Điều 88 bộ Luật Hình Sự: Công cụ chuyên dụng diệt trí thức Việt Nam (1)

<div class="special_quote"><h2>Bài này gồm 4 phần:</h2>

<strong>Phần 1- Xác định khái niệm trí thức </strong>

"Trí thức" là từ được sử dụng phổ biến, nhưng khái
niệm rất không thống nhất; do vậy bài này trước hết cần
xác định khái niệm "trí thức" mà nó nói tới;

<strong>Phần 2- Thân phận trí thức dưới chế độ độc
tài</strong>

Chế độ độc tài ở thời đại này đều phải nguỵ trang
bằng chiếc mặt nạ dân chủ, nhưng nó vẫn buộc phải coi trí
thức là đối tượng cần bịt miệng trước hết – vì đây
là lực lượng đủ khả năng vạch trần rất sớm, rất toàn
diện và rất quyết liệt sự dối trá.

<strong>Phần 3- Điều 88 Luật Hình Sự: Công cụ chuyên dụng
diệt trí thức Việt Nam</strong>

Nhưng, độc tài ở các nước nông nghiệp lạc hậu - do bản
chất phong kiến – là tàn bạo nhất. Ở Việt Nam, nó dùng
điều 88 Luật Hình Sự diệt mọi mầm mống trí thức.

<strong>Phần 4- Điều 88 Luật Hình Sự: Nhất định phá sản
</strong>

Luật này đã bộc lộ những tử huyệt, sẽ ngày càng mất tác
dụng, đi đến phá sản nếu trí thức biết "điểm trúng
huyệt"</div>

<h2>Phần 1: Xác định khái niệm trí thức</h2>

Các quan niệm về trí thức có phổ khá rộng. Có người nói
Việt Nam còn hiếm trí thức, nhưng văn bản nhà nước lại nói
Việt Nam đã có hàng triệu trí thức, khiến đảng phải ra
nghị quyết xếp họ vào "đội ngũ" để họ nghe rõ lệnh.
Đảng coi tốt nghiệp cao đẳng đã là trí thức, trong khi một
tiến sĩ tự trọng lại chưa dám nhận mình là trí thức. Rắc
rối thế!

Do vậy, bài này cần làm rõ khái niệm trí thức. Tốt nhất là
tìm nội hàm "gốc" của từ này. May mắn, google search đã
cung cấp cả loạt bài trên báo chí công khai trong nước. Theo
nguyên nghĩa, trí thức là những con người cao đẹp, nhưng trong
một bài viết của mình, GS Chu Hảo lại nhận định khác đi,
nếu trí thức bị gắn thêm cái đuôi… XHCN.

<h2>Xã hội xưa chưa thể có trí thức</h2>

Xã hội nào cũng có số ít người có trình độ cao hơn mặt
bằng chung. Ở xã hội cổ xưa, vẫn có những người nhờ kinh
nghiệm hoặc tự tìm tòi mà có hiểu biết hơn người khác. Tuy
vậy, họ vẫn phải lao động chân tay vất vả như mọi
người, vì khi đó của cải còn eo hẹp: Nếu không trực tiếp
sản xuất là… đói ngay. Nhưng sẽ tới lúc xã hội nhận ra
tầm quan trọng của lao động trí óc. Một ví dụ (tôi không
nhớ đã đọc ở đâu): Khi một bộ lạc thôi cử một thanh
niên vạm vỡ làm người đứng đầu mà thay bằng một ông già
"hiểu biết và kinh nghiệm đầy mình" thì đó là bước thay
đổi nhận thức rất ý nghĩa. Nhận thức mới về lao động
trí óc khiến xã hội dám bỏ ra một nguồn của cải đủ để
mở trường. Trường lớp ra đời khiến số lao động trí óc
tăng lên thành một tầng lớp riêng. Nhờ vậy, công cụ thô sơ
được thay dần bằng máy móc, khiến lao động chân tay từ
dạng "hùng hục" chuyển thành dạng kỹ năng, cũng phải qua
đào tạo mới có được.

Rồi ngay trong lớp người lao động trí óc cũng có sự phân
tầng: cao và thấp. Một nhà nghiên cứu và viên thư ký của
ông ta đều là lao động trí óc nhưng thuộc 2 tầng khác nhau,
có mức độ đóng góp khác nhau. Xã hội tìm ra những từ thích
hợp để tôn vinh những người có đóng góp lớn, nhất là
đóng góp qua sáng tạo: Nho sĩ, sĩ phu, nhà văn, văn hào, nghệ
sĩ, bác học, học giả, trí giả, nhà khoa học, giáo sư, nhà
thông thái… Và nói chung, họ được xã hội coi là người
"có học" - nhưng đây chỉ là cách gọi mang tính quy ước
và rất tương đối. Trước năm 1945, thầy giáo tiểu học ở
nước ta đã được coi là "có học". Tuy nhiên, dân ta hiểu
rất rõ và rất thống nhất: Thế nào là người "có học"
– không những về mặt chữ nghĩa, sự hiểu biết, mà cả tư
cách, lối sống, ứng xử…

Nhưng cả phương Đông và phương Tây, cho tới năm 1898, tuy số
người "có học" đã khá đông đảo, nhưng vẫn chưa có ai
là trí thức - bằng chứng là mọi cuốn từ điển lớn (như
Larousse 1878 hay Đại từ điển Bách khoa 1902) vẫn chưa có mục
từ trí thức.

<h2>Văn hào Zola trở thành trí thức</h2>

Nhà văn Zola (1840-1902) cả đời say mê sáng tác thì không có gì
lạ, nhưng rắc rối là ông cứ bỏ công sức "xía vô"
những chuyện chẳng liên quan gì tới văn chương.

Một ví dụ: Ngày 13-1-1898 ông đăng trên báo L'Aurore một thư
ngỏ gửi tổng thống, phản đối quyết liệt một bản án
bất công. Nhan đề bức thư: Tôi kết tội - do ông chủ báo
đặt – làm ngọn lửa dư luận bùng cháy dữ dội khiến tờ
báo phải tăng số ấn bản gấp 10 lần. Hôm sau, báo này lại
đổ thêm dầu bằng cách đăng tiếp một bản kháng nghị vẫn
của Zola, nhưng tiếp sau là danh tính của một loạt nhà văn,
nhà khoa học nổi tiếng thời đó. Tên của nó: Manifeste Des
Intellectuels, cũng do toà báo đặt, nay đã đi vào lịch sử.

Intellectuel vốn là tính từ, nhưng tiến sĩ vật lý Clemenceau,
chủ báo, vị thủ tướng tương lai, cứ sử dụng như danh từ,
khiến các cụ ta dịch sang tiếng Việt cũng thành danh từ:
Tuyên ngôn của các trí thức. Tiếng Trung Quốc không có từ
"trí thức", mà do các nhà học giả Việt Nam đưa ra.

- Nếu vậy, xin bái phục thế hệ cha ông đã sáng tạo một
từ mới, rất sát nghĩa, và bản thân các cụ cũng hành xử
đúng theo nội hàm của từ này. Đó là thế hệ Phan Chu Trinh,
Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi…, tiếp đó là Vũ
Đình Hoè, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Văn Huyên… - thế hệ vàng,
theo nhà sử học Dương Trung Quốc.

- Theo gót các vị, nửa thế kỷ trước các nhà văn, nhà khoa
học nước ta cũng ra một "Tuyên Ngôn" (đại ý: Chính trị
chớ xía vô chuyên môn). Đó là thế hệ trí thức kế tiếp
(Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Nguyễn Mạnh Tường, Trần
Đức Thảo…).

- Tuyên Ngôn gần đây là của nhóm Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn,
Nguyễn Thế Hùng được nhiều trí thức khác hưởng ứng...
Và, liệu có thể coi "đơn tự thú" của sinh viên Nguyễn Anh
Tuấn là khởi đầu một tuyên ngôn mới của trí thức trẻ?.

<h2>Nội hàm gốc</h2>

Hành vi chống bất công của Zola đã làm nảy sinh một từ
mới, trước 1898 chưa hề có: trí thức, mà bản thân Zola là
một hình mẫu: nhạy cảm với bất công; tôn thờ chân lý,
công lý, công bằng và dám phản biện…
Như vậy, nội hàm gốc của từ trí thức gồm hai phần (điều
kiện Cần và Đủ):

1) Đó là người "có học", lao động trí óc, dẫu có sáng
tạo thì mục đích chủ yếu vẫn chỉ là kiếm sống cho bản
thân.

2) Đó là người phê phán - bằng lập luận chặt chẽ, xây
dựng và không vụ lợi - những bất công, bất cập trong xã
hội. Như vậy, mục đích duy nhất là để xã hội tốt đẹp
hơn.

Biết chọn trúng những vấn đề cần phê phán để phê phán
nói lên tầm vóc người trí thức.

"Trí thức" quả là một từ đầy sáng tạo của cha ông ta.
Vừa phải có "trí" tức năng lực tư duy, lại vừa phải
"thức" để bản thân không bị mê hoặc, mà còn làm tỉnh
ngộ mọi người.

GS Chu Hảo nói: <em>Không có tư duy phản biện, không phải trí
thức</em>; GS Phạm Song nói: <em>Trí thức thì không được
hèn</em>; có vị còn coi phản biện xã hội là thiên chức của
trí thức… Ấy là họ nhấn mạnh phần thứ hai - điều phải
có để một người "có học" thành trí thức.

Nội hàm của từ trí thức giúp ta dễ hiểu vì sao trí thức
luôn luôn nhạy cảm với bất công, áp bức. Lương tâm và sự
tỉnh thức buộc trí thức phải phát ngôn – và đó là cách
phản kháng duy nhất và đặc trưng nhất của trí thức. Cấm
đoán tự do ngôn luận là cách trắng trợn nhất chống lại
trí thức. Nếu lại dùng cả đến Luật (điều 88) thì sự
đàn áp trí thức đã rất trắng trợn. Nếu lại đưa điều 88
vào Luật Hình Sự thì đó sự tàn bạo. Nếu điều luật này
được áp dụng một cách độc đoán trong phiên toà xử trí
thức, thì sự tàn bạo đã ở mức thách thức lương tri dân
tộc.

Do vậy lên tiếng phản đối bất công, trí thức lâm vào vị
thế "tay không đối diện với cường quyền". Nếu vậy thì
câu "trí thức là phải dấn thân", hoặc "thái độ trí
thức là thước đo mức tự do và công bằng xã hội"…
chẳng có gì khó hiểu.

<h2>Điều kiện ra đời của trí thức</h2>

- Thời phong kiến, ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều
trong tay vua. Do vậy, vua có cả giang sơn và nắm giữ sinh mạng
toàn dân. Vua cho ai sống, được sống; vua bắt ai chết, phải
chết. <em>Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung</em> là
câu trong sách thánh hiền; nghĩa là: <em>Vua xử bề tôi chết,
bề tôi không chết là bất trung</em>. Nhưng "bất trung" lại
là tội lớn nhất – tức tội… chết. Rốt cuộc, không thể
thoát chết khi vua đã xử chết.

- Thuở ấy, hai ông ngang tài (ví dụ, Lưu Bang, Hạng Võ) xông
vào nhau để giành ba quyền, nếu ai thắng, được gọi là vua,
có quyền viết lịch sử để gọi kẻ thua là "giặc" hay
"ngụy". Vài ví dụ: xa xưa, sứ quân Đinh Bộ Lĩnh có quyền
gọi 11 vị sứ quân khác là "giặc"; thời cận đại, Gia
Long gọi Tây Sơn là "ngụy"; thời hiện đại, liệu đã
hết chưa; cần tìm hiểu thêm. Nhưng nếu một đội quân lại
phải thề trung với vua – nay là đảng - thay vì trung với
nước, thì lời hoa mỹ nào cũng không che dấu được đó là
quân đội của chế độ phong kiến trá hình.

- Thời phong kiến tất nhiên cũng có một tầng lớp có học
vấn cao. Ở nước ta, họ được gọi là nho sĩ, nếu ai có
thêm những phẩm chất cao quý (liêm chính, thẳng thắn, vô
tư…) thì được tôn là sĩ phu… Sĩ phu, dù cương trực đến
đâu, một khi đã nhận quan tước cũng chớ dại mà "phản
biện" vua - sẽ mất đầu ngay. Bạo gan nhất là dám (lễ
phép) can vua; can không được thì phải tạ lỗi ngay. Nếu thấy
vua còn giận thì phải kịp xin về quê yên phận, tránh hoạ.

Tóm lại, xã hội phong kiến chưa thể đủ điều kiện để
trí thức ra đời.

- Trí thức chỉ có thể xuất hiện khi xã hội đã có dân
chủ, hiến pháp đã quy định sự phân lập của ba quyền; báo
chí và xuất bản đã được tự do (để trí thức, ví dụ Karl
Marx, có nơi lên tiếng); quyền ngôn luận đã được xác lập
(để trí thức có thể phát ngôn mà không lo bị đàn áp)…
Về nguyên tắc thì thế, nhưng thực tế sự ra đời của tầng
lớp trí thức châu Âu ở thế kỷ trước cũng khá trầy trật,
sự hy sinh của bản thân không nhỏ và thân phận nhiều người
cũng chẳng ít lênh đênh. Điều này có nguyên nhân.

<h2>Thân phận ba chìm bảy nổi</h2>

Trí thức chẳng có quyền lực gì trong tay. Khốn nỗi, nhờ
hiểu biết và tìm tòi, họ dễ nhìn ra những bất công và bất
cập trong xã hội. Trăn trở, bức xúc, khiến họ phải lên
tiếng. Dù lên tiếng nhẹ nhàng, họ vẫn làm phật ý giới
bảo thủ đang nắm quyền lực – vì không nhiều thì ít, giới
này phải chịu trách nhiệm - huống hồ lên tiếng một cách gay
gắt càng làm cho bọn này điên tiết. Do vậy, khi chế độ
phong kiến bị thay thế chưa lâu bằng chế độ tư bản còn sơ
khai; vương quyền vừa mới bị thay thế bằng nền cộng hoà
còn non trẻ, trí thức vẫn phải dũng cảm và dấn thân mới
có được tiếng nói trong xã hội. Đó chính là trường hợp
Zola.

- Năm 1898 (năm khai sinh cái từ "trí thức"), nước Pháp đã
có hiến pháp dân chủ, ba quyền đã phân lập, báo chí đã tự
do… nhưng các thế lực bảo thủ, phản tiến bộ vẫn rất
mạnh, có mặt cả trong nghị viện và chính quyền; riêng toà
án thì giới quân sự độc chiếm. Phe tả và hữu đấu tranh
ở mọi nơi, mọi lúc kể cả trên mặt trận dư luận… Do
vậy, không đủ dũng cảm làm sao trở thành trí thức?

Một ví dụ: Giới nhà báo phe hữu đã vu cáo - với những từ
miệt thị - khi họ phê phán bức thư và bản kháng nghị của
Zola, tạo cớ để toà án xử tù và phạt tiền ông (tội vu
khống). Ví dụ khác: đa số dân Pháp, do chủ nghĩa dân tộc
còn nặng nề, vẫn kỳ thị viên đại uý Do Thái (nạn nhân
vụ án), vẫn ủng hộ sự xâm lăng thuộc địa (tôn vinh các
vị tướng trong đội quân cướp nước). Do đó, niềm tin mù
quáng đã ủng hộ không nhỏ cho bản án. Ngay khi bản án đã
buộc phải sửa, nạn nhân đã được minh oan, nhưng cái chết
của Zola vẫn bị nghi vấn là do phe hữu ám sát.

<h2>Karl Marx (1818-1883) và Émile Zola (1840-1902)</h2>

Cách nhau 22 tuổi, nhưng đều thọ trên 60 năm, do vậy hai danh
nhân này có thời gian 40 năm cùng tồn tại. Tuy nhiên, trong
khối ấn phẩm đồ sộ của mỗi người, họ không một lần
nào nhắc đến tên nhau, hay nói vài lời về nhau. Việc ai nấy
làm, mỗi người theo đuổi mục tiêu riêng của đời mình.

Marx nhận ra sự tàn bạo của chế độ tư bản thời kỳ nó
còn sơ khai (hoang dã, rừng rú) và ông muốn diệt nó càng sớm
càng tốt (trận cuối cùng). Đó là thiện chí. Ông công bố
bản án tử hình cho chế độ tư bản năm 1848 cũng bằng một
Tuyên Ngôn (Tuyên Ngôn CS), khi Zola mới có 8 tuổi, nhưng chắc
chắn Zola biết tới tuyên ngôn này khi đã trưởng thành – vì
Marx nhiều lần cho in lại Tuyên Ngôn của mình bằng nhiều thứ
tiếng. Nhưng Zola chọn cách khác, thiết thực hơn.

Làm sao diệt nổi một chế độ ra đời đúng quy luật, khi nó
còn đang phát triển và hàng trăm năm sau vẫn chưa phát triển
tới đỉnh cao - mà quy luật dành cho nó? Đó là ảo tưởng.
Marx công khai và trực tiếp chĩa mũi nhọn vào chế độ tư
bản, công khai nhận mình là kẻ thù số 1 của chế độ này.
Dẫu vậy, chế độ tư bản đối xử lại, mức tàn tệ nhất
chỉ là trục xuất, và Marx lại được một nước tư bản
khác chấp nhận cho cư trú cả gia đình. Mọi tác phẩm của
Marx đều được in ra, chẳng thiếu một trang – theo đúng
Luật về tự do xuất bản. Marx có thể nói đủ những gì mình
thù hận chế độ tư bản, kết tội nó, tiên đoán nó sẽ
chết yểu… vậy mà không ai dám kiểm duyệt và cắt xén nửa
chữ - theo đúng Luật về quyền tự do ngôn luận. Không những
thế, Marx còn lập đảng, lập cả Quốc tế CS, nhúng tay vào
cuộc bạo loạn ở Pháp (Công xã Paris…

Chỉ cần thời xưa, Marx bị đối xử khắt khe bằng 1/10 hoặc
1/100 cách đối xử của đảng CSVN với nhà trí thức Cù Huy Hà
Vũ, liệu Marx có kịp sống đủ tuổi trời mà công bố tác
phẩm, đặng leo lên bàn thờ của đảng CSVN hay không?

Còn Zola, ông không chống chế độ tư bản (đang lên), mà
chống những tiêu cực cụ thể xuất hiện trong chế độ này
để xã hội tư bản tốt dần lên. Như vậy, thiết thực hơn.
Càng chống kiểu Zola, chế độ tư bản càng hoàn thiện, vững
vàng, cho tới khi nó hết sứ mệnh.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://vv.danluan.org/node/9054), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét