Chủ Quyền Nam Hải của Trung Quốc : thực tế hay giả tưởng?

<h2>Chủ Quyền Nam Hải của Trung Quốc : thực tế hay giả
tưởng?</h2>

<em>Trong các cuộc đàm phán đang diễn ra trong vài năm qua, các
quốc gia đòi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa đã
đồng ý một cách lỏng lẻo để "tăng cường hợp tác" tại
biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, Bắc Kinh một quốc gia mạnh nhất
và ít linh hoạt nhất trong việc đòi chủ quyền, vẫn kiên
quyết trong sự khẳng định của mình rằng các quần đảo
Trường Sa là "một phần không thể tách rời của quê hương
Trung Quốc". Trong những trường hợp này, có lẽ đây là lúc
để xem xét các nền tảng lịch sử về sự tuyên bố của
Trung Quốc và để thực sự xem Bắc Kinh có những lợi ích
hợp pháp nào hay không trong khu vực.</em>

Trong tháng Bảy, 1977, khi Đặng Tiểu Bình (Teng Hsiao-ping) là nhà
lãnh đạo Trung Quốc đầu tiên nổi lên sau cái chết của Mao
Trạch Đông, bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc, ông Hoàng Hứa
(Huang Hua), đã tái khẳng định rằng sự đòi hỏi chủ quyền
của Trung Quốc trên Biển Đông là "không chuyển nhượng
được" theo lời lẽ mạnh nhất. Đồng thời ông nhận xét:

<em>Lãnh thổ của Trung Quốc kéo xa về phía nam đến vùng Shoals
James, gần lãnh thổ Borneo của Malaysia ... Tôi nhớ rằng trong
khi tôi còn là một cậu học sinh, tôi đọc về những hòn
đảo này trong các sách địa lý. Lúc đó, tôi chưa bao giờ nghe
ai nói rằng những quần đảo này không phải của Trung Quốc
... Việt Nam cho rằng các quần đảo đó thuộc về họ. Hãy
để họ nói chuyện theo cách đó. Họ đã nhiều lần yêu cầu
chúng tôi để thương lượng với họ về vấn đề này, chúng
tôi đã luôn luôn từ chối làm như vậy ... Khi nói đến quyền
sở hữu của các đảo, có nhiều tài liệu lịch sử có thể
được xác minh. Không cần có các cuộc đàm phán vì từ ban
đầu nó đã thuộc về Trung Quốc.</em>

Trong tuyên bố này ông Hoàng chỉ đơn giản là nhắc lại quan
điểm trước đó của Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc kể từ
thời điểm khởi đầu vào năm 1949, và lặp đi lặp lại
nhiều lần từ đó: rằng quyền sở hữu của Trung Quốc trên
Biển Đông là "đã được lịch sử chứng minh" và do đó không
chuyển nhượng được. Gần đây, kể từ khi Trung Quốc chiếm
giữ đảo Panganiban, hoặc Mischief Reef, ở vùng biển gần đảo
Palawan của Philippines, bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc đã
mạnh mẽ nhắc lại rằng quyền sở hữu của Trung Quốc
được dựa trên "bằng chứng lịch sử không thể cãi".

Điều này có thể như vậy. Tuy nhiên, nếu như thực sự là
vậy, <strong><em>tại sao Trung Quốc không đưa ra các bằng
chứng?</em></strong> <span class="underlined-text">Sách địa lý của
Cựu bộ trưởng bộ ngoại giao ông Huang Hua, chắc chắn là
được viết bởi chính phủ Quốc dân Đảng đã cai trị Trung
Quốc khi ông còn là học sinh, những cuốn sách này không thể
được coi là bằng chứng chấp nhận được bởi bất kỳ cơ
quan tư pháp độc lập nào</span>. Chính quyền Quốc dân Đảng
tuyên bố chủ quyền cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
khi họ cai trị Trung Quốc, và ngày nay họ duy trì sự đòi hỏi
chủ quyền này khi họ đang ở Đài Loan. Để ghi chú, một lần
nữa, ông Huang Hua nói: "<em>Theo lý này, thái độ của Đài Loan
là chấp nhận được. Ít nhất là họ có một ít lòng yêu
nước và không bán các quần đảo</em>". <span
class="underlined-text">Rõ ràng, nếu Trung Quốc tuyên bố chủ
quyền được đưa ra để giải trí, phải có một cái gì đó
có nhiều thực chất hơn là với những sách giáo khoa có chủ
đích chính trị đáng nghi ngờ này được đưa dẫn làm bằng
chứng</span>.

May mắn thay, xã hội truyền thống của Trung Quốc vừa có hệ
thống cấp bậc vừa có học thức. Các Biên niên sử của các
hoàng đế là một nguồn phong phú về lịch sử, không chỉ
đối với Trung Quốc, nhưng đối với các vùng lãnh thổ xung
quanh bao gồm cả "Nam Dương" (Nan Yang), một thuật ngữ chung
của Trung Quốc đối với biển Đông Nam Á. Dù không tìm cách
chứng minh hay bác bỏ hiệu lực của tuyên bố Trung Quốc về
lãnh thổ được tranh chấp như Tây Tạng, Đông Turkistan và
Mông Cổ, các biên niên sử ít nhất chứng tỏ những tuyên bố
như vậy đã tồn tại qua nhiều thế kỷ.

Mặc dù Trung Quốc khẳng định gay gắt quyền kiểm soát qua
lịch sử, Trung Quốc gặp khó khăn hơn nhiều để thiết lập
bằng chứng về bất kỳ quyền lợi quốc gia nào mà Trung Quốc
có đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa (nay hoàn toàn dưới
sự kiểm soát của Trung Quốc) hoặc các quần đảo Trường Sa
(vẫn còn tranh chấp) ngay cả trước cả khi thế kỷ này bắt
đầu. <span class="underlined-text">Một trong những lý do rõ ràng
là những hòn đảo ở biển Nam Trung Quốc (tức Biển Đông) là
không có người ở</span> - mãi cho đến gần đây, khi các quốc
gia lân cận đã bắt đầu thiết lập các tiền đồn quân sự
trong khắp khu vực.

Bao gồm chủ yếu là các đảo nhỏ bao quanh bởi các rạn san
hô nguy hiểm, quần đảo Trường Sa có truyền thống được
các thủy thủ xem là một mối nguy hiểm cần tránh. Chỉ có
cướp biển, tìm nơi trú ẩn xa lánh quyền lực các chính
quyền, mới chú ý đến cho đến giữa thập niên 1840, khi Hải
quân Anh ghi chép hải đồ một cách có hệ thống. Một lần
nữa, theo chỉ huấn người Anh đã không tuyên bố các quần
đảo này là lãnh thổ của họ - mục đích duy nhất của cuộc
ghi chép hải đồ là để cải thiện giao thông hàng hải.

Điều này, tất nhiên, đặt ra câu hỏi "<span
class="underlined-text">nếu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
có thuộc về Trung Quốc trong nhiều thế kỷ nào đó, tại sao
họ không lập bản đồ và mô tả cho đến khi cuộc ghi chép
hải đồ vào giữa thế kỷ 19 của người Anh?</span>" Nó thực
sự là kỳ lạ - tương tự, có lẽ các tàu Trung Quốc là
người đầu tiên ghi chép hải đồ của quần đảo Faeroes
hoặc Shetland. Trong thực tế sự giải thích là đơn giản. <span
class="underlined-text">Trung Quốc, trái ngược với Anh quốc, luôn
luôn chỉ là một sức mạnh trên đất liền, hiếm khi nào mạo
hiểm ra biển nếu có</span>.

Chắc chắn là các thương gia địa phương Trung Quốc biết về
các rạn san hô và bãi cạn của quần đảo Trường Sa từ lâu
trước khi tàu bè người châu Âu đi vào những vùng biển của
Châu Á. Dĩ nhiên, các thương gia khác trong vùng như của Việt
Nam và Thái Lan, Mã Lai và Phi Luật Tân - cũng như một số ít
thương gia khác như Nhật Bản và các nước Ả Rập cũng đều
biết. Nhưng tất cả cũng đều giống nhau ở điểm - cũng
giống như người Anh trong thế kỷ 19 – <span
class="underlined-text">tất cả đều coi các rạn san hô và bãi
cạn là nguy hiểm cần tránh xa</span>. Ý tưởng của việc tuyên
bố chủ quyền đối với các bãi cạn, bãi đá như là một
tài sản quốc gia thật là vô lý - ít nhất cho đến thế kỷ
20 khi kỷ thuật công nghệ cho phép thăm do khai thác tận đáy
biển.

Truyền thống lâu đời của Trung Quốc như là một sức mạnh
trên đất liền cũng không hợp lý, Trung Quốc cũng có khi ra
khơi. Thật vậy, những cuộc du hành đường biển để đi xa
nổi tiếng và thành công của Trung quốc xảy ra trong thời nhà
Minh của vua Minh Thành Tổ ( 明成祖) hay Minh Thái Tông (明太宗)
tên là Chu Lệ (Yung Lo), Ch'eng Tsu, vào giữa thế kỷ thứ 15.
Giữa 1405 và 1433 vị vua khác thường này đã đưa bảy chuyến
thám hiểm không chỉ riêng khu vực Đông Nam Á, mà còn đến
tận Ấn Độ Dương.

<div class="boxright200"><img
src="http://www.cpamedia.com/politics/china_soulth_sea_claims/chengho_157x220.jpg"
/><div class="textholder">Minh họa của tàu Cheng Ho. Hình ảnh lưu
trữ của CPA.</div></div>
Những cuộc thám hiểm không phải là những vụ có quy mô nhỏ.
Dưới sự lãnh đạo của đại đô đốc Trịnh Hòa, một
người Hồi giáo Trung Quốc của tỉnh Vân Nam, hạm đội tàu
gồm hơn sáu mươi chiếc và chừng 28.000 quan quân đã đem biểu
kỳ của hoàng đế đến những nơi xa xôi như Jiddah ở Arabia
và Mombasa ở Đông Phi. Các bờ biển của Ấn Độ và Indonesia
đã được khám phá và mô tả, và các vùng biển xen ở giữa
cũng được vẽ hải đồ. Tiếng tăm của Trung Quốc trong khu
vực lúc đó rất là cao, và các nước khác nhau như Xiêm (Thái
Lan hiện nay) và Sri Lanka, Java và Bengal đã tranh nhau trong việc
gửi cống cho Ngai Rồng.

Khi Hoàng đế Yung Lo qua đời năm 1424 nhà Minh đã lên tới
đỉnh thành tích của mình, và Trung Quốc lúc đó có sức mạnh
rất lớn trên vùng biển của phương Đông. Hải quân của Yung
Lo lúc mạnh nhất có khoảng bốn trăm tàu chiến đặt tại các
trạm bảo vệ ven biển, bốn trăm tàu vận tải có vũ trang, và
- niềm tự hào của hải quân nhà Minh lúc đó là hai trăm năm
mươi "tàu kho báu", mỗi chiếc có khả năng chở năm trăm
người.

Tuy nhiên, cho dầu sự nở rộ của hàng hải Trung Quốc bắt
đầu có đáng kể cở nào, nhưng tất cả đã kết thúc. Một
trong những hành động đầu tiên của vị vua hướng nội kể
thừa của Hoàng đế Yung Lo là hoàng đế Jen-Tsung, người đã
đình chỉ tất cả các cuộc thám hiểm ra nước ngoài. Từ
giữa thế kỷ 15 trở đi Trung Quốc đã xa lánh biển, thiết
lập một đế quốc trên đất liền lớn ở Trung Á dưới
thời nhà Thanh. Bằng cách này, Vương quốc này đã sống sót
trong "sự cách ly tuyệt vời" cho đến khi bị buộc phải mở
cửa bằng tàu chiến của phương Tây trong thế kỷ 19.

May mắn cho hậu thế, các chuyến hàng hải thời nhà Minh để
lại một sự phong phú về thông tin dưới dạng bản đồ,
biểu đồ và lưu chú các cuộc du hành. Hầu hết đã được
xuất bản bằng tiếng Trung Quốc, và nhiều tài liệu – bao
gồm những tài liệu nổi tiếng nhất – bằng tiếng Anh. Có
lẽ là ví dụ nổi tiếng nhất của thể loại này là tài
liệu Khảo Sát Tổng Thể Các Bở Biển của Đại dương, biên
soạn bởi nhà sử học Ma Huan vào năm 1433. Sử dụng nghiên
cứu Ma Huân, kết hợp với các công trình hiện đại của Kung
Chen (1434), Fei Hsin (1436); và các nghiên cứu trước đó của Chao
kua-Ju (1226), Wang Ta-yüan (1350); và Ming Shih (Minh Sử), hay Minh
triều đại biên niên sử, học giả người Anh J.V.G. Mills vào
năm 1970 đã công bố một nghiên cứu có tiêu đề 'Trung Quốc
ở Nam Á, 1433'.

Trong tài liệu giá trị này ông Mills đã liệt kê danh sách và
xác định không ít hơn 715 địa danh ở Đông Nam Á và Ấn Độ
Dương đã được Trung Quốc biết đến vào giữa thế kỷ thứ
15. <strong>Tài liệu sử học có giá trị được nghiên cứu kỹ
càng này, được biên soạn trước cả sự cuộc xung đột
hiện nay ở vùng biển Nam Trung Quốc bùng lên vào năm 1973, và
nó không có bất kỳ một chủ đích chính trị của thời
nay</strong>, ông Mills cho thấy, <span class="underlined-text">không
một rạn san hô nào, hay bãi biển nào thuộc quần đảo
Trường Sa được ghi chép</span>. Tuy nhiên, trong cùng một danh
sách lại có bao gồm các quần đảo Andaman và Nicobar, không ít
hơn 8 đảo của Maldive, quần đảo Laccadive, những hải đảo xa
xôi ở Vịnh Ba Tư và vùng Hồng Hải – đó là chưa kể đến
vô số hòn đảo với tất cả các hình dạng và kích cỡ ở
Indonesia, Philippines và Malaysia.

Quần đảo Hoàng Sa, ngược lại, nhận được hai đề cập
ngắn gọn, cả hai đều bắt nguồn từ bản đồ cổ Mao K'un
được giữ tại Thư viện Quốc hội ở Washington. Bộ sưu tập
các biểu đồ được ghi số thứ tự, có từ năm 1621 nhưng
được cho là dựa trên những thông tin thu được từ những
cuộc thám hiểm thời Yung Lo, xác định Hoàng Sa[c. 15 ° 47 'N,
111 ° 12'E] theo tên Shih t'ang, hoặc "đá san hô" cũng như
Macclesfield Bank gần đó [c. 19 ° 12 'N, 113 ° 53'E], được xác
định là Shih hsing shih t'ang, hay "Stone Star Stone Reefs" (bãi đá
nổi đá chìm).

Quần đảo Hoàng Sa ngày nay dưới sự kiểm soát của Trung
Quốc - mặc dù điều này vẫn còn gây tranh cãi với Việt Nam.
Cho dù các tài liệu tham khảo ngắn gọn nói đến "các bãi đá
cạn" trong bản đồ Mao K'un có tạo thành bất kỳ loại bằng
chứng nào cho sự tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc vẫn còn
là một điểm tranh luận. Bên cạnh đó, những bãi cạn san hô
xa xôi không có người ở này, các thủy thủ trên thế giới
đều lánh xa cho đến thời gian gần đây, cũng có thể xuất
hiện trong hồ sơ lịch sử của Việt Nam.

Quan trọng hơn, một phân tích chi tiết của tất cả các kiến
thức được biết đến của Trung Quốc có liên quan đến vùng
biển Nam Trung Hoa trong thế kỷ 15 - đó là, <span
class="underlined-text">trong thời gian khi tàu bè Trung Quốc có vận
chuyển ở các khu vực trên cơ sở thường xuyên và thực hiện
các cuộc điều tra có hệ thống về đường biển – cũng
không tiết lộ bất kỳ một đề cập gì đến quần đảo
Trường Sa</span>. <strong>Do đó, câu hỏi phải hỏi là, khi nào
thì các đảo nhỏ xa xôi trở thành "một phần của quê hương
Trung Quốc"? Những căn cứ gì làm nền tảng cho lời tuyên bố
đó? Đâu là những bằng chứng, những "bằng chứng lịch sử
không thể chối cãi" mà Trung Quốc hiện nay dùng để đòi
quyền bá chủ trong vùng biển Đông?</strong>

Những bằng chứng đó có thể có, được cất giữ trong các
bảo tàng hoặc thư viện của một trường đại học ở đâu
đó ở Trung Quốc hay ở Đài Loan – những bằng chứng minh
chứng cho tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.

Một điều rõ ràng. Nếu văn bản đó có tồn tại, bây giờ
sẽ là thời điểm tuyệt vời để công bố chúng. Những
người dân của khu vực Đông Nam Á, lo ngại một cách chính
đáng bởi các kịch bản diễn ra trong các tranh chấp quần
đảo Trường Sa, rất xứng đáng được xem biết đến những
văn bản làm chứng cứ đó của Trung Quốc.

Văn bản quyền tác giả © Andrew Forbes / CPA năm 2001.
Bài viết này nguyên được công bố trên Asian Wall Street Journal.

Nguồn: http://www.cpamedia.com/politics/china_soulth_sea_claims/

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9052), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét