Từ hướng nam, tôi đi trên con đường tráng nhựa mà hơn ba
mươi ba năm trước, các nhà báo gọi nó là Đại lộ Kinh
hoàng. Nơi đây cách thị xã Quảng Trị 10 cây số. Bên trái con
đường là bãi cát trắng lẫn với màu đất đen. Những cụm
nhà mái tôn rải rác bên đường dưới ánh nắng gần trưa.
Không một bóng người. Bên phải con đường là bãi cát vàng
khô khốc, thỉnh thoảng gió thổi thốc từng cơn, những cụm
cát tung lên xòa ra trong nắng. Một căn nhà xập xệ chắp lại
bằng những miếng tôn cũ trên đó có dòng chữ bằng sơn
trắng "Sửa xe, vá ép", nơi cửa, một ông già ở trần
ngồi trên bậc thềm, tay cầm quạt lá, tay kia chống cằm nhìn
bâng quơ ra con đường nhựa vắng người.
Ngày 1 tháng 5 năm 1972, hàng vạn đồng bào từ Quảng Trị tản
cư vào Huế. Cuộc tản cư và rút lui hỗn loạn đã biến
đoạn Quốc lộ 1 ở quận Hải Lăng thành con đường xương
máu khi quân Bắc Việt phục kích và nã pháo vào đoàn người
di tản.
Bao nhiêu xác người đã nằm xuống và con đường hôm nay đìu
hiu thưa thớt. Ai đã khiêng cất xác họ, ai đã rửa chùi
những đống máu, lau đi những óc não tung bày, ai sắp lại
những gan ruột phơi ra trầy trụa, ai đã đạp trên xác họ
trên đường chạy lọan rồi gục xuống ở bước chân kế
tiếp, chồng lên người đã chết, người chết sau ngã trên
người chết trước.
Nhất tướng công thành. Những thường dân vô tội. Những
chiến sĩ vô danh. Tôi chưa đến tuổi lính vào những ngày máu
lửa đó, vào những ngày máu xương đến phải gọi nó là
Đại lộ Kinh hoàng. Bây giờ, Đại lộ Kinh hoàng mang tên Lê
Duẩn. Tôi đang đi trên nó một buổi sáng vắng lặng yên bình,
nhưng chợt ớn lạnh từng cơn như vô hạn oan hồn chồm lên
quấn lấy hỏi han. Cơn gió đồng lướt thướt thổi qua.
Tôi trèo lên xe, nói chạy nhanh đi vào thị xã. Tới một ngã
ba, người tài xế rẽ phải vào đường Trần Hưng Đạo. Đó
là một con đường nhỏ hơn, có một chứng tích duy nhất còn
sót lại của thị xã Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa,
trường Bồ Đề.
Người ta nói số bom đạn đổ xuống thị xã trong 81 ngày
đêm, kể từ ngày 30 tháng Ba năm 1972, có sức công phá mạnh
gấp bảy lần trái bom nguyên tử thả xuống Nhật trong thế
chiến hai. "Một viên gạch cũng bể làm tư," người Quảng
Trị nói rứa, chỉ riêng ngôi trường Bồ Đề còn đứng vững
với bốn bức tường lỗ chỗ vết đạn bom. Đến một ngã
tư, lại rẽ phải. Cổ thành Quảng Trị nằm phía tay trái,
cách quốc lộ chừng hai cây số. Ở góc tường đầu tiên, rêu
và cây dại mọc dày nhưng các vết đạn xoáy sâu vào lớp
gạch tường đo đỏ vẫn còn hằn dấu rõ.
Tôi nhớ như in bức ảnh chụp mấy người lính cắm cờ vàng
ba sọc đỏ trên cổ thành đổ nát năm nào. Bây giờ người ta
cho xây lại phần trên cổng thành, màu xám xi măng còn rất
mới, có vẻ lạc lõng và chênh vênh trên dãy tường thành cũ
kỹ. Bên trong thành, một con đường bê tông chạy thẳng từ
cổng đến một cái đài cao xây theo hình một nấm mộ lớn,
có bốn lối đi dẫn lên đài. Giữa trung tâm đài có một lư
hương lớn, và một cái cột cao vút lên dựng bên cạnh một
mái nhà mô phỏng một cổng tam quan.
Tôi đứng trên đài cao nhìn xung quanh. Trừ các con đường nội
bộ trong thành, còn lại là bãi cỏ xanh, các ghế đá công
viên, ở một khoảng sân người ta trưng bày một hỏa tiễn
chống máy bay.
Tôi đứng lại một mình. Những tường thành như có một
luồng khí lạnh tuôn ra làm sởn da. Có tài liệu nói rằng trong
trận ác chiến dành lại cổ thành, quân đội Việt Nam Cộng
Hoà chết gần mười ngàn người, bộ đội cộng sản cũng
chết khoảng con số đó.
Trong cổ thành này, xác người có thể sắp bên nhau dày đặc
mặt đất trong thành. "Một viên gạch cũng bể làm tư". Đó
là một nhận xét có vẻ đơn giản nhưng thật kinh hoàng. Nhưng
giờ đây người ta không coi đó là một trận địa đau khổ
và mất mát, những người ở đây coi đó là một chiến
thắng.
Nếu có mất mát thì đó là cuộc hy sinh của riêng những
người thắng trận sau cùng. Mấy năm trước tôi có coi một
đoạn phim tài liệu 45 phút do Sở Văn hóa Thông tin Quảng Trị
thực hiện với lời bình của Võ Nguyên Thủy, con của đại
tướng Võ Nguyên Giáp. Họ chiếu các mũi tiến công của bộ
đội cộng sản vào cổ thành khởi từ ngày cuối của tháng Ba
năm 1972, những trận giao tranh ác liệt, các cảnh máy bay B52
rải bom. Khi bộ đội phải bỏ chạy qua bờ bắc của sông
Thạch Hãn, họ bình luận "quân ta tổn thất khá nặng nề".
Mười ngàn người chết nhưng chỉ "khá nặng nề", và cơ
bản thì trận chiến mùa hè 1972 vẫn là "một thắng lợi
lớn góp phần vào công cuộc giải phóng miền Nam".
Các nhà quân sự cộng sản chỉ cần gây tiếng vang, họ khát
danh vọng bất kể mười ngàn lính nằm xuống để đổi lấy
81 ngày đêm giành dựt từng tấc đất một cách tuyệt vọng,
bất kể hàng vạn dân thường gục xuống do những màn pháo
kích bừa bãi từ trong núi nã xuống Đại lộ Kinh hoàng. Những
điều đó không được nhắc đến trong cả cuốn phim tài
liệu… Chỉ thấy chiến thắng, chiến thắng và chiến thắng!
Một người bạn chụp hình chuyên nghiệp kể rằng vào đây mà
không khấn vái thì khi rửa phim chỉ thấy một màu trắng xóa.
Tôi tin điều đó. Trên đài tưởng niệm có một lư hương
rất lớn, nhưng lư hương đó chỉ dành cho những người thắng
trận cuối. Không có một lư hương chung cho tất cả những linh
hồn vô danh lẩn khuất nơi đây, để những người sống có
thể thắp hương cầu nguyện cho tất cả, không một ai.
Tôi không thể đốt hương để cắm vào cái lư hương riêng
biệt này. Vì thế tôi chọn cắm một nén hương vào hư không.
Nhà bảo tàng có hai tầng. Từ ngoài cửa chính đi vào có một
sảnh chính bề ngang độ sáu, bảy thước, dài chừng mười
mấy thước. Cách bức tường cuối sảnh độ một thước
người ta dựng một tấm kiếng trong suốt hình vuông. Đằng sau
tấm kiếng, sát tường là một ngọn đèn điện được gói
bên ngoài một lớp giấy nửa xanh nửa vàng, dưới ngọn đèn
chắc có dấu một cái quạt nhỏ thổi ngược lên để lớp
giấy màu vàng luôn bay phần phật như ngọn lửa. Đó là ngọn
lửa giả tượng trưng ngọn lửa thiêng. Trên tấm kiếng trong
suốt có viết tên các đơn vị bộ đội đã tham gia chiến
dịch "giải phóng thành cổ" năm 1972.
Tôi đi lên tầng trên. Tầng này trưng bày các hiện vật và
hình ảnh các bộ đội đang đánh nhau, sơ đồ cổ thành, mô
hình trận đánh. Trong ngổn ngang chiến tích, đạn, bom, và súng
cối đã rỉ sét có một cái bàn vuông nhỏ bên trên lộng
kính, phía trong mặt kiếng có hai lá cờ vàng ba sọc đỏ xếp
ngay ngắn, một vài món quân trang quân dụng và năm tấm hình
căn cước của năm người lính Việt Nam Cộng Hòa. Có một
mẩu giấy ghi chú đây là chiến lợi phẩm mà bộ đội tịch
thu được trong cổ thành hồi 1972. Các hiện vật ở tầng này
sơ sài, cách trưng bày lộn xộn và thiếu chuyên môn. Không gian
trưng bày một trận chiến ác liệt với bao mất mát bị lấn
lướt bởi chủ đề chủ đạo "chiến thắng", biểu tượng
qua tấm hình một anh bộ đội ngồi ôm súng cười rất tươi
giữa cảnh hoang tàn đổ nát của cổ thành.
Rời cổ thành chúng tôi băng qua sông Thạch Hãn, đến ngã ba
rẽ vào đường số 9. Đường 9 Nam Lào. Mùa xuân năm 1971 Việt
Nam Cộng Hòa mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 tấn công qua biên
giới Lào để phá hủy các căn cứ của Bắc Việt. Trục lộ
hành quân chính là đường số 9 bắt đầu từ hướng cực
đông là thị trấn Đông Hà.
Tôi đã đọc nhiều tài liệu về con đường này, và giờ đây
tôi đang đi trên đường 9, bắt đầu từ thị trấn Đông Hà.
Mới hơn 10 giờ sáng nhưng cả thị trấn vắng vẻ như không
có nhiều người. Đường 9 Nam Lào bây giờ đã tráng nhựa và
khá rộng để hai chiếc xe tải tránh nhau dễ dàng. Con đường
này sẽ qua Cam Lộ, Cà Lu, Khe Sanh, Làng Vei, Lao Bảo cho đến
biên giới Lào.
Đường 9 Nam Lào chỉ có trong mường tượng từ ký ức qua các
tài liệu thời chiến, hình dung các cuộc chuyển quân, những
người lính gian khó, các trận đánh dữ dội, những con gió
Lào oi bức, có những khúc đường hẹp phải dùng xe ủi đất
mở đường, cây cối hai bên um tùm. Bây giờ đây trước mắt
là một con đuờng buồn, một thị trấn lặng lẽ, những căn
nhà hai bên đường không đóng cửa, nhìn suốt vào trong cũng
không thấy người.
Lời của một bài hát vào năm 1972 vang lên "… anh đã về Gio
Linh, Cam Lộ, Đông Hà…". Dưới ánh nắng trải đều dù
không thấy dấu vết sót lại của những ngày chiến tranh khốc
liệt, ít nhất cũng như vậy trong con mắt dân sự, nhưng từng
vùng đất đi qua đều gợi lên ký ức chiến tranh vì nó nổi
danh vì chiến tranh, những cái tên ngọt ngào nhưng đau khổ như
Cam Lộ, như Khe Sanh.
Bây giờ bên phải là núi, bên trái là dòng sông Đakrông lấp
lánh nắng mai ở cây số 46 của đường 9 (tính từ đoạn bắt
đầu ở thị trấn Đông Hà). Có một cái cầu treo bắt ngang
sông giữa hai đầu núi, cầu Đakrông, đoạn đầu của Đông
Trường Sơn. Bên kia cầu là đường 14A đưa vào A Lưới và A
Shầu (người Mỹ đọc là A Shau), đèo Mạ Ơi, những quả
đồi đầy tan tác thời chiến như Hamburger, Bastone.
Năm 1969 quân đội Hoa Kỳ quyết định mở chiến dịch giải
tỏa Thung Lũng A Shầu với sự tham dự của nhiều đơn vị
Thủy Quân Lục Chiến, Thiết giáp, Không quân và bộ binh… Tờ
mờ sáng ngày 10 tháng Năm/1969, Chiến dịch Apache Snow bắt
đầu. Giờ H là 7 giờ 30.
Đã gần giữa trưa, hai bên cầu trẻ con người thiểu số tan
học tung tăng đi về hướng A Shầu. Tất cả bọn chúng mặc
áo quần màu đen, chân đất, nước da đen xoắn khoẻ mạnh
nhưng khuôn mặt hốc hác, trông chúng thật ngô nghê và lạc
lõng trên con đường tráng nhựa và cây cầu treo đẹp đẽ
mới khánh thành. Dưới kia là sông chảy, bên này là núi, bên
kia là những ngọn đồi xanh nối nhau dưới bầu trời xanh
trong, một con đường láng nhựa, một cột mốc đánh dấu
đường Trường Sơn.
Ngày 9 tháng 2 năm 1968, một tiểu đoàn quân Bắc Việt tấn
công Đồi 64 do Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trấn giữ, tràn ngập
nhiều vị trí phòng thủ.
Ngang Khe Sanh, chúng tôi băng ngang ngã ba dẫn vào căn cứ (quân
sự) Khe Sanh để đi thẳng lên Lao Bảo. Khúc đường này đang
xây dựng lở dở, bụi đỏ mờ mịt, nhà cửa hai bên đường
tràn ngập bụi đỏ. Nắng khô khốc tưởng chừng cả vùng này
rất khó tìm ra một giọt nước. Thỉnh thoảng các xe đò mang
bảng số Lào chạy ngược chiều chở các đoàn khách du lịch
hướng về Quảng Trị.
Đến trung tâm chợ biên giới Lao Bảo thì trời đã đứng
bóng. Đây là một chợ biên giới gồm một khách sạn khá lớn
xây sát sườn chợ gồm hai khu nhà tròn và một khu ăn uống
bình dân. Một đứa bè chạy ra mời ăn cơm: "Mi có chi ăn?".
Thằng bé nhanh nhẩu: "Chi cũng có đủ". Khu ăn uống bình
dân chỉ có hai quán bán cơm và toàn thức ăn khô, "có đủ"
ba món là cá nục kho, cá ngừ kho và cà pháo dầm nước mắm.
Như vậy cũng đủ ăn một buổi trưa biên giới, mua sắm một
ít hàng lậu tuôn từ Lào qua. Mấy tháng trước, tôi mướn
một chiếc xuồng ba lá trốn công an biên phòng để vượt biên
từ Châu Đốc qua chợ Gò nằm bên kia đất Cam Bốt. Chợ Gò
nhộn nhịp, người bán xởi lởi tỏ rõ phong độ ngang tàng
của sông nước miền Nam.
Ở Lao Bảo, người bán khô khan ít nói như cái nóng của miền
Trung. Cả khu chợ hàng hóa nhiều và trật tự hơn chợ Gò
nhưng có cái không khí trầm trầm lặng lẽ. Chúng tôi lên xe
chạy ngược về con đường bụi đỏ. Bên trái, những quả
đồi nằm chịu trận dưới mặt trời bốc lửa. Đến Làng
Vei, nằm nửa đường từ đoạn Lao Bảo – Khe Sanh, chúng tôi
ngừng xe để ngắm dòng sông chảy dịu dàng bên dưới.
Rạng sáng ngày 7 tháng 2 năm 1968, bộ đội Bắc Việt có chiến
xa yễm trợ tấn công và tràn ngập trại Lực Lượng Đặc
Biệt ở Làng Vei.
Đoạn từ Làng Vei về lại Khe Sanh bằng phẳng, bên trái có
vài nương rẫy của đồng bào thiểu số. Chúng tôi băng qua
trung tâm Khe Sanh đã qua trưa, ngôi chợ lồng vắng vẻ như cả
thị trấn đều ngưng hoạt động, đến ngã ba thì rẽ trái
vào căn cứ (quân sự) Khe Sanh.
Ngày 23 tháng 2 năm 1968, quân Bắc Việt pháo 1.300 quả đại bác
vào Khe Sanh trong 8 tiếng đồng hồ. Mười lính Mỹ chết.
Đường đi phi trường Tà Cơn, một phi trường quân sự của
Mỹ thời chiến, hẹp hơn đường 9 nhưng cũng đã tráng nhựa
bằng phẳng. Phi trường nằm cách đường cái chừng cây số,
có cổng rào và trạm gác thu phí tham quan. Trên bãi sân ngổn
ngang cỏ mọc người ta trưng bày một trực thăng UH và hai
trực thăng chuồn chuồn.
Ngày 11 tháng 2 năm 1968, hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe
Sanh. Một chiếc nổ tung vì trúng đạn pháo kích.
Gần đây, Bộ Quốc phòng Mỹ nói họ đã xác định được
danh tánh bốn quân nhân Mỹ chết trên đồi 665 vào đầu tháng
5/1967, và hài cốt của bốn người lính này đã được đưa
về Mỹ. Sau 37 năm nằm yên trong vùng đất Khe Sanh, bốn quân
nhân chết trong độ tuổi 20 đã trở về quê hương, được
vinh danh ở Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Còn những ngọn đồi
471, 552, 665, 689 … thì vẫn xanh cỏ mọc. Còn bao nhiêu xương
cốt của Mỹ, của Nam, của Bắc Việt Nam vùi sâu nơi ấy.
Con đường rời Khe Sanh từ hướng Tây, băng qua đèo Ai Lao để
về lại Cam Lộ trông hùng vĩ hơn. Nhiều đoạn đèo đang
được thi công nâng cấp, đất cát lổn chổn trộn với bụi
đỏ bay mịt trời. Mấy cái cần cẩu đang nâng lên hạ xuống
ở một cây cầu đang xây mới cạnh chiếc cầu cũ bắc ngang
một vực sâu ngay một khúc quành gắt như cùi chỏ. Đoạn
đường này hẹp, nếu có một chiếc xe đi ngược chiều thì
không biết tài xế sẽ xoay xở ra sao.
Lấp lánh dưới sâu là dòng nước đã gần cạn trong mùa khô.
Trời trong và xanh. Ngang một đoạn đèo gặp một đoàn người
đang im lặng đi giữa đường, dẫn đầu là một người đàn
ông mặc áo dài màu xanh đậm. Ông này xách một cái phèng la
cũ, vừa đi chậm rãi vừa thỉnh thoảng gõ một tiếng
"pheeng…". Kế đến là bốn người đàn ông gánh một cái
quan tài. Một đám tang giữa trưa.
Trên quan tài người ta dựng bốn cái cây đứng để chống
một tấm nhựa che nắng cho tấm hình của người chết, ảnh
một cô gái trẻ để trước quan tài. Những người đưa đám
đều để đầu trần, có người đi chân trần trên mặt
đường nóng chảy nhựa. Đám tang lặng lẽ nhưng tươm tất
dưới mặt trời gay gắt, bóng chiếc quan tài in xuống nền
đường che nắng được một vài người đi khép nép ven hông
quan tài. Đoàn người đi chầm chậm trên đèo Khe Sanh – Cam
Lộ, tiếng phèng la điểm nhịp vang lên rồi tan dần vào vách
núi. Một người trẻ hôm nay sắp được chôn. Trong một vùng
đất còn nhiều người mất xác.
Lê Lô
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8553), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét