23-11-1925</h2>
<div class="boxright220"><img
src="http://danluan.org/files/u1/Phan-Boi-Chau.jpg" width="230" height="320"
alt="Phan-Boi-Chau.jpg" /><div class="textholder">Sào Nam Phan Bội
Châu</div></div>
Sau khi thoát khỏi nhà lao Quảng Đông của chính quyền quân
phiệt Quảng Đông (năm 1917), nhà chí sỹ cách mạng Phan Bội
Châu bắt tay vào cải tổ Việt Nam Quang phục Hội (thành lập
1912) thành Việt Nam Quốc dân Đảng, phỏng theo Quốc dân Đảng
của Tôn Trung Sơn, nhưng công việc đang dở dang thì bị mật
thám Pháp bắt cóc tại Thượng Hải ngày 30-6-1925. Thực dân
Pháp giải về nước và đưa ra xử ở toà Đề hình, phố Hàng
Vôi, Hà Nội ngày 23-11-1925.
<h2>I- SƠ LƯỢC DIỄN BIẾN VÀ NỘI DUNG PHIÊN TOÀ</h2>
Ngay từ khi có tin Cụ bị bắt, báo chí Bắc Trung Nam đã sôi
nổi đưa tin và kiến nghị. Còn không khí ngày xử án được
Đặng Thai Mai ghi trong hồi ký[1] như sau: "Sinh viên các
trường Cao đẳng Sư phạm, Trường Thuốc, Trường Lục lộ
đã trốn học để đi xem phiên toà"; "khi chúng tôi bước
vào phòng toà án, thì người ta đã chật ních cái phòng dành
cho người đến xem phiên toà"; "Cụ được hai tên lính sen
đầm dẫn vào và ngồi trên ghế bị cáo. Cụ đã già rồi,
năm ấy 60 tuổi".
<strong>1. Buổi sáng Toà đọc bản cáo trạng, hỏi cung và cho
cụ Phan tự bào chữa</strong>
Cáo trạng của Chánh án Bride gồm 8 điều:
1) Khi ở Xiêm và Trung Hoa có lấy tang vật, lấy lời hứa, lấy
uy bức, và thủ mưu với tên Phạm Văn Tráng, liệng bom giết
quan tuần phủ Nguyễn Duy Hàn, ngày 12-4-1913 ; 2) Cùng trong thời
kỳ ấy, địa hạt ấy đã cấp hung khí tức trái bom cho tên
Tráng làm việc ấy ; 3) Xui giục và thủ mưu với tên Nguyễn
Khắc Cần, liệng bom ở hàng cơm Hà Nội Hôtel ngày 29 Avril
(tháng 4) 1913, giết hai ông quan tư Tây là Mongrand và Chapuis ; 4)
Cùng trong thời kỳ ấy, địa hạt ấy, cấp bom cho tên Cần
làm việc ấy ; 5) Cùng thời kỳ ấy, địa hạt ấy, dự vào
âm mưu xui giục nhân dân Bắc Kỳ và Trung Kỳ làm loạn để
phá hoại chính phủ bảo hộ ; 6) Cùng thời kỳ ấy, địa hạt
ấy, cấp khí giới cho nhân dân về âm mưu ấy ; 7) Cùng thời
kỳ ấy, địa hạt ấy, có mưu những việc bạo động để
cốt quấy rối sự trị an trong nước và sinh ra nhiều sự rối
loạn về chính trị ; 8) Cùng thời kỳ ấy, địa hạt ấy có
dự vào việc những hội đảng, mục đích là để làm hại
sinh mạng, tài sản tư nhân.
Cụ Phan đã tự biện hộ như sau (tóm tắt):
Nước Nam là một nước chuyên chế, người dân Nam từ lâu
rất khổ cực. Những tưởng mở mày mở mặt" khi người
Pháp sang bảo hộ, ai ngờ từ đó đến giờ đã hai chục năm
mà chính sách không hề thay đổi. Đó là lý do Cụ buộc phải
chống lại chính quyền đô hộ Pháp. Cụ nói:
"Tôi là người nước Nam, tôi biết yêu nước Nam, muốn thức
tỉnh dân tộc Việt Nam, thấy thế nên sinh ra cái tư tưởng
phản đối chính trị. Nếu trong tay tôi có mấy vạn hải quân,
mấy mươi vạn lục quân, binh tinh, lương túc, súng đạn đủ
nhiều thì có lẽ tôi hạ chiến thư, đường đường chính
chính đánh lại chính phủ thật đấy. Thế nhưng tôi là một
kẻ thư sinh, túi không có một đồng tiền, tay không có một
tấc sắt, không lấy võ lực mà phản đối lại được, vậy
tôi chỉ dùng văn hóa, nghĩa là trước thư lập ngôn để cổ
động nhân dân, yêu cầu Chính phủ cải lương chính trị.
Chẳng dè Chính phủ ngờ vực tôi, bắt tôi, tôi phải trốn ra
ngoại quốc để hành động cho đạt mục đích của tôi".
Về phương pháp, Cụ chỉ nhận mình hoạt động tuyên truyền,
không nhận mình chủ trương bạo động. Cụ nói: "Tôi có
chiêu tập các bạn đồng chí, gom tiền, gom sức, phái người
đi du học, và làm sách làm vở gửi về cho nhân dân. Việc làm
của tôi là dùng cái lưỡi và ngọn bút, mục đích của tôi
là cải lương chính trị, sở chí của tôi là thương dân yêu
nước, cử động của tôi là chính đại quang minh. Nếu tôi là
người có tội, thì tôi chỉ có bốn tội sau này:
1. Chính phủ sang bảo hộ nước Nam, không ai phản đối mà
một mình tôi phản đối, lại muốn cho nước Nam độc lập.
2. Nước Nam xưa nay là chính phủ chuyên chế, mà tôi muốn cho
nước Nam thành ra là một dân quốc.
3. Nhà nước cấm không cho người đi du học ngoại quốc, mà
tôi trốn đi và rủ người đi ngoại quốc.
4. Tôi trước thư lập ngôn để cổ động dân Nam thức dậy,
yêu cầu Chính phủ cải lương chính trị, làm hết cái thiên
chức khai hóa của mình".
Ông Chánh án lại vặn hỏi:
− Cụ phản đối chính trị của Chính phủ bảo hộ, hay là
chính trị nước Nam?
"Tôi muốn phản đối chính trị của Chính phủ bảo hộ, còn
như nước Nam có nước đâu mà có chính trị cho tôi phản
đối".
"Ấy, tội tôi chỉ có thế, Chính phủ chiếu luật gia hình,
bắt tội tôi thế nào, tôi cũng xin chịu, còn những điều
trong cáo trạng buộc tội tôi thì tôi không nhận điều nào
cả".
Cụ nói tiếp: "Tôi đâu có làm những việc ám muội như toà
đã tố cáo. Tôi ở Trung Kỳ ra đây năm 1905, rồi bỏ đi
ngoại quốc, tôi chưa từng về nước lần nào".
"Thấy đồng bào ngủ say, tôi rung chuông cho đồng bào thức
dậy, nhưng vì dậy vội quá, thần hồn nát thần tính, làm
những việc bạo động, thì cái đó không phải lỗi ở tôi"
"Tôi cổ động là cổ động cho đồng bào biết hợp quần,
biết ái quốc, biết yêu cầu cải lương chính trị, chớ có
cổ động nhân dân làm loạn đâu? Vả lại nếu là kẻ có ý
muốn làm loạn thì tôi cứ ở ngay trong nước theo Đề Thám
cũng có thể làm được, có cần gì phải bỏ vợ bỏ con, bỏ
nhà bỏ cửa mà trốn đi ngoại quốc làm gì? Năm 1913 tôi nghe
tin buộc tội tôi vào tội tử hình thì tôi vẫn đi lại ở
ThượngHải, có sợ gì đâu, vì tôi biết là tôi vô tội".
Ông chánh án nói:
− Hội đồng Đề hình chỉ xét lại cái án năm 1913 xử vắng
mặt Cụ vào tử hình mà thôi, còn việc từ năm 1913 về sau
thì không cần nói đến; vậy những tội kia Cụ có nhận hay
không thì nói.
Cụ đáp:
− Tôi chỉ nhận có bốn tội như tôi đã nói, ngoài ra tôi
không có tội gì khác.
<strong>2. Buổi chiều là cuộc tranh luận.</strong> Chánh án Bride
tiếp tục phân tích tội trạng của Phan Bội Châu. Ta thấy
chính quyền thuộc địa Pháp nắm rất rõ từng hoạt động
của Cụ Phan, kể từ khi chiêu tập bạn đồng môn định khởi
nghĩa ở Nghệ An lúc còn là anh học trò nghèo vô danh, đến
việc viết Lưu Cầu huyết lệ tân thư cổ động danh sỹ và
nhân dân đánh Pháp, ra Bắc vào căn cứ Hoàng Hoa Thám, rồi
vận động Cường Để và thanh niên xuất dương (phong trào
Đông du), rồi qua lại với Tôn Thất Thuyết, với Lưu Vĩnh
Phúc ở Quảng Đông, việc cầu cứu Xiêm, Đức như thế
nào,… Điều đáng chú là: Trong các chứng cứ kết tội, Chánh
án Bride chỉ lướt qua hoạt động thuộc về tuyên truyền trong
một nửa câu: "Bao nhiêu sách cụ viết ra toàn truyền bá cái
tư tưởng cừu thù người Pháp…". Các tội của Cụ là theo
cáo trạng cũng như trong phân tích của Bride là nằm ở những
hành động sai người đánh bom và kêu gọi làm loạn.
Cụ Phan tiếp tục tự bào chữa. Cụ thừa nhận tất cả các
hoạt động tuyên truyền của mình và kết luận: "Trước sau
tôi vẫn chủ trương chỉ dùng văn hoá mà phản đối chính
trị, văn hoá không xong thì tôi mới dùng đến võ lực. Chính
trị còn một ngày bất lương, tôi còn một ngày phản đối".
Còn các cuộc bạo động, cụ coi mình chỉ trách nhiệm "phân
nửa", nghĩa là xét riêng về mặt luân lý thôi, như anh không
biết dạy em, để em phạm tội, bố không biết dạy con, để
con phạm tội, chứ về mặt pháp luật, không thể là tội của
anh, của bố.
Hai trạng sư người Pháp (do chính Toà cử) không những bênh
vực cụ Phan mà còn tố cáo thực dân Pháp và công khai bày tỏ
lòng cảm mến cụ Phan.
Trạng sư Larre nói: "Cái lịch sử của cụ Phan là cái lịch
sử chính sách thuộc địa của nước Pháp ở Đông Dương trong
25 năm gần đây. Cụ là một người theo chủ nghĩa đảng cách
mạng, động lòng trắc ẩn, nặng tình yêu nước thương nòi.
Lại bị kích thích bởi những điều hà ngược của một
triều đình chuyên chế, những điều nhũng lạm của phường
tham quan ô lại; việc học thì chậm chạp, hình pháp lại dã
man, nhân dân trong nước biết bao nỗi ê chề, đau đớn".
Trạng sư kết luận: "Cụ là người thuần khiết trong những
người thuần khiết", "Cụ vĩ đại hơn hết thảy những
người trong dân tộc Việt Nam".
Trạng sư Bona còn mãnh liệt hơn. Mở đầu đã là những lời
ca ngợi nhiệt thành:
"Tôi cảm ơn Hội đồng đã cho tôi tám ngày để xem xét 300
bản hồ sơ. Công việc của tôi là rất khó, rất lấy làm
nặng nề, nhưng tôi cũng rất là thoả mãn vì đã được cãi
hộ một người mà tôi hâm mộ".
"Cụ Phan là người quả không hổ là kẻ ái quốc chân chính.
Dẫu tôi là người Pháp, đối với cụ Phan, tôi cũng phải hâm
mộ. Tôi hâm mộ là hâm mộ cái thân thế quang minh, cái tính
tình cao thượng, cái nghị lực bất di, bất khuất, đã từng
tỏ ra trong các việc làm của đời Cụ".
Trạng sư Bona lược lại cuộc đời cách mạng đầy hăng hái
và đúng đắn của cụ Phan. Với các hành động mà ngày nay
gọi là "quá khích", Trạng sư cho rằng: "Ở Tàu, Cụ có
những bạn đồng chí, hơn Cụ về lòng nhiệt thành, nghĩa là
hơn Cụ về sự cuồng dại, và người ta đã buộc cho Cụ
những tội của các tay đồng chí ấy. Người ta lấy những
giấy thông tư của các toà lãnh sự, những toà sứ thần ra
làm bằng chứng, trong những thông tư ấy lại đầy những tin
tức của các tay do thám, nghĩa là những tay chỉ biết hám
tiền, tìm đủ mọi phương sách buộc tội người để ních cho
chặt túi".
Với những hành động mà ngày nay ta gọi là "đánh bom liều
chết" hay "khủng bố" có liên quan đến cụ Phan, Trạng sư
Bona bác bỏ với lý do:
"Bảo rằng có những lời cung khai của những kẻ can phạm
trong năm 1913 ư? Bao nhiêu trách nhiệm đều muốn đổ cho một
người vắng mặt, vì người đó không thể chống cãi được,
cái đó là thói thường của thiên hạ... Bảo rằng Cụ đã
gây ra những sự nhiễu loạn về chính trị ư? Cụ chỉ là
một kẻ đã gieo hạt giống mà thôi. Những hạt giống ấy
gặp gió đưa đi, thì Cụ biết đâu được sự sinh mầm kết
quả".
Kết luận, Trạng sư nói: "Cái lý tưởng của cụ Phan, nói
tóm lại, là muốn đem đến một tinh thần mới mà sửa đổi
lại chính trị ở nước mình". Theo Trạng sư, tinh thần ấy
hoàn toàn phù hợp với lời của Toàn quyền Varenne (vừa
được bổ nhiệm) đọc tại Auvergne: "Nếu cái chính sách
của ta ở Đông Dương không kịp đem đến một tinh thần mới
là cái tinh thần hoà bình, công chính, cải lương mà sửa đổi
lại, thì chỉ nay mai là gặp những biến động chẳng khác gì
ở Maroc. Xem một câu ấy thì biết được ông Toàn quyền
Varrenne với cụ Phan Bội Châu, nếu có ngày gặp tất tâm hợp
ý đầu".
Cụ Phan đứng lên nói thêm:
"Tôi cảm ơn Hội đồng đã đem tôi ra trước mặt công chúng
xét xử, lại cử hai trạng sư biện hộ. Giá với chính thể
Nam triều (triều đình Huế - HH) thì nguyên một tội phản
đối cũng đủ đáng chết còn làm gì có trạng sư cãi hộ, và
cũng còn đầu đâu để ra trước Hội đồng".
<strong>3. Kết thúc, Toà tuyên phạt cụ Phan:</strong> trong tám
tội có một tội đáng tử hình, các tội còn lại đáng khổ
sai chung thân, nhưng Toà lượng thứ, kết phạt "khổ sai chung
thân". Cụ Phan vẫn nhất định không nhận và chống án. Toà
chấp thuận và đưa vụ án lên Hội đồng Bảo hộ. (Vụ án
kết thúc lúc 9 giờ tối).
<h2>II- HẬU PHIÊN TOÀ VÀ MẤY NHẬN XÉT</h2>
Ngày 5-12-1925, Varenne chính thức sang nhậm chức tại Đông
Dương. Hàng loạt kiến nghị được gửi đến đòi thả cụ
Phan Bội Châu. Ngày Varenne đến Hà Nội được mô tả: "Trên
con đường đi từ các phố lớn đến Phủ Toàn quyền, giữa
một đoàn hộ tống kéo dài của bọn quan Tây, quan Nam (…),
học sinh, sinh viên, thương gia, người lao động đứng đen
nghịt trên các vệ đường giăng ngang những băng vải to với
hai dòng chữ: "Chào mừng nhà chính trị xã hội chủ nghĩa
Varenne. Ân xá cho Phan Bội Châu! Đả đảo chủ nghĩa thực dân
tàn bạo!" (Đặng Thai Mai, Sđd). Mấy hôm sau, Varenne đến nói
chuyện với sinh viên các trường cao đẳng. Sinh viên đã biến
cuộc giao lưu này thành cuộc đấu tranh đòi tự do dân chủ cho
Đông Dương. Nguyễn Khánh Toàn (về sau là Chủ nhiệm Uỷ ban
KHXH Việt Nam) thay mặt sinh viên đọc một bài "diễn văn nảy
lửa, diễn văn đốt nhà" (chữ của Đặng Thai Mai). Ngày
11-12-1925, Hội đồng Bảo hộ xem xét lại vụ án và Varenne đã
ký lệnh ân xá cho cụ Phan Bội Châu và quan Trung Kỳ cho xe
đến đón Cụ về Kinh (Huế).
Qua vụ án, ta thấy có mấy điều đáng chú ý:
1. Chính quyền thực dân chỉ kết tội hoạt động chống đối
bằng vũ trang, không kết tội các hoạt động tuyên truyền.
Ngay cả vấn đề vũ trang, chủ trương phải gắn với hành
động (chủ trương đã thành hiện thực), thì mới thành tội
(xem lại cáo trạng). Những người do ảnh hưởng văn chương
tuyên truyền của Cụ mà bạo động thì đó cũng không phải
là tội của Cụ. (Xem lại lời tự bào chữa của Cụ và của
các trạng sư)
2. Một phiên toà của chính quyền thực dân xử một nhà cách
mạng "đầu sỏ" của một dân tộc thuộc địa, một
người mang tư tưởng giải phóng dân tộc rất mạnh, nghĩa là
nguy hiểm bậc nhất cho nhà cầm quyền, thế mà đã diễn ra
rất nghiêm túc, rất đúng luật. Đặc biệt, các bên tôn
trọng lẫn nhau, ngoài lý cũng rất có tình, do phía Pháp kính
trọng một người Việt Nam yêu nước. Chính cụ Phan cũng chỉ
phản đối một số chứng cứ kết tội (thực tình thì Cụ
cũng có liên quan các vụ bạo động chống Pháp nhưng xét bằng
chứng thì chưa đủ), chứ còn tinh thần của vụ án, Cụ cũng
"tâm phục khẩu phục" lắm (xem lời cảm ơn ở trên). Sau
khi Varenne ký lệnh ân xá, Cụ còn có lời Tuyên cáo mà nội
dung chủ yếu là cảm kích trước tinh thần khoan dung của chính
quyền Bảo hộ và tấm lòng quý mến của nhân dân dành cho
Cụ. Ví dụ:
"Ngày nay là ngày thứ nhất tôi được tái kiến quốc dân
đồng bào ta, mà lại là ngày thứ nhất tôi đã chết đi mà
lại sống lại"
"Tiếng oan đã vạch trời kêu thấu, sống thừa may còn đất
trùng lai, thuộc về hai phương diện: Chính phủ vẫn có cái
đặc ân nhân từ, khoan đại, nhưng mà lòng tinh thành ái quần,
ái chủng của anh chị em ta, thật là thần quỷ cũng kinh, đá
vàng cũng vỡ, vì thế cho nên tôi đối với hai phương diện
đều lấy làm cảm kích lắm lắm".
Và từ đây Cụ đổi hẳn chủ trương bạo động sang ôn hoà:
"Tôi muốn đổi phương châm, chú lực vào cái phương diện
sao cho quốc dân ngày thêm tiến bộ, nhưng nghĩ rằng nếu muốn
cho trình độ quốc dân ngày thêm tiến bộ, thì phải bắt tay
lo đường giáo dục mới được, mà muốn cải lương giáo
dục, nếu không có thợ hay thầy giỏi thì cậy ai chỉ vẽ.
Người Pháp chính là những bậc thầy, thợ tình cờ gặp gỡ
trời đưa sang cho ta đấy".
3. Khi xét xử cũng như sau khi xét xử, chính quyền còn căn cứ
vào ý nguyện của nhân dân chứ không cứng nhắc vào các
điều luật. Từ tử hình, giảm còn chung thân, rồi cuối cùng
tha bổng là cả một sự thay đổi lớn. Có thể suy nghĩ một
hướng khác là chính quyền mỵ dân, nhưng nếu chỉ vì mỵ dân
mà giảm án thì họ phải lo sợ sự chống đối sẽ "được
đà" chứ? Tuy nhiên, họ đã nghĩ xa hơn: yên dân thì mới cai
trị được lâu dài, chứ không thì "già néo đứt dây",
càng đàn áp, càng gặp sự chống đối mạnh hơn.
Và như vậy thì được cho họ nhiều hơn là cho người có
tội.
Và còn rất nhiều điều nữa, xin độc giả tự rút ra.
<strong>Ghi chú:</strong> Các trích dẫn và tư liệu trên ngoài
phần đã chú đều lấy từ Phan Bội Châu toàn tập, tập 7,
Chương Thâu sưu tầm, san định, NXB Thuận Hoá, 2000 ; Dương Kinh
Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 – 1918), NXB Giáo
dục, 2003 ; Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch
sử (1919 – 1945, NXB Giáo dục, 2005.
[1] Đặng Thai Mai, Hồi ký, NXB Tác phẩm mới, 1985
___________________________
[*] Bài viết do tác giả có bút danh Hồ Hải hiện sống và làm
việc tại Hà Nội - đề nghị không ghi tên thật (không phải
BS. Hồ Hải - Tp Hồ Chí Minh) gửi trực tiếp cho Nguyễn Xuân
Diện-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8467), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét