tiến trình phù hợp với quy
luật phát triển chung của xã hội. Bất cứ sự lệch lạc nào
(như cải cách kinh tế không đi đôi với sự tự do chính trị)
sẽ là sự kìm hãm nếu không muốn nói là phá hoại xã hội.
Một nền cai trị với đặc quyền chính trị được ban phát,
trao đổi, chuyển giao trong một vòng khép kín; cùng với nền
kinh tế mà những cơ hội béo bở nhất chỉ được chia chác
trong nội bộ cầm quyền, một cách rất tự nhiên, đã tạo ra
sức hút mạnh mẽ đối với lớp người muốn tìm kiếm cơ
hội tiến thân. Những người có bằng cấp, học vị nhưng
không có khả năng tài chính thường cảm thấy may mắn với
một vị trí công chức trong các cơ quan công quyền hoặc những
công ty quốc doanh. Còn những ai có tiềm lực tài chính đủ
để thành lập một cơ sở làm ăn của riêng mình thì cũng
không khỏi đến nương nhờ giới cầm quyền với hi vọng
kiếm được những cơ hội làm ăn thuận lợi. Đây chính là
đặc trưng lớn của cấu trúc giai tầng xã hội Việt Nam (cũng
như Trung hoa) hiện tại.
Thử nhìn lại một ví dụ điển hình về sự hình thành giai
cấp tư sản hay còn gọi là quý tộc mới (gentlemen) trong lịch
sử nước Anh để so sánh với điều đang xảy ra tại Việt
Nam.Tầng lớp quý tộc mới này ban đầu là những địa chủ
nông thôn hay những người thủ đắc tài sản bậc trung ở
thành thị. Họ đã tích lũy được tài sản và lớn mạnh
bằng chính năng lực sáng tạo và công sức lao động của
mình, hoàn toàn không phụ thuộc vào giới cầm quyền phong
kiến và quý tộc bảo hoàng. Đây là lớp người mới trỗi
dậy trong lòng chế độ phong kiến Anh thời bấy giờ, năng
động và có khả năng phát triển không ngừng vượt ra ngoài
cái giới hạn bé nhỏ mà một xã hội phong kiến đủ khả
năng tạo nên. Khả năng phát triển độc lập của họ bị sự
cản trở đã trở thành động lực của cuộc cách mạng đòi
tự do. Vì thế, ngày nay, khi nói đến những cuộc cách mạng
dân chủ, người ta thường chú ý đặc biệt đến giới trung
lưu trong xã hội. Tầng lớp này nếu có ý thức dân chủ càng
mạnh thì triển vọng thay đổi xã hội càng sáng sủa.
Nhìn lại xã hội Việt Nam, chúng ta nhận thấy một bối cảnh
ngược lại. Giới trung lưu và cả lớp người có triển vọng
bước vào giới trung lưu là những người có học thức và tài
sản đã hình thành, lớn mạnh chính nhờ xuất thân gia đình
có liên quan đến chế độ hoặc nhờ sự nương tựa vào giới
cầm quyền cộng sản. Lớp người này theo sự phát triển của
nền kinh tế, giáo dục-xã hội trong hai thập niên qua đang ngày
càng gia tăng. Cuộc sống hiện tại và triển vọng tương lai
của họ nương theo sự phát triển và "ổn định" của cái
thể chế độc tài hiện tại. Vì thế khó tìm được lý do
thích đáng và đủ mạnh để họ từ bỏ quyền lợi kinh tế
mà dấn thân đòi hỏi tự do chính trị. Đây là kiểu hình
thành tầng lớp trung lưu chỉ có ở Việt Nam và Trung Quốc -
nơi mà một nền kinh tế dần được cởi mở kết hợp nền
chính trị độc tài, trái ngược hẳn với ví dụ trên về
nước Anh. Nền kinh tế còn tiếp tục phát triển, người ta
còn tiếp tục im lặng và do đó chế độ độc tài còn có
thể trông cậy vào sự hợp tác của họ để tiếp tục nắm
quyền. Nhiều chuyên gia trên thế giới vào cuối thế kỷ
trước đã hi vọng rằng những cải cách kinh tế sẽ dẫn dắt
thay đổi chính trị ở Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng chúng ta
đang nhận được một kết quả ngược lại. Bởi vì, bản
chất của giới trung lưu tư bản xuất hiện trong lòng chế
độ phong kiến phương Tây khác hẳn giới trung lưu được sinh
ra từ "nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa".
Tôi có một người bạn đang là giảng viên Đại học. Khi nghe
tôi nói về dân chủ tự do, anh ta buột miệng thốt lên: "Thay
đổi chế độ cho tôi mất việc à?" Những người này đang
có cuộc sống tốt đẹp hơn nhiều so với phần đông dân
chúng nên không ngạc nhiên khi họ có tâm lý e sợ bất cứ sự
thay đổi nào. Đối với họ, thay đổi như là một điều gì
đó quá phiêu lưu, có khả năng cướp đi những may mắn và sự
sung túc hiện tại. Thật vậy, hiện nay thông tin không thiếu,
hiện trạng đất nước phơi bày ra trước mắt. Thế nhưng
nhiều người, nhất là những người trẻ vẫn im tiếng. Không
thể đổ hết mọi truy nguyên vào sự sợ hãi. Thế hệ những
người sinh ra sau 1975, chưa đối mặt và kinh qua nhiều nỗi sợ
hãi như cha anh họ. Nhưng chính sự gắn bó quyền lợi hiện
tại hay ít ra là khát vọng vươn đến những lợi ích kinh tế
và chính trị mà đảng cộng sản ban phát khiến tinh thần
phản kháng nguội lạnh. Có thể người ta đã nhận thấy
những khiếm khuyết của nền chính trị và xã hội nhưng hoặc
vì quyền lợi, hoặc vì sự bất an về một tương lai, họ
chấp nhận im lặng, bàng quan trước thời cuộc. Khi nói về
dân chủ, những người trung lưu đang hưởng lợi từ giới
cầm quyền thường đặt ra một câu hỏi rằng liệu dân chủ
có tốt đẹp hơn đối với họ như thể chế hiện thời
không?, nghĩa là họ đang băn khoăn nếu thiếu sự "đỡ
đầu" của nhà cầm quyền cộng sản và những nhà đại tư
bản đỏ, liệu họ có đủ điều kiện để thọ hưởng thành
quả như hôm nay không? Những ai thành công chỉ dựa vào sự
luồn lách, bợ đỡ tầng lớp trên luôn có cái tâm lý đó.
Còn những trí thức trẻ sau khi có một công việc tốt, ổn
định và có khả năng bước vào giới trung lưu thường nuôi
dưỡng một nỗi sợ sự thay đổi một cách vu vơ, không có
căn cứ như anh bạn tôi. Nếu nỗi sợ bị đàn áp, ngược
đãi hiện diện ở hầu khắp quần chúng lớp dưới của cấu
trúc xã hội, thì sự e ngại đổi thay lại tồn tại trong lớp
người ở tầng giữa này. Nhưng ngặt nỗi, lớp người thờ ơ
với thời cuộc do sự gắn bó lợi ích với giới cầm quyền
này lại là những người có học thức và tiềm lực tài chính
hơn hẳn đại đa số dân chúng còn lại. Điều này đã tạo
nên một lực hãm đối với mọi sự đổi thay.
Còn quá nhiều người trẻ Việt Nam có cái cung cách tư duy già
cỗi và ích kỷ này. Điều quan trọng là làm sao cho những
người này hiểu được rằng nền dân chủ mang lại lợi ích
chung cho cả dân tộc, kể cả việc nó sẽ mang lại những gì
nhà cầm quyền hiện tại không thể bảo đảm như khả năng
được sống như những công dân mạnh mẽ, tự do và sáng tạo.
Tất cả chúng ta trừ những kẻ cầm quyền đã gây tội ác
sẽ được hưởng lợi từ nền dân chủ. Vì thế không có lý
do gì để chúng ta e ngại sự thay đổi.
Có một điều may mắn là tầng lớp trung lưu và lớp người
có khả năng gia nhập tầng lớp này ở Việt Nam chưa nhiều so
với tỉ lệ dân số phần đông sống ở nông thôn và nghèo
khổ. Tầng lớp trung lưu trước nay luôn có cuộc sống dễ
dàng và cơ hội cuộc sống trôi chảy hơn phần còn lại của
dân số. Nhưng nền kinh tế đặt trọng tâm vào khu vực quốc
doanh, được quản lý quá yếu kém, phụ thuộc vào Trung cộng
và không có động lực phát triển do thiếu vắng sự trợ giúp
đắc lực của nền chính trị tự do đã lâm vào suy thoái.
Chỉ số lạm phát ở Việt Nam trong tháng sáu đã lên tới 20%.
Kinh tế Việt Nam có thể đang bước xuống những bậc thang
cuối cùng dẫn đến sự khủng hoảng toàn diện. An ninh và
triển vọng tài chính của lớp người này trở nên bấp bênh
và họ có nguy cơ trắng tay. Thêm vào đó, đất nước đang
đối mặt với nguy cơ ngoại xâm, mà khả năng Đảng cộng
sản đang bất lực "vô kế khả thi" dẫn đến nhiều rủi
ro khó lường đoán. Lợi ích của cả dân tộc, trong đó có
lợi ích của lớp người này đang bị đặt vào tình thế nguy
hiểm, vì nếu lợi ích quốc gia còn thì lợi ích mỗi cá nhân
người Việt còn; nếu lợi ích và chủ quyền quốc gia bị
tước đoạt thì chẳng có ai có thể tính đến quyền lợi hay
tương lai nữa. Họ đang bị đặt trước một sự lựa chọn
không thể né tránh: trở về với quần chúng cùng khổ, dấn
thân, phản kháng để đòi lại quyền tự do, quyền quyết
định vận mệnh đất nước mà trong đó lợi ích của họ
tất nhiên bị gắn kết; hoặc là quyền lợi và tương lai của
họ vĩnh viễn mất đi cùng với sự mất đi của quyền lợi
dân tộc. Khi nền kinh tế phá sản và đất nước bị ngoại
bang xâm phạm, có thể họ sẽ bị bỏ lại bên lề một thế
cuộc đang sôi động hứa hẹn mang đến một cuộc đổi thay
toàn diện cho đất nước.
Benjamin Franklin đã nói: "<em>Người nào từ bỏ tự do thực
sự để đổi lấy một ít an toàn tạm thời thì không xứng
đáng được tự do, cũng chẳng xứng đáng được an
toàn</em>". Dân tộc ta đang ở trong một thế cuộc khó khăn.
Sự lựa chọn vì thế rất khó khăn. Nhưng lựa chọn một con
đường hợp thời, hợp lòng người và hợp lý là cách duy
nhất để tiến về phía trước. Lịch sử vẫn diễn ra dù ta
có nhận thức và đồng hành cùng nó hay không. Chủ động tạo
ra lịch sử hay để cho thời cuộc cuốn chúng ta đi. Điều đó
tùy thuộc vào chúng ta. Sự "ổn định" (cả nội tại quốc
gia lẫn ngoại giao) mà những người cộng sản trước nay luôn
rêu rao đã phá sản rõ rằng trước thanh thiên bạch nhật.
Vậy thì chúng ta có lý do gì để níu kéo một chút "an
toàn" nhất thời đó mà từ bỏ tự do thực thụ?!
Tam Kỳ, ngày 12 tháng 7 năm 2011
Huỳnh Thục Vy
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9325), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét