Giáp Văn Dương - Hoài nghi và Chân lý

Hoài nghi không phá vỡ chân lý, mà ngược lại, làm mới và
nâng đỡ chân lý trong một chu trình biện chứng bất tận
không ngừng nghỉ của nhận thức.

<h2>Hoài nghi</h2>

Phương Tây có một câu châm ngôn được sử dụng phổ biến:
<em>Hãy nghi ngờ tất cả!</em>

Vì sao người phương Tây lại đặt nặng việc hoài nghi như
vậy? Vì qua truyền thống khoa học và triết học, họ phát
hiện ra rằng: Hoài nghi là khởi đầu của tiến bộ, là con
đường đi tới chân lý, là sự giải phóng lý trý triệt để
nhất.

Khi lý trí hoài nghi, lý trí quay lại tự vấn chính bản thân
mình, từ đó tự giải phóng cho mình khỏi tình trạng lệ
thuộc vào lý trí của kẻ khác hoặc những giáo điều và quán
tính tư duy sẵn có.

Truyền thống hoài nghi trong tư duy của phương Tây được khởi
đầu từ triết học, trước hết qua phép truy vấn biện chứng
của Socrates, sau đó lan sang khoa học, và hoàn thiện trở thành
thói quen tư duy lành mạnh, một phương tiện quan trọng để đi
tới chân lý.

Socrates đã sử dụng hoài nghi như một phần tất yếu của truy
vấn biện chứng: khi một ý tưởng hoặc một nhận định
được nêu ra như một chính đề, thì sẽ ngay lập tức bị
hoài nghi nhằm xác định lại tính đúng đắn của nó dưới
dạng một phản đề, rồi trên cơ sở đó hình thành nên một
hợp đề có tính chân lý cao hơn. Hợp đề, đến lượt nó,
lại trở thành chính đề cho một quá trình truy vấn mới, cho
đến khi đạt được chân lý, hoặc thực tiễn hơn, đạt
đến giới hạn của nhận thức tại thời điểm đó. Như
thế, hoài nghi không chỉ là phương tiện để đạt được
chân lý, mà còn giúp xác định được giới hạn của tri thức
và phạm vi áp dụng của chân lý.

Câu nói nổi tiếng của Socrates là: Tôi chỉ biết một điều
là tôi không biết gì cả. Nhưng nghịch lý ở chỗ, người
không biết gì cả này lại được coi là người thông thái
nhất đương thời. Khi Chaerephon, một người bạn của Scorates,
đến hỏi nhà nữ tiên tri, cũng là vị tư tế ở đền thờ
Thần Mặt Trời thành Delphi, rằng có ai thông thái hơn Socrates
không, thì được trả lời: Không!

Socrates không chấp nhận những niềm tin hay xác tín đã bám rễ
lâu đời trong truyền thống và huyền thoại. Chính ông đã
thôi thúc người đối thoại phải biện minh và cắt nghĩa
những xác tín của mình thông qua một chuỗi những câu hỏi
truy vấn liên tục – hình thức cụ thể của hoài nghi.

Sau Scorates, Decartes – nhà Triết học và Toán học Pháp – cũng
đã sử dụng hoài nghi như một phương tiện chủ đạo để
xác lập tính tuyệt đối trong các kết luận của mình, nhằm
làm nền tảng cho việc xây dựng hệ thống tri thức về sau.
Ông nghi ngờ mọi thứ, ngay cả sự tồn tại của bản thân
mình, nhằm quét sạch mọi quan niệm đã có, để từ đó từng
bước xây dựng hệ thống tri thức của mình một cách khả
tín và vững chắc. Chính việc hoài nghi này, đã dẫn ông đến
một kết luận nổi tiếng về sự tồn tại của bản mình qua
câu nói: <em>Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại</em>.

"Sự tiến bộ của nhận thức, không chỉ đạt được do tìm
ra những mảnh đất tri thức mới chưa từng khai phá, mà còn do
tìm ra những cách nhìn mới về một sự vật hiện tượng
cũ". Hoài nghi những cách thức nhìn nhận cũ chính là cách
dễ nhất để tìm ra những cách nhìn nhận mới đó. Vì thế,
hoài nghi vừa là xuất phát điểm, vừa là động lực của
việc mở mang tri thức.

Khi mất khả năng hoài nghi, lý trí sẽ trở nên tê liệt. Một
người không biết hoài nghi, tức một người hành động theo
những niềm tin được lập trình trước, về bản chất không
khác gì so với một cỗ máy.

Khả năng hoài nghi, biểu hiện trước hết bằng khả năng tự
đặt câu hỏi và chối bỏ áp đặt của truyền thống và xác
tín giáo điều, theo một nghĩa nào đó, chính là thước đo
mức độ trưởng thành của một con người. Nếu một người
không có khả năng hoài nghi, chỉ tin vào những tín điều do
người khác giao giảng, thì về bản chất, người đó vẫn còn
ở thời kỳ thơ ấu.

Với một xã hội, cũng giống như một cá nhân, khả năng hoài
nghi và chối bỏ áp đặt cũng chính là thước đo sự trưởng
thành về mặt tinh thần của xã hội đó. Nếu một xã hội
không biết hoài nghi, chỉ đồng thuận tin theo những tín
điều, thì xã hội đó còn chưa thoát khỏi thời kỳ ấu trĩ.

Vì thế, ngăn chặn khả năng hoài nghi của một cá nhân, trực
tiếp hoặc gián tiếp, chính là phá hoại sự phát triển lành
mạnh của cá nhân đó; hạn chếkhả năng hoài nghi của xã
hội chính là kéo lùi sự phát triển lành mạnh của xã hội
đó.

<h2>Chân lý</h2>

Chân lý là đích đến của việc tìm kiếm tri thức. Nhưng chân
lý không bất biến, vĩnh cửu. Chân lý luôn được cập nhật
cùng sự phát triển của nhận thức. Và một trong những cách
thức chủ yếu để cập nhật chân lý là hoài nghi chân lý
đó. Hiểu như thế thì hoài nghi là bổ trợ của chân lý chứ
không phải là chống đối chân lý.

Thực tế trong khoa học và triết học cho thấy, biết đặt câu
hỏi thậm chí còn quan trọng hơn biết câu trả lời. Vì biết
đặt câu hỏi là biết xúc tiến một hành trình đi tìm chân
lý, còn biết câu trả lời là tạm thời chấm dứt hành trình
đó.

Điều này cho thấy, giữa hoài nghi và chân lý có mối quan hệ
biện chứng qua lại lẫn nhau, bổ trợ lẫn nhau. Không thể
đạt được chân lý nếu không biết cách hoài nghi lành mạnh.
Và chân lý, với tính tương đối của nó, nếu không có hoài
nghi để tự hoàn thiện mình, sẽ tha hóa thành giáo điều
dưới sự phát triển của những nhận thức mới.

Nếu nhìn qua những thành tựu của tư tưởng của nhân loại,
sẽ không có thành tựu nào thiếu vắng hoài nghi như một sự
dẫn đường. Những đỉnh cao mới ra đời, đều xuất phát
từ sự hoài nghi một đỉnh cao cũ, và tìm cách vượt qua nó
bằng một quá trình nhận thức mới.

Những thành tựu của khoa học kĩ thuật đạt được không
phải bởi tư duy tư biện của lý trí thuần túy, mà phần lớn
bởi những thực nghiệm và quan sát được thiết kết để
kiểm tra – một biểu hiện cụ thể của hoài nghi -một giả
thuyết đã xác lập. Hoài nghi vì thế là linh hồn của mọi
hoạt động nghiên cứu tìm tòi.

Những thành tựu của Toán học và Vật lý học cho thấy, sự
bất toàn, bất định và bổ sung nhau là bản chất của tri
thức. Nên hoài nghi – đặc tính gắn liền với sự bất toàn
và bất định – trở thành đặc tính không thể tách rời
của chân lý. Chính hoài nghi đã thổi sức sống cho chân lý,
làm cho chân lý sống động, uyển chuyển, luôn tự cập nhật
làm mới mình dưới ánh sáng của những nhận thức mới.

Nếu tách hoài nghi ra khỏi chân lý, chân lý sẽ mất hết sức
sống và trở nên cằn cỗi, xơ cứng theo thời gian. Chân lý
sẽ thoái hóa trở thành giáo điều và kìm hãm, thậm chí phá
hoại, quá trình nhận thức những chân lý mới đúng đắn hơn.

Như vậy, hoài nghi không phá vỡ chân lý, mà ngược lại, làm
mới và nâng đỡ chân lý trong một chu trình biện chứng bất
tận không ngừng nghỉ của nhận thức. Và để đạt được
chân lý, khả năng hoài nghi cần phải được khai phóng như
một sự tất yếu.

Bài đã đăng trên <a
href="http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=111&CategoryID=2&News=4127">Tạp
chí Tia Sáng</a>.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9077), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét