Cho đến năm 1521, khi Magellan, một nhà mạo hiểm người Tây Ban
Nha đặt chân đến, Phi-líp-pin là một quần đảo không tên
không tuổi với hơn 7.000 đảo và hàng trăm bộ lạc nhỏ.
Quốc gia tân lập này đã hoàn toàn do người Tây Ban Nha tạo
dựng ra, tên của nó cũng được đặt theo tên vị vua Tây Ban
Nha đương thời. Như thế Phi-líp-pin đã được Tây phương hóa
ngay từ thời thành lập. Trước đó không hề có một dấu
tích đáng kể nào của nền văn minh châu Á, dù là Phật Giáo,
Khổng Giáo, Hồi Giáo hay Ấn Độ Giáo. Hiện nay tôn giáo chính
của Phi-líp-pin là Công Giáo, do người Tây Ban Nha mang tới,
với trên 60% dân chúng.
Tuy là một quốc gia rất mới, nhưng nhờ ảnh hưởng của văn
hóa phương Tây, Phi-líp-pin lại là một trong những dân tộc có
tinh thần quốc gia đầu tiên tại châu Á, trong khi Việt Nam và
Trung Quốc chỉ có tinh thần trung quân. Các phong trào đòi độc
lập đã xuất hiện ngay từ thế kỷ 18 và được nuôi dưỡng
bởi những tư tưởng của các nhà văn. Năm 1896, một phong trào
dân tộc được ủng hộ rộng rãi đã tuyên bố độc lập. Hai
năm sau Tây Ban Nha bối rối phải nhượng bộ trước áp lực
của Hoa Kỳ sau khi bị đại bại trong một cuộc hải chiến và
đã chấp nhận bán lại toàn bộ quần đảo Phi-líp-pin cho Hoa
Kỳ với giá tượng trưng 20 triệu USD. Hoa Kỳ không có truyền
thống thực dân và cũng không cần đất đai mà chỉ tìm kiếm
các đầu cầu thương mại, nên đã lập tức chuẩn bị trả
độc lập cho quốc gia tân lập này. Tuy vậy một nửa thế kỷ
tiếp xúc với Hoa Kỳ vẫn không lay chuyển được ba thế kỷ
rưỡi do Tây Ban Nha nhào nặn. Nền văn minh phương Tây mà
Phi-líp-pin tiếp nhận vẫn là nền văn minh Tây Ban Nha với
những nhược điểm của nó : thiếu tinh thần trách nhiệm và
đối thoại, tập tính giáo điều và ưa bạo lực. Có thể nói
Phi-líp-pin đã tiếp thu văn hóa phương Tây ở dạng kém nhất.
Tuy chỉ có một chế độ dân chủ xô bồ, Phi-líp-pin vẫn
tiếp tục phát triển một cách tương đối khả quan - cần
nhấn mạnh tĩnh từ "tương đối" - từ ngày được độc lập,
năm 1946. Tình hình Phi-líp-pin đã xấu đi từ 1965 khi Ferdinand
Marcos, với sự hỗ trợ của giai cấp giàu có, đã đắc cử
tổng thống. Marcos đã khéo dùng mọi thủ đoạn mị dân như
tô vẽ thành tích chống Nhật trong thế chiến II, tạo cho mình
hình ảnh một anh hùng võ nghệ cao cường, dũng lược hơn
người, có vợ từng là hoa hậu, để thu hút quần chúng. Để
kéo dài vô hạn định thời gian tại chức thay vì hai nhiệm
kỳ bốn năm như hiến pháp qui định, Marcos ban hành lệnh giới
nghiêm năm 1971, rồi quân luật năm 1972. Những năm cuối trào
của Marcos đã là những năm cực kỳ đen tối cho Phi-líp-pin:
loạn quân Hồi Giáo, loạn quân cộng sản, cướp bóc, đàn áp,
thủ tiêu và biểu tình bạo động v.v... trong một bối cảnh
tham nhũng cực kỳ trắng trợn; kinh tế Phi-líp-pin hoàn toàn suy
sụp và nợ nước ngoài chồng chất. Hoa Kỳ và các định chế
tiền tệ quốc tế thấy không còn tiếp tục ủng hộ Marcos
được nữa, các áp lực càng ngày càng tăng cao đòi Marcos từ
chức, giới giàu có cũng cảm thấy quyền lợi của họ không
còn đi đôi với chế độ Marcos nữa. Giọt nước làm tràn ly
là cuộc ám sát lãnh tụ đối lập Benigno Aquino trên cửa
chiếc máy bay đưa ông từ Mỹ về nước. Chống đối bùng lên
dữ dội, buộc Marcos phải chấp nhận bầu cử lại quốc hội
năm 1984 đúng hạn kỳ hiến định. Đối lập dân chủ tuy
không giành được đa số nhưng đã thắng lớn tại Manilla.
Đây là tiếng chuông báo hiệu ngày tàn của chế độ Marcos vì
trước đó, những cuộc đầu phiếu và trưng cầu dân ý luôn
luôn đem lại cho ông ta gần như toàn bộ số ghế trong quốc
hội và những đa số 80%, 90%. Lúng túng trước áp lực trong
nước cũng như ngoài nước, Marcos chơi bạo tổ chức bầu cử
tổng thống năm 1986 trước hạn định một năm. Tính toán của
Marcos là buộc đối lập phải tranh cử vào lúc chưa kịp
chuẩn bị. Marcos đã có lý vì quả nhiên ông ta đã thắng bà
quả phụ Cory Aquino trên 500.000 phiếu. Nhưng đối lập dân chủ
đã dựa vào hậu thuẫn của trí thức và hỗ trợ quốc tế,
nhất là của Hoa Kỳ, đã tự tuyên bố bừa là thắng cử và
phủ nhận kết quả của cuộc bầu cử mà họ cho là gian lận,
dù sau này các tài liệu chứng tỏ Marcos đã thực sự thắng
cử. Quân đội và giới tài phiệt bỏ rơi Marcos, ông ta đào
thoát khỏi Phi-líp-pin và chết trong cảnh lưu vong.
Từ đó dân chủ được tái lập, sinh hoạt chính trị và kinh
tế dần dần trở lại bình thường, hòa bình cũng dần dần
được vãn hồi. Từ đó Phi-líp-pin tiến những bước đều
đặn và chắc chắn trên đường phát triển với một mức
độ tăng trưởng rất khả quan, và may mắn hơn, không bị tác
động nặng nề của cuộc khủng hoảng châu Á mùa hè 1997.
Nhiều nhà bình luận bắt đầu nói tới một "phép mầu
Phi-líp-pin". Nhưng điều không may cho người Phi-líp-pin là họ
đã không biết rút kinh nghiệm của bài học Marcos và vẫn duy
trì chế độ tổng thống, một chế độ rất dễ đưa đến
lạm quyền trong những nền dân chủ non trẻ. Sau hai nhiệm kỳ
tổng thống bình thường, năm 1998 một tài tử kịch ảnh là
Joseph Estrada đắc cử tổng thống và lợi dụng chức quyền
để tham nhũng và ăn chơi trác táng, gây nhiều thiệt hại lớn
về vật chất cũng như tinh thần cho Phi-líp-pin. Tuy nhiên dân
chủ đã được thiết lập và người dân Phi-líp-pin nhiều
lắm cũng chỉ phải chịu đựng viên tổng thống tồi này trong
một nhiệm kỳ.
Những gì đã xảy ra tại Phi-líp-pin chứng tỏ rõ rệt hai
điểm:
Một là, trái ngược hẳn với luận điểm của Marcos, dân chủ
đã không đem lại hỗn loạn, nó đem lại hòa bình và trật
tự. Trái lại, chính chế độ độc tài đã đem đến hỗn
loạn và suýt nữa đẩy Phi-líp-pin xuống vực thẳm.
Hai là, dân chủ đã đem lại phát triển và một lần nữa dân
chủ đã đi trước phát triển.
<h2>Indonesia: sự ra đời vội vã của một nước lớn</h2>
Nước duy nhất có thể coi là độc tài trong khối ASEAN cho tới
gần đây là Indonesia. Nhưng Indonesia cũng là nước lạc hậu
nhất trong sáu nước thành viên kỳ cựu của khối ASEAN, với
lợi tức bình quân trên mỗi đầu người là 800 USD mỗi năm.
Cần lưu ý là con số bi đát này dầu sao cũng cao gấp ba lần
lợi tức của người Việt Nam.
Một nước độc tài quân phiệt rồi bị nghèo khổ lạc hậu
thì có gì đáng nói ? Indonesia cùng lắm chỉ chứng minh một
chế độ độc tài quân phiệt không đến nỗi tai hại bằng
một chế độ cộng sản như tại Việt Nam. Nếu có gì cần ghi
chú, nhưng ngoài khuôn khổ của cuộc thảo luận ngắn này mà
mục đích là tìm ra tương quan giữa dân chủ và phát triển,
thì đó là thực ra chế độ quân phiệt tại Indonesia không
đến nỗi độc tài như người ta tưởng.
Ngay trong thời gian bị Hòa Lan đô hộ, các đảng phái chính
trị vẫn được phép thành lập và hoạt động nhưng họ quá
yếu để có thể đe dọa guồng máy cai trị của Hòa Lan. Sau
thế chiến II, dưới chế độ Sukarno, các chính đảng còn gặp
thời cơ thuận tiện hơn, đặc biệt đảng cộng sản phát
triển mạnh nhất. Vào năm 1965, trước khi âm mưu đảo chánh
thất bại và bị tiệu diệt, đảng cộng sản Indonesia đã có
tới ba triệu đảng viên và hai mươi triệu đoàn viên. Từ năm
1965 trở đi quân đội khống chế chính trường Indonesia nhưng
cũng không cấm đoán các đảng đối lập ; báo chí vẫn còn
được hưởng một mực độ độc lập tương đối.
Những khó khăn của Indonesia thực ra là những khó khăn của
một quốc gia được thành lập một cách vội vã, dựa trên
bạo lực và bất chấp đồng thuận. Cho tới khi người Hòa Lan
đến, vào thế kỷ 16, Indonesia hoàn toàn không có đặc tính
nào của một quốc gia, mà là cả một thế giới phức tạp
với khoảng 17.000 hòn đảo lớn nhỏ, trải rộng 5.000 km từ
Đông sang Tây và 2.000 km từ Bắc xuống Nam, với hàng trăm sắc
dân và thổ ngữ. Vô số vương quốc không tên không tuổi
được thành lập rồi bị tiêu diệt. Một cuộc kiểm kê không
đầy đủ năm 1939 cho thấy trên quần đảo Indonesia còn có 269
vương quốc hoàn toàn độc lập với nhau. Ánh sáng leo lét của
văn minh đã chỉ dừng lại tại hai hòn đảo Sumatra và Java ;
càng về phía Đông sự bán khai càng gia tăng. Mặc dầu đã
tiến bộ khá nhiều nhờ tiếp xúc với thế giới bên ngoài,
phần lớn các bộ lạc trên các đảo phía Đông vẫn còn ở
trong tình trạng tiền sử, một số vẫn còn ăn thịt người,
chiến tranh giữa các bộ lạc không cần một lý do nào cả vì
là một tập quán. Việc thành lập nước Indonesia với lãnh
thổ hiện nay trên thực tế chỉ là trao cho đảo Java trách
nhiệm khai hóa các đảo miền Đông : Borneo, Irian Jaya, Sulawesi,
v.v..., một trách nhiệm hoàn toàn vượt quá khả năng của
đảo Java nghèo nàn và lạc hậu. Hoa Kỳ đã phản đối việc
thành lập này và đã có lý. Đáng lẽ đã phải đặt các
đảo này dưới quyền sở hữu của Liên Hiệp Quốc và sau đó
Liên Hiệp Quốc ủy nhiệm cho các quốc gia tiên tiến và giàu
mạnh khai phá. Với sự thành lập duy ý chí như vậy, đảo Java
không có cách gì để giữ sự gắn bó giữa các đảo ngoại
trừ quân lực, cho nên việc quân đội nắm chính quyền có
thể coi như cái giá mà Indonesia đã phải trả cho tham vọng
thành lập nhanh chóng một nước lớn. Điều đáng lưu ý là
quân đội Indonesia do người Hòa Lan thành lập ra và chịu ảnh
hưởng của tinh thần Hòa Lan, một tinh thần không quân phiệt
chút nào, do đó quân đội Indonesia rất hợp hiến, họ không
trực tiếp nắm chính quyền mà luôn đứng sau một chính quyền
dân sự. Quân đội cũng tôn trọng chính quyền dân sự đó,
chỉ can thiệp trong những trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng. Hậu quả là vẫn có một mức độ tự do dân chủ
tương đối và quân đội một phần nào đó còn xuất hiện
như một bảo đảm cho dân chủ trước những tham vọng chuyên
chính của đảng cộng sản và của các lực lượng Hồi Giáo
sau đó.
Nếu muốn nhận diện tương quan giữa dân chủ và phát triển
thì có lẽ nên nhìn vào sự thay đổi nhanh chóng của đảo
Java, trung tâm quyền lực của Indonesia. Nhờ một sinh hoạt ít
nhiều dân chủ, hòn đảo bán khai này đã tới một mức độ
phát triển khả quan, cao hơn cả Trung Quốc, một nước đi
trước họ cả ngàn năm với tài nguyên và nhân lực hơn hẳn.
Nếu không mang gánh nặng khai phá các đảo phía Đông chắc
chắn đảo Java còn mở mang hơn nhiều. Indonesia, mặc dầu khởi
hành rất sau Trung Quốc với những điều kiện khó khăn hơn
nhiều, đã phát triển hơn Trung Quốc vì đã mở cửa tiếp
nhận các giá trị tự do và dân chủ trong khi Trung Quốc đã
chỉ chọn một thứ chế độ Khổng Giáo hiện đại hóa, nghĩa
là cộng sản.
Tháng 5-1998, chế độ độc tài quân phiệt Suharto sụp đổ sau
gần một năm chao đảo vì cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.
Một năm sau, một cuộc tổng tuyển cử đã đem lại thắng
lợi cho các lực lượng đối lập dân chủ. Cuộc chuyển hóa
về dân chủ của Indonesia sẽ không dễ dàng bởi vì tình hình
Indonesia quá phức tạp và vì chính các lực lượng dân chủ
cũng chưa đủ trưởng thành. Nhưng dù gặp khó khăn thế nào
đi nữa, Indonesia cũng đã khá hơn trước và chắc chắn sẽ
vươn lên, trừ trường hợp các thế lực quân phiệt một lần
nữa phản công bẻ gãy tiến trình dân chủ hóa.
<h2>Đài Loan: từ một chiến khu tới một quốc gia</h2>
Trường hợp duy nhất tại châu Á có vẻ như chứng minh rằng
có thể phát triển mà không cần dân chủ là Đài Loan. Cần
nhấn mạnh là có vẻ vì đó chỉ là một cái nhìn phiến
diện.
Quả thực từ năm 1949, khi đám tàn quân của Tưởng Giới
Thạch chạy ra đảo Đài Loan và thiết lập tại đó một quốc
gia ly khai với Hoa Lục, Đài Loan đã chỉ có những chính quyền
xuất phát từ Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Hai cha con Tưởng Giới
Thạch và Tưởng Kinh Quốc kế tiếp nhau làm tổng thống trong
gần bốn mươi năm cho tới năm 1988. Quân luật được thi hành
cho tới 1987. Mặc dầu vậy, kinh tế Đài Loan vẫn tiếp tục
phát triển một cách mạnh mẽ và hiện nay Đài Loan đã trở
thành một nước dân chủ với một sức sống gần tương
đương với Tây Âu, với một nền kinh tế lành mạnh hơn hẳn
: thất nghiệp hầu như không có, dự trữ ngoại tệ tính trên
mỗi đầu người cao hơn hẳn mọi quốc gia trên thế giới.
Trường hợp Đài Loan đã được một số người viện dẫn
để bảo vệ lập trường cho rằng có thể bỏ qua dân chủ,
tập trung mọi sức lực xây dựng kinh tế rồi phát triển kinh
tế sẽ đem đến dân chủ. Sự thực như thế nào ?
Đảo Đài Loan cho tới thế kỷ thứ VIII gần như hoang vu, với
một số ít thổ dân gốc Mã Lai (điều này cho thấy các sắc
dân gốc Mã Lai từ ngàn xưa đã trải rộng khắp Đông Á).
Dần dần người di dân từ hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến
đã khiến người gốc Hoa trở thành đa số, nhưng những
người gốc Hoa này coi họ là người Đài Loan hơn là người
Trung Hoa. Từ cuối thế kỷ 15 đảo này đã bị người Tây Ban
Nha, rồi Hòa Lan chiếm đóng và khai thác. Giữa thế kỷ 17, sau
những đợt di dân lớn từ Hoa Lục, Đài Loan trở thành một
vương quốc độc lập, rồi bị nhà Thanh chinh phục và sáp
nhập thành một tỉnh của Trung Quốc.
Năm 1895, nhà Thanh thua trận phải nhường đảo này cho Nhật.
Lưu Vĩnh Phúc, viên chủ tướng tài ba của quân Cờ Đen từng
tận lực giúp Việt Nam chống Pháp, đã cùng với tổng đốc
Đài Loan Dương Tinh Tùng tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa
Đài Loan. Nước cộng hòa đầu tiên tại châu Á này đã bị
quân Nhật đánh bật khỏi Đài Bắc trong vòng một tuần lễ,
dù Lưu Vĩnh Phúc vẫn còn kháng cự tại miền Nam gần mười
năm nữa. Sau thế chiến II, Đài Loan, với khoảng 10 triệu dân,
được trao trả lại cho Trung Quốc.
Bước ngoặt lớn của Đài Loan xảy ra năm 1949 khi Tưởng Giới
Thạch bỏ lục địa đem gần hai triệu người gồm gia đình,
đảng viên và quân đội Quốc Dân Đảng sang đây. Trong những
thập niên đầu, Đài Loan không phải là một quốc gia mà là
một chiến khu. Lực lượng Quốc Dân Đảng di tản sang đây
tự coi là một chính phủ Hoa Lục di tản, với đầy đủ quốc
hội, chính phủ và quân đội ; họ vẫn tiếp tục tự nhận
là chính quyền của toàn thể Trung Quốc và chỉ coi Đài Loan
là một tỉnh. Qui chế chiến khu là một thực tế. Chiến tranh
vẫn tiếp tục xảy ra tại eo biển, cạnh các hòn đảo Kim
Môn, Mã Tổ, Trần Thành. Bên ngoài thì Hạm Đội 7 của Mỹ
túc trực. Cần hiểu rõ tình trạng này khi nhận định về
vấn đề dân chủ tại Đài Loan.
Dân chủ là một phương thức sinh hoạt quốc gia cho phép đạt
tới một đồng thuận được chấp nhận giữa các khuynh
hướng khác nhau dù không thỏa mãn mọi người. Nhưng tại Đài
Loan vấn đề đồng thuận không đặt ra. Những người Quốc
Dân Đảng sang đây hoàn toàn đồng ý với nhau trên hầu như
tất cả và rất đoàn kết trong một mục tiêu chung là chống
lại Hoa Lục, dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch mà
họ coi là một lãnh tụ anh minh. Vấn đề dân chủ thực sự
chỉ đặt ra vài thập niên sau đó, khi những người bản địa
Đài Loan đã tiến lên về kinh tế và văn hóa, và đòi hỏi
tổ chức Đài Loan như một quốc gia. Trong những thập niên
đầu, đoàn người di tản từ Hoa Lục sang hơn hẳn dân bản
địa về mọi mặt. Họ là tập hợp tinh nhuệ nhất của Trung
Quốc, đồng thời họ cũng mang theo những tài sản rất lớn.
Có thể nói vào năm 1949 đại bộ phận của lớp người đã
Tây phương hóa cùng với chất xám và tư bản của Trung Quốc
đã tản cư qua Đài Loan làm sinh hoạt kinh tế và mức sống
Đài Loan gia tăng mau chóng, cải thiện một cách ngoạn mục
mức sống của những người bản địa Đài Loan. Đối lập
với Quốc Dân Đảng trên đảo Đài Loan cũng không có vì các
thành phần cộng sản đã bị tiêu diệt hoàn toàn một năm
trước cuộc di tản, vào năm 1948, khi các cuộc bạo động
xuống đường bị đàn áp trong một biển máu, với hơn mười
ngàn người bị hành quyết trong vài ngày, phần đông là đảng
viên cộng sản.
Sự sáng suốt của chính quyền Quốc Dân Đảng là đã hiểu
ngay rằng họ sẽ phải biến Đài Loan thành một quốc gia thật
sự. Họ đã nỗ lực nâng cao mức sống và trình độ văn hóa
người địa phương, mà đại đa số có gốc Trung Hoa, để
hội nhập người địa phương vào sinh hoạt chính trị. Mức
sống và trình độ văn hóa càng tiến triển họ càng nới
rộng tự do và dân chủ, và luôn luôn đi trước yêu cầu.
Trường hợp Đài Loan về thực chất là một cố gắng xây
dựng một quốc gia và một chế độ dân chủ từ một chiến
khu. Điều mà thế giới đang chứng kiến là sự ra đời của
một quốc gia thật sự tại Đài Loan.
Thất bại mau chóng của Quốc Dân Đảng tại Hoa Lục cũng như
hào quang của chế độ cộng sản và lãnh tụ Mao Trạch Đông
sau đó đã khiến dư luận thế giới miệt thị tập đoàn
Tưởng Giới Thạch như một tập đoàn bất lực và tham nhũng,
nhưng ngày nay chúng ta đã có bước lùi cần thiết để nhìn
lại lịch sử cận đại Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch và bộ
tham mưu của ông không tồi dở như người ta tưởng. Chính di
sản Trung Quốc do nhà Thanh để lại mới là tồi tàn. Kinh tế
lụn bại, đất nước phân tán dưới những sứ quân tham tàn
và xâu xé nhau. Tưởng Giới Thạch đã phải có bản lãnh lắm
mới thống nhất được Trung Quốc, nhưng ông đã thất bại
trước Mao Trạch Đông vì thử thách mà chính quyền của ông
tự đặt cho mình quá lớn : đó là xây dựng một Trung Quốc
theo mô hình dân chủ phương Tây, điều mà người Trung Quốc
không hiểu và do đó không chia sẻ. Cuộc tương tranh quốc -
cộng tại Trung Quốc cũng như tại Việt Nam chủ yếu là một
cuộc xung đột giữa hai mô hình xã hội được đề nghị để
thay thế ý thức hệ Nho Giáo đã lỗi thời và sụp đổ. Một
bên là mô hình dân chủ kiểu phương Tây và một bên là mô
hình cộng sản. Về bản chất, chủ nghĩa cộng sản là một
thứ Khổng Giáo cải tiến khá gần gũi với xã hội Nho Giáo :
cũng đặt nền tảng trên một chủ nghĩa nửa chính trị nửa
tôn giáo, cũng giáo điều độc tôn, cũng tập trung tuyệt
đối, cũng khống chế tư tưởng, cũng bóp nghẹt xã hội dân
sự và đè bẹp cá nhân, cũng cấm đoán thương mại và sự
giàu có, nhưng quan tâm tới quần chúng hơn và có tổ chức tinh
vi hơn. Chính vì thế mà chủ nghĩa cộng sản dễ hiểu đối
với người dân các nước thuộc văn hóa Khổng Giáo và đã
được ủng hộ. Ngược lại mô hình dân chủ phương Tây đòi
hỏi một đoạn tuyệt văn hóa quá lớn nên đã không được
hưởng ứng. Tưởng Giới Thạch đã thua vì xã hội Trung Hoa sau
hơn hai ngàn năm Nho Giáo chưa chín muồi cho thay đổi, chứ
không phải vì ông ta kém Mao Trạch Đông. Giờ này chắc không
còn ai ngờ vực là nếu Tưởng Giới Thạch thắng, thay vì Mao
Trạch Đông, thì Trung Quốc đã khá hơn rất nhiều so với
hiện nay.
Không thực hiện được cuộc canh tân theo mô hình phương Tây
trên đất nước Trung Quốc bao la và phân rã, phe Quốc Dân
Đảng đã thực hiện nó trên khuôn khổ hạn hẹp của Đài
Loan và họ đã thành công. Điều cần chú ý là tại Đài Loan
chính quyền Quốc Dân Đảng đã luôn luôn chủ động, nới
rộng tự do một bước trước khi những thay đổi về kinh tế
xã hội đòi hỏi. Chính vì vậy mà Đài Loan đã ổn vững và
liên tục tiến lên. Ngay từ 1969, chính quyền Quốc Dân Đảng
đã tổ chức những cuộc bầu cử bổ túc các dân biểu địa
phương vào quốc hội, các quyền tự do phát biểu và hội họp
đã được thừa nhận. Năm 1986, các chính đảng được phép
thành lập và tranh cử. Năm 1987, quân luật được bãi bỏ
hẳn. Từ 1991 mọi đạo luật của thời kỳ quân luật đều
được bãi bỏ, Đài Loan trở thành một nước dân chủ thật
sự, và cũng là nước dân chủ nhất châu Á, ngoại trừ Nhật
Bản. Đa số những cấp lãnh đạo tối cao của Đài Loan hiện
nay là người địa phương. Sự thành công của Quốc Dân Đảng
chính là ở chỗ họ đã biết thăng tiến người địa phương
và sau đó tự hội nhập vào với người địa phương. Trong
cuộc bầu cử quốc hội hoàn toàn tự do và lương thiện năm
1998 họ đã thắng lớn. Họ đã thất bại trong cuộc bầu cử
tổng thống năm 2000 vì chia rẽ chứ không phải vì không
được cử tri tín nhiệm.
Trong cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á bắt đầu từ mùa hè
1997, Đài Loan đã là nước ít bị thiệt hại nhất, bởi vì
nó là quốc gia dân chủ và lành mạnh nhất trong những nước
vừa vươn lên.
Không, Đài Loan không phải là một ngoại lệ của qui luật dân
chủ đi trước và tạo ra phát triển. Đó chỉ là quốc gia ra
đời trong một trường hợp đặc biệt.
<h2>Châu Mỹ La Tinh: một thế kỷ rưỡi trong bóng đêm</h2>
Vòng du lịch vội vã một số nước châu Á trên đây đã
chứng minh, nếu cần phải lặp lại một lần nữa, là dân
chủ, tự do và nhân quyền không hề đưa đến hỗn loạn mà
trái lại còn đem tới hòa bình và ổn vững, không hề cản
trở mà còn tạo ra và thúc đẩy phát triển kinh tế. Vì vấn
đề chủ yếu của chúng ta là nhận diện liên hệ mật thiết
giữa dân chủ và phát triển nên có lẽ chúng ta sẽ còn thiếu
sót nếu không nhìn qua, dù chỉ là một cách sơ lược các
nước châu Mỹ La Tinh.
Các quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên này đã được độc
lập từ đầu thế kỷ 19, nghĩa là gần hai thế kỷ nay, nhưng
trong hơn một thế kỷ rưỡi đã quằn quại trong nghèo khổ và
bạo loạn. Vì sao ? Đó là vì ngay từ khi được độc lập,
họ đã phải chịu đựng những chế độ độc tài, với
những người hùng oai phong lẫm liệt, tài ba xuất sắc, ngự
trị trong hàng mấy chục năm. Người hùng nào cuối cùng cũng
đã có công lớn là làm cho đất nước kiệt quệ và phân rã.
Các nước châu Mỹ La Tinh đã chỉ vươn lên bắt đầu từ
thập niên 1980 khi dứt khoát chuyển hóa về dân chủ. Một lần
nữa qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển được
ứng nghiệm.
Một ngoại lệ: nước Chile. Nhưng đây không phải là ngoại
lệ của qui luật dân chủ đi trước và tạo ra phát triển mà
lại là ngoại lệ của châu Mỹ La Tinh. Chile đã là nước châu
Mỹ La Tinh duy nhất chọn con đường dân chủ rất sớm. Và,
trùng hợp làm sao, Chile cũng là nước phát triển hơn hẳn mọi
nước châu Mỹ La Tinh khác.
Trong cuộc lược duyệt này chúng ta đã bỏ qua bốn nước châu
Á: Miến Điện, Lào, Kampuchea và Việt Nam. Có gì cần nhận
định về trường hợp bốn nước này? Có, và có hai điều mà
không ai có thể chối cãi: một là cả bốn nước này đều
đã phải chịu đựng từ lâu các chế độ độc tài, đồng
thời cả bốn đều là những nước nghèo khổ và tụt hậu
nhất trong vùng; hai là, cả bốn nước đều đã đạt được
một số tiến bộ trong những năm gần đây sau khi đã chấp
nhận nới rộng một phần nào tự do.
<h3>Chú thích thêm về trường hợp Chile</h3>
Vào lúc tôi đang viết những dòng này, thế giới đang sôi nổi
vì cựu tổng thống Chile Augusto Pinochet bị giữ lại tại Anh
và có thể bị dẫn độ sang Tây Ban Nha để bị xét xử về
tội ác đối với loài người. Các thủ tục kéo dài và sau
cùng Pinochet được phép về nước vì đã già yếu.
Chế độ Pinochet khiến người ta dễ đồng hóa Chile với chế
độ độc tài. Thực ra Pinochet chỉ là một ngoặc đơn ngắn
trong lịch sử Chile. Chile đã có một chế độ dân chủ lưỡng
đảng ngay từ năm 1823. Sau đó thỉnh thoảng vẫn có những
người hùng thiết lập những chế độ độc tài nhưng dân
chủ vẫn được mau chóng vãn hồi. Chile cũng là một nước có
hiến pháp ổn định. Hiến pháp năm 1823 được áp dụng tới
1925, và sau 1925 một hiến pháp dân chủ khác được ban hành và
kéo dài tới 1973. Năm 1969, một người cộng sản, ông Salvador
Allende, đắc cử tổng thống một cách khó khăn. Bản tính cực
đoan và nóng nảy, Salvador Allende đã muốn mau chóng biến Chile
thành một nước cộng sản và tỏ ra chống Mỹ kịch liệt.
Trong một thời gian ngắn, kinh tế Chile hoàn toàn suy sụp, các
công ty ngoại quốc rút ra hoặc chuẩn bị rút ra. Bất mãn tăng
cao, dân chúng xuống đường biểu tình phản đối liên tục.
Allende còn làm một phiêu lưu nguy hiểm khác là thành lập các
đoàn võ trang riêng của mình. Cơ quan tình báo Mỹ, CIA, một
mặt ráo riết thúc đẩy chính phủ Mỹ và các công ty Mỹ tẩy
chay Chile, mặt khác xúi giục quân đội và các đảng cánh hữu
lật đổ Allende. Năm 1973, quốc hội Chile, định chế đã chung
quyết bầu ra Allende sau khi cuộc bầu cử tổng thống qua phổ
thông đầu phiếu không đem lại kết quả ngã ngũ, biểu quyết
coi Allende không còn là tổng thống hợp pháp nữa. Quân đội,
dưới quyền tướng Pinochet, coi quyết định này như một lệnh
truất phế và tiến đánh dinh tổng thống, Allende bị giết
chết. Về mặt thuần túy pháp lý, cuộc đảo chánh của
Pinochet không phải hoàn toàn phi pháp. Pinochet chỉ trở thành
bất hợp pháp sau khi ông ta nắm được chính quyền, giải tán
quốc hội và thi hành chính sách khủng bố. Pinochet đã lãnh
đạo Chile với bàn tay sắt, đàn áp thô bạo các phần tử
cộng sản và thân cộng, thủ tiêu hơn 3.000 người. Nhưng chính
Pinochet cũng chuẩn bị để vãn hồi dần dần dân chủ. Năm
1988, sau một cuộc trưng cầu dân ý trong đó ông thất bại,
Pinochet nhường quyền cho một chính quyền dân sự, nhưng vẫn
giữ quân đội và đã chỉ chấp nhận từ bỏ quân đội sau
khi đã đòi được làm thượng nghị sĩ suốt đời để
hưởng qui chế bất khả xâm phạm.
Chế độ độc tài của Pinochet kéo dài tổng cộng 17 năm, tuy
nhiên trong mười năm về sau các đảng không cộng sản vẫn
được tự do hoạt động. Trong lịch sử gần hai trăm năm của
nền dân chủ Chile khoảng thời gian độc tài của Pinochet
tương đối ngắn. Việc Pinochet bị dư luận thế giới và đa
số nhân dân Chile lên án là bằng chứng rằng nhân loại đã
văn minh hơn. Nếu cứu cánh có thể biện minh cho phương tiện
thì chắc chắn Pinochet không thể bị lên án. Ông ta đã sử
dụng những biện pháp bạo ngược nhưng đã đạt được cứu
cánh tốt đẹp là ngăn chặn âm mưu thiết lập một chế độ
chuyên chính, ổn định được xã hội, phát triển được
đất nước và sau cùng xây dựng được dân chủ. Nhưng ngày
nay dân chủ đã đủ trưởng thành để kết án cả những kẻ
đã phục vụ nó bằng những biện pháp thô bạo. Những tập
đoàn độc tài không bằng Pinochet, nghĩa là không những đã
thô bạo mà còn làm cho đất nước kiệt quệ đi, càng đáng
bị lên án một cách quả quyết hơn.
(Còn tiếp)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6103), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét