Đinh Kim Phúc - Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và quan hệ Việt - Trung

<center><strong>Có phải bức công hàm của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng là lá bài tảy trong tình hữu nghị Việt -
Trung?</strong></center>

Theo tờ Xinhua ngày 14-6-2011, dẫn theo tờ Quân Giải phóng hàng
ngày cho biết chính phủ Trung Quốc phản đối nỗ lực để
quốc tế hóa vấn đề biển Đông, mà chỉ nên giải quyết
song phương thông qua hiệp thương hữu nghị giữa các bên tham
gia.

Trong bài báo này có đoạn viết:

<div class="special_quote">"<em>Trong một tuyên bố chính thức vào
năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố rõ ràng các đảo
ở biển Nam Trung Hoa như là một phần của lãnh thổ chủ
quyền của Trung Quốc, và sau đó Thủ tướng Việt Nam Phạm
Văn Đồng cũng bày tỏ sự thỏa thuận</em>".(1)</div>

Những luận cứ và luận chứng của chính phủ Trung Quốc không
có gì mới.

Ngày 17-11-2000, Bộ Ngoại giao Trung Quốc phát đi bản tin với
cái gọi là "Sự thừa nhận của quốc tế về chủ quyền
của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa":

<div class="special_quote">"<em>5. Việt Nam</em>

<em>a) Thứ trưởng ngoại giao Dung văn Khiêm [Ung Văn Khiêm] của
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lý
thường vụ Toà Ðại sứ Trung Quốc tại Việt Nam đã nói
rằng "theo những dữ kiện của Việt Nam, hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa là môt bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung
Quốc". Ông Le Doc [Lê Lộc], quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ
thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói
thêm rằng "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã
hoàn toàn thuộc về Trung Quốc từ thời nhà Ðường".</em>

<em>b) Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi
tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên bố ngày
4/9/1958 của Nhà nước Trung Quốc, rằng kích thước lãnh hải
của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều
này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung
Quốc, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa.
Ngày 14/9 cùng năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía
nhà nước Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu
Ân Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam "nhìn nhận và
ủng hộ Bản Tuyên bố của Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa trong vấn đề lãnh hải".</em>

<em>c) Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình cơ bản
của môn địa lý của Việt Nam xuất bản năm 1974, đã ghi
nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến
đảo Hải Nam và Ðài Loan hình thành một bức tường phòng
thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa</em>"(2).</div>

Ở đây chúng ta phải hiểu vấn đề này như thế nào?

Cần nhắc lại rằng ngày 4 tháng 9 năm 1958, trong bối cảnh
của thời kỳ chiến tranh lạnh, lúc bấy giờ đang xảy ra
cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan. Đài Loan lúc đó còn giữ
hai đảo nằm giáp lãnh thổ Trung Quốc là Kim Môn và Mã Tổ.
Hải quân Mỹ đến vùng eo biển Đài Loan, khiến Trung Quốc lo
sợ rằng Mỹ có thể tấn công xâm phạm chủ quyền của Trung
Quốc. Trung Quốc phải lập tức ra tuyên bố lãnh hải của
mình là 12 hải lý.

Sau đây là toàn văn tuyên bố:

<div class="special_quote">"<em>Tuyên bố của Chính phủ Nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải (Ðược thông qua trong
kỳ họp thứ 100 của Ban Thường vụ Đại hội đại biểu
Nhân dân toàn quốc ngày 4 tháng 9 năm 1958)</em>

<em>Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa nay tuyên bố:</em>

<em>(1) Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung
Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan
(tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển
cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo
Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam
Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.</em>

<em>(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của
bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi
được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo
đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12
hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của
Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả
vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung
Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo
Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo
Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh,
là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.</em>

<em>(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự
không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao
trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển
trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ
liên hệ của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.</em>

<em>(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và
các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa,
quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các
đảo khác thuộc Trung Quốc.</em>

<em>Ðài Loan và Bành Hồ hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa
Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn
lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài
Loan và Bành Hồ đang chờ được chiếm lại. Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy
lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoài không
nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc</em>".</div>

<center><img src="http://danluan.org/files/u1/sub01/image001_6.jpg"
width="600" height="502" alt="image001_6.jpg" /></center>
<center><em>Phê chuẩn của hội nghị lần thứ 100 của Ban
Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc ngày
4-9-1958 (Nguồn: http://law.hku.hk)</em></center>

Đáp lại tuyên bố này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi bức
công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai nguyên văn như sau:

<div class="special_quote">"<em>Thưa đồng chí Tổng lý</em>

<em>Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung
Quốc.</em>

<em>Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng
quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa trên mặt biển.</em>

<em>Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân
trọng</em>".(3)</div>

Theo Tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á
đang sống ở Hungary đã giải thích: "Trong các năm 1955-1958,
ban lãnh đạo Bắc Việt chưa đạt tới mục tiêu thống nhất
đất nước vì phải đối phó với khó khăn nội bộ và thiếu
ủng hộ của quốc tế. Đồng minh chính của họ lúc này là
Trung Quốc. Trong hoàn cảnh này, Hà Nội không thể hy vọng xác
lập quyền kiểm soát đối với Hoàng Sa và Trường Sa trong
tương lai gần, và vì vậy họ không thể có sự bất đồng
lớn với Trung Quốc về các hòn đảo. Lúc này, chính phủ Bắc
Việt tìm cách có được giúp đỡ của Trung Quốc, và họ chỉ
cố gắng tránh đưa ra tuyên bố công khai ủng hộ những tuyên
bố chủ quyền cụ thể của Trung Quốc hay ký vào một văn
kiện bắt buộc mà sẽ công khai từ bỏ chủ quyền của Việt
Nam đối với các đảo này.

Sang năm 1974, tình hình hoàn toàn khác. Việc thống nhất Việt
Nam không còn là khả năng xa vời. Giả sử Trung Quốc có không
can thiệp, Hà Nội có thể dễ dàng lấy các đảo cùng với
phần còn lại của miền Nam. Từ 1968 đến 1974, quan hệ Việt -
Trung đã xuống rất thấp, trong khi Liên Xô tăng cường ủng
hộ cho miền Bắc. Trong tình hình đó, quan điểm của Bắc
Việt dĩ nhiên trở nên cứng cỏi hơn trước Trung Quốc so với
thập niên 1950.

Vì những lý do tương tự, thái độ của Trung Quốc cũng trở
nên cứng rắn hơn. Đến năm 1974, Bắc Kinh không còn hy vọng
Hà Nội sẽ theo họ để chống Moscow. Thực sự vào cuối 1973
và đầu 1974, Liên Xô lại cảm thấy sự hòa hoãn Mỹ - Trung
đã không đem lại kết quả như người ta nghĩ. Washington không
từ bỏ quan hệ ngoại giao với Đài Loan cũng không bỏ đi ý
định tìm kiếm hòa hoãn với Liên Xô. Ngược lại, quan hệ Xô
- Mỹ lại tiến triển tốt. Vì thế trong năm 1974, lãnh đạo
Trung Quốc lại một lần nữa cảm thấy bị bao vây. Vì vậy
họ muốn cải thiện vị trí chiến lược ở Đông Nam Á bằng
hành động chiếm Hoàng Sa, và tăng cường ủng hộ cho Khmer
Đỏ và du kích cộng sản ở Miến Điện.

Tiến sĩ Balazs Szalontai phân tích tiếp hoàn cảnh ra đời của
bức công hàm mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi cho Chu
Ân Lai: "Trước tiên, ta nói về tuyên bố của Trung Quốc. Nó
ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển năm 1956 và các hiệp định được ký sau đó năm 1958.
Lẽ dễ hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên
của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn có tiếng nói về cách giải
quyết những vấn đề đó. Vì lẽ đó ta có tuyên bố của
Trung Quốc tháng 9 năm 1958.

Như tôi nói ở trên, trong những năm này, Bắc Việt không thể
làm phật ý Trung Quốc. Liên Xô không cung cấp đủ hỗ trợ cho
công cuộc thống nhất, trong khi Ngô Đình Diệm ở miền Nam và
chính phủ Mỹ không sẵn sàng đồng ý tổ chức bầu cử như
đã ghi trong Hiệp định Geneva. Phạm Văn Đồng vì thế cảm
thấy cần ngả theo Trung Quốc.

Dẫu vậy, ông ấy có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một
tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền
đối với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng
tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố
trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ
các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có
chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào
về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.

Dù sao trong tranh chấp lãnh thổ song phương này giữa các quyền
lợi của Việt Nam và Trung Quốc, quan điểm của Bắc Việt,
theo nghĩa ngoại giao hơn là pháp lý, gần với quan điểm của
Trung Quốc hơn là với quan điểm của miền Nam Việt Nam.

Còn lời phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm
đưa ra năm 1956, Tiến sĩ Balazs Szalontai đã có ý kiến: "Theo
trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, vào giữa năm 1956, Ung
Văn Khiêm đã nói với đại biện lâm thời của Trung Quốc
rằng Hoàng Sa và Trường Sa về mặt lịch sử đã thuộc về
lãnh thổ Trung Quốc. Ban đầu tôi nghi ngờ sự chân thực của
tuyên bố này. Năm 2004, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thậm chí xóa
đi những chương tranh cãi của lịch sử Triều Tiên khỏi trang
web của họ. Tức là họ sẵn sàng thay đổi quá khứ lịch sử
để phục vụ cho mình.

Tôi cũng chấp nhận lý lẽ rằng nếu ông Khiêm quả thực đã
nói như vậy, thì có nghĩa rằng ban lãnh đạo Bắc Việt thực
sự có ý định từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng nay tôi nghĩ khác, mà một lý do là
vì tôi xem lại các thỏa thuận biên giới của Mông Cổ với
Liên Xô.

Tôi nhận ra rằng tuyên bố của Ung Văn Khiêm thực ra không có
tác dụng ràng buộc. Trong hệ thống cộng sản, tuyên bố của
một quan chức như ông Khiêm được coi như đại diện cho quan
điểm chính thức của ban lãnh đạo. Nhưng ban lãnh đạo cũng
có thể bỏ qua ông ta và những tuyên bố của ông ta bằng
việc sa thải theo những lý do có vẻ chả liên quan gì. Đó là
số phận của Ngoại trưởng Mông Cổ Sodnomyn Averzed năm 1958.
Trong lúc đàm phán về biên giới Liên Xô – Mông Cổ, ông ta
có quan điểm khá cứng rắn, và rất có thể là vì ông ta làm
theo chỉ thị của ban lãnh đạo. Nhưng khi Liên Xô không chịu
nhả lại phần lãnh thổ mà Mông Cổ đòi, và chỉ trích
"thái độ dân tộc chủ nghĩa" của Averzed, Mông Cổ cách
chức ông ta.

"Trong trường hợp Ung Văn Khiêm, ông ta khi ấy chỉ là thứ
trưởng, và chỉ có một tuyên bố miệng trong lúc nói riêng
với đại biện lâm thời của Trung Quốc. Trong hệ thống cộng
sản, tuyên bố miệng không có cùng sức mạnh như một thông
cáo viết sẵn đề cập đến các vấn đề lãnh thổ. Nó cũng
không có sức nặng như một tuyên bố miệng của lãnh đạo cao
cấp như thủ tướng, nguyên thủ quốc gia hay tổng bí thư. Rõ
ràng các lãnh đạo Bắc Việt không ký hay nói ra một thỏa
thuận nào như vậy, vì nếu không thì Trung Quốc đã công bố
rồi.

Vậy thì, bức công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có ý
nghĩa pháp lý nào không?

Tiến sĩ Balazs Szalontai bày tỏ: "Nó khiến cho quan điểm của
Việt Nam bị yếu đi một chút, nhưng tôi cho rằng nó không có
sức nặng ràng buộc. Theo tôi, việc các tuyên bố của Trung
Quốc nhấn mạnh nguyên tắc "im lặng là đồng ý" không có
mấy sức nặng. Chính phủ miền Nam Việt Nam đã công khai phản
đối các tuyên bố của Trung Quốc và cố gắng giữ các đảo,
nhưng họ không ngăn được Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Trung
Quốc đơn giản bỏ mặc sự phản đối của Sài Gòn. Nếu Hà
Nội có phản đối lúc đó, kết quả cũng sẽ vậy thôi.

Tiến sĩ Balazs kết luận, do lá thư của Phạm Văn Đồng chỉ
có giá trị pháp lý hạn chế, nên một sự thảo luận công
khai về vấn đề sẽ không có hại cho cả Việt Nam và Trung
Quốc. Nhưng dĩ nhiên chính phủ hai nước có thể nhìn vấn
đề này theo một cách khác.(4)

Còn theo Tiến sĩ Luật Từ Đặng Minh Thu của Đại học
Sorbonne, Pháp Quốc, thì cho rằng những lời tuyên bố trên của
Thủ tướng Phạm văn Đồng không có hiệu lực vì trước năm
1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý những đảo
này. Lúc đó, những đảo này nằm dưới sự quản lý của
Việt Nam Cộng hòa; mà các chính phủ Việt Nam Cộng hòa luôn
luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo.
Còn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
cũng không tuyên bố điều gì có thể làm hại đến chủ
quyền này cả. Tác giả Monique Chemillier-Gendreau đã viết như
sau:

"<em>Dans ce contexte, les declarations ou prise de position éventuelles
des autorités du Nord Vietnam sont sans consequences sur le titre de
souveraineté. Il ne s'agit pas du gouvernement territorialement competent
à l'égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n'a pas
d'autorité…</em>"

(Có thể dịch là: "Trong những điều kiện này, những lời
tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền
Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền.
Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo
này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta
không kiểm soát được…").

Một lý lẽ thứ hai nữa là đứng trên phương diện thuần
pháp lý, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không phải
là một quốc gia trong cuộc tranh chấp. Trước năm 1975, các
quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan,
Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời tuyên bố của
một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.

Nếu đặt giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thì dựa trên luật quốc
tế, những lời tuyên bố đó cũng không có hiệu lực. Tuy
nhiên, có tác giả đã nêu thuyết "estoppel" để khẳng
định những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối
với Việt Nam, và Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược
lại.

Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể
gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó
buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel". Điều 38 Quy chế Tòa án
Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn phương trong
danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế. Estoppel là
một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc
hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt
động trước kia. Câu tục ngữ thường dùng để định nghĩa
nó là "one cannot at the same time blow hot and cold." Nhưng thuyết
estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì
quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó.

Thuyết estoppel bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của
Anh, được thâu nhập vào luật quốc tế. Mục đích chính của
nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi
vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt
hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các
điều kiện chính:

1. Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ
quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và phải được phát
biểu một cách minh bạch (clair et non equivoque).

2. Quốc gia nại "estoppel" phải chứng minh rằng mình đã
dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia
kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động.
Yếu tố này trong luật quốc nội Anh-Mỹ gọi là "reliance".

3. Quốc gia nại "estoppel" cũng phải chứng minh rằng, vì
dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt
hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời
tuyên bố đó.

4. Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động
phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ. Thí
dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine", bản
án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại
Nicaragua", bản án "Ngôi đền Preah Vihear",…

Ngoài ra, nếu lời tuyên bố đơn phương có tính chất một
lời hứa, nghĩa là quốc gia tuyên bố mình sẽ làm hoặc không
làm một việc gì, thì quốc gia phải thực sự có ý định
muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó, thực sự muốn thi hành
lời hứa đó.

Thuyết estoppel với những điều kiện trên đã được án lệ
quốc tế áp dụng rất nhiều. Trong bản án "Thềm lục địa
vùng biển Bắc" giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Đan Mạch,
Hà Lan, Tòa án quốc tế đã phán quyết rằng estoppel không áp
dụng cho Cộng hòa Liên bang Đức, mặc dù quốc gia này đã có
những lời tuyên bố trong quá khứ nhằm công nhận nội dung
của Công ước Genève 1958 về thềm lục địa, vì Đan Mạch và
Hà Lan đã không bị thiệt hại khi dựa vào những lời tuyên
bố đó.

Trong bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự
tại Nicaragua" giữa Nicaragua và Mỹ, Toà đã phán quyết như
sau: "… 'Estoppel' có thể được suy diễn từ một thái
độ, những lời tuyên bố của một quốc gia, nhằm chấp nhận
một tình trạng nào đó; thái độ hoặc lời tuyên bố không
những phải được phát biểu một cách rõ rệt và liên tục,
mà còn phải khiến cho một hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào
đó mà thay đổi hoạt động, và do đó phải chịu thiệt
hại".

Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời
tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu
điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm
1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái
độ vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Và Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình
bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không được hưởng lợi gì khi có
những lời tuyên bố đó. Lúc đó hai dân tộc Việt Nam và Trung
Hoa rất thân thiện, "vừa là đồng chí, vừa là anh em".
Những lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn
toàn do tình hữu nghị Hoa-Việt.

Hơn nữa, lời văn của bản tuyên bố không hề nói rõ ràng
minh bạch là công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng
Sa. Bức công hàm chỉ nói: "Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy (quyết định ấn
định lãnh hải 12 dặm của Trung Quốc), và sẽ chỉ thị cho
các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng
hải phận 12 hải lý của Trung Quốc…".

Lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có thể
hiểu là một lời hứa đơn phương, một lời tuyên bố ý
định sẽ làm một việc gì (declaration d'intention). Thật vậy,
đây là một lời hứa sẽ tôn trọng quyết định của Trung
Quốc trong việc ấn định lãnh hải của Trung Quốc, và một
lời hứa sẽ ra lệnh cho cơ quan công quyền của mình tôn
trọng lãnh hải đó của Trung Quốc.

Một lời hứa thì lại càng khó ràng buộc quốc gia đã hứa.
Tòa án Quốc tế đã ra thêm một điều kiện nữa để ràng
buộc một lời hứa: đó là ý chí thực sự của một quốc gia
đã hứa. Nghĩa là quốc gia đó có thực sự muốn bị ràng
buộc bởi lời hứa của mình hay không. Để xác định yếu
tố "ý chí" (intention de se lier), Toà xét tất cả những dữ
kiện xung quanh lời tuyên bố đó, xem nó đã được phát biểu
trong bối cảnh, trong những điều kiện nào (circonstances). Hơn
nữa, nếu thấy quốc gia đó có thể tự ràng buộc mình bằng
cách ký thoả ước với quốc gia kia, thì lời tuyên bố đó là
thừa, và Tòa sẽ kết luận là quốc gia phát biểu không thực
tình có ý muốn bị ràng buộc khi phát biểu lời tuyên bố
đó. Vì vậy, lời tuyên bố đó không có tính chất ràng buộc.

Trong bản án "Những cuộc thí nghiệm nguyên tử" giữa Úc,
New Zealand và Pháp, Pháp đã tuyên bố là sẽ ngừng thí nghiệm
nguyên tử. Toà án đã phán quyết rằng Pháp bị ràng buộc
bởi lời hứa vì Pháp thực sự có ý muốn bị ràng buộc bởi
lời hứa đó.

Trong trường hợp Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi
tuyên bố sẽ tôn trọng lãnh hải của Trung Quốc, không hề có
ý định nói đến vấn đề chủ quyền trên Hoàng Sa và
Trường Sa. Ông đã phát biểu những lời tuyên bố trên trong
tình trạng khẩn trương, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo
thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan
và đe doạ Trung Quốc. Ông đã phải lập tức lên tiếng để
ủng hộ Trung Quốc nhằm gây một lực lượng chống đối lại
với mối đe doạ của Mỹ.

Lời tuyên bố năm 1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa cũng như vậy. Động lực của lời tuyên bố đó là tình
trạng khẩn trương, nguy ngập ở Việt Nam. Đây là những lời
tuyên bố có tính chính trị, chứ không phải pháp lý.

Nếu xét yếu tố liên tục và trường kỳ thì ba lời tuyên
bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không hội đủ tiêu
chuẩn này. Estoppel chỉ đặt ra nếu chấp nhận giả thuyết
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một; và cả Pháp trong thời kỳ thuộc địa, và
Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975 cũng là một đối với Việt
Nam hiện thời. Nếu xem như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một
quốc gia riêng biệt với Việt Nam hiện thời, thì estoppel không
áp dụng, vì như đã nói ở trên, lời tuyên bố sẽ được xem
như lời tuyên bố của một quốc gia không có quyền kiểm soát
trên lãnh thổ tranh chấp. Như vậy, nếu xem Việt Nam nói chung
như một chủ thể duy nhất từ xưa đến nay, thì ba lời tuyên
bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ là một sự phát
biểu có ý nghĩa chính trị trong đoản kỳ thời chiến, so với
lập trường và thái độ của Việt Nam nói chung từ thế kỷ
XVII đến nay.

Tóm lại, những lời tuyên bố mà chúng ta đang phân tích thiếu
nhiều yếu tố để có thể áp dụng thuyết estoppel. Yếu tố
"reliance" (tức là quốc gia kia có dựa vào lời tuyên bố
của quốc gia này mà bị thiệt hại), và yếu tố "ý chí"
(tức là quốc gia phát biểu lời hứa có ý muốn bị ràng
buộc bởi lời hứa đó) rất quan trọng. Không có "reliance"
để giới hạn sự áp dụng của estoppel thì các quốc gia sẽ
bị cản trở trong việc hoạch định chính sách ngoại giao. Các
quốc gia sẽ phải tự ép buộc cố thủ trong những chính sách
ngoại giao lỗi thời.

Khi điều kiện chung quanh thay đổi, chính sách ngoại giao của
quốc gia kia thay đổi, thì chính sách ngoại giao của quốc gia
này cũng phải thay đổi. Các quốc gia đổi bạn thành thù và
đổi thù thành bạn là chuyện thường.

Còn những lời hứa đơn phương trong đó quốc gia không thật
tình có ý muốn bị ràng buộc, thì nó chẳng khác gì những
lời hứa vô tội vạ, những lời hứa suông của các chính
khách, các ứng cử viên trong cuộc tranh cử. Trong môi trường
quốc tế, nguyên tắc "chủ quyền quốc gia" (état souverain)
rất quan trọng. Ngoại trừ tục lệ quốc tế và những điều
luật của Jus Congens, không có luật nào ràng buộc quốc gia
ngoài ý muốn của mình, khi mà quốc gia này không gây thiệt
hại cho quốc gia nào khác. Vì vậy ý chí của quốc gia đóng
một vai trò quan trọng trong việc quyết định tính chất ràng
buộc của một lời hứa đơn phương.(5)

Ông Lưu Văn Lợi, cựu Chánh văn phòng-Trợ lý Bộ trưởng
Ngoại giao, Trưởng ban Biên giới thuộc Hội đồng Bộ trưởng
(1978-1989) đã nhận xét: "Công hàm của ông Phạm Văn Đồng
chỉ là một cử chỉ tốt đẹp về tình hữu nghị, ủng hộ
Trung Quốc trong lúc Mỹ đưa hạm đội 7 tới eo biển Đài Loan
mà thôi".(6)

Từ những phân tích trên, theo chúng tôi là xác đáng nhưng
cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại
giao của Thủ tướng Phạm văn Đồng không phải là ông không
nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng
Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm và đã trả giá trong bàn
đàm phán Geneve năm 1954, khi bàn về việc chấm dứt chiến tranh
và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Nhưng kinh nghiệm ấy
cũng không ngăn ông được khi giải quyết các vấn đề biên
giới, lãnh thổ với Trung Quốc vì Việt Nam đã tạo nên ấn
tượng rằng Việt Nam đã tự nguyện chấp nhận những hy sinh
vì lợi ích của đường lối chung về "cùng tồn tại hòa
bình" đang thịnh hành trong thế giới xã hội chủ nghĩa lúc
bấy giờ.

Nhưng quan trọng hơn hết, từ năm 1945 đến nay, Quốc hội
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội nước Việt Nam
Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt và hiện nay là là
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra
nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần
đảo Hoàng Sa-Trường Sa.

Tất cả những chứng cứ mà phía Trung Quốc đưa ra đều vô
hiệu!

<h2>Chú Thích:</h2>

(1) Nguồn:
http://news.xinhuanet.com/english2010/indepth/2011-06/14/c_13929394.htm

(2) www.fmprc.gov.cn, ngày 17/11/2000

(3) Lưu Văn Lợi, Cuộc tranh chấp Việt-Trung về 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, NXB Công an, Hà Nội, 1995, trang 105.

(4) BBC ngày 24-1-2008 và tổng hợp ý kiến của Tiến sĩ Balazs

(5) Từ Đặng Minh Thu,Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa-Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung
Quốc,Thời Đại Mới, Số 11/7/2007).

(6) BBC Vietnamese.com ngày 18/09/2008. Bài "Trung Quốc xuyên tạc
cử chỉ hữu nghị".

[*] Bài viết do nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc gửi trực tiếp cho
NXD-Blog. Xin chân thành cảm ơn tác giả!

<h2>Phụ lục:</h2>

<center><img
src="http://danluan.org/files/u1/sub01/8095fecde308d6edae8182673a4d659b7898cd13.jpg"
width="588" height="761" alt="8095fecde308d6edae8182673a4d659b7898cd13.jpg"
/></center>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9095), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét