ngày nay là một sự tụt hậu đầy hổ nhục cho mọi người
Việt Nam dù thuộc quá khứ nào hay theo khuynh hướng nào. Mọi
cuộc đấu tranh chính trị đều là vô nghĩa nếu không nhắm
mục đích sau cùng là đưa đất nước tiến lên và cũng vô
nghĩa nếu không biết con đường nào sẽ đưa đất nước đi
lên.
Điều chúng ta cần nhắc lại một lần nữa là hiện nay, trên
thềm thế kỷ 21 và thiên niên kỷ thứ ba, phát triển là một
hiện tượng rất mới và chỉ giới hạn trong một số rất ít
quốc gia, nhờ một số điều kiện rất đặc biệt mà ta cần
quan sát.
Tôi xin mời độc giả làm một cuộc du lịch thăm viếng một
số nước, nơi hiện tượng phát triển đã xuất hiện trước
tiên và một cách ngoạn mục. Đây là một cuộc thăm viếng có
hướng dẫn, rất nhanh chóng và có chủ đích. Chúng ra sẽ chỉ
quan sát những gì giúp chúng ta trả lời câu hỏi "tại sao họ
đã phát triển?". Cuộc tham quan này tuy vội vã nhưng vẫn thật
thà, không giấu giếm. Những gì không được quan sát sẽ không
phản bác kết luận mà chúng ta sẽ rút ra. Đây là một cuộc
hành hương về cội nguồn của hiện tượng phát triển để
tìm hiểu. Chúng ta sẽ thành công nếu vào một lúc nào đó ánh
sáng bỗng dưng bừng lên và chúng ta vui mừng thốt lên: "Hiểu
rồi, thì ra thế !".
Hiện tượng phát triển trên qui mô quốc gia đã xuất hiện
hầu như cùng một lúc tại châu Âu và Hoa Kỳ. Châu Âu đi
trước một chút và phát triển nhanh chóng hơn trong giai đoạn
đầu. Nói là châu Âu nhưng thực ra, nếu muốn chính xác hơn,
phải nói là Hòa Lan và Anh, các nước khác đã chỉ bị, hay
được, lôi kéo theo. Một cách vắn tắt, có thể nói thế kỷ
17 đã là thế kỷ Hòa Lan, thế kỷ 18 là thế kỷ Anh, từ
cuối thế kỷ 19 Hoa Kỳ lên ngôi bá chủ hoàn cầu. Cũng từ
nửa sau thế kỷ 19, Nhật Bản vươn lên mạnh mẽ dù chưa bao
giờ đạt tới sức mạnh của Hoa Kỳ.
Viết tới đây tôi sợ bị một số học giả chê là quá sơ
sài, vì thực ra hiện tượng phát triển vốn đã có từ
trước với các thành phố buôn bán. Venice (tại Ý) ngay từ
thế kỷ 12 đã đạt tới một sức mạnh kinh tế, chính trị
và cả về quân sự rất huy hoàng. Antwerpen (tại Bỉ) từ thế
kỷ 15 đã trở thành trung tâm thương mại số một của thế
giới. Nhiều thị trấn khác trong vùng biển Baltic băng giá,
một Địa Trung Hải của Bắc Âu, cũng đã trở nên rất phồn
thịnh trong cùng một thời điểm. Nhưng tất cả những thành
tựu ngoạn mục này, ngay cả trường hợp Venice, chỉ là những
ốc đảo phồn vinh cô lập. Điều tôi muốn nhận định ở
đây là hiện tượng phát triển trên qui mô quốc gia.
Sẽ là một sự lố bịch, có thể nói là một sự xúc phạm
đối với trí tuệ, nếu muốn tóm tắt lịch sử phát triển
của Hòa Lan, Anh, Hoa Kỳ và Nhật Bản trong một vài trang giấy.
Mục đích ở đây là tìm ra cái gì đã làm nảy sinh ra phát
triển và sau đó đã duy trì được đà phát triển. Xin nói ra
ngay rằng kết luận sẽ chẳng có gì thực sự độc đáo.
Điều quan trọng là sau đó chúng ta thực sự tin. Và niềm tin
là tất cả, nó sẽ tránh cho chúng ta những hoang mang, bối rối
và lạc lối trong những biện luận mông lung. Chúng ta đang rất
cần niềm tin đó.
Bây giờ, xin mời độc giả khởi hành.
<h2>Hòa Lan: cái gì đã xảy ra?</h2>
Cho tới giữa thế kỷ 16, quyền lực tại châu Âu tập trung
về phía Nam, với Tây Ban Nha làm bá chủ. Đế quốc của Charles
Quint, trong đó Tây Ban Nha vượt trội nhất, bao phủ gần hết
châu Âu và cả miền đất rộng lớn vừa khám phá ra, nghĩa là
châu Mỹ. Nhưng đột nhiên vào giữa thế kỷ 16, năm 1568, châu
Âu rúng động vì cuộc nổi dậy tại Hòa Lan. Càng ngạc nhiên
hơn nữa vì đất nước nhỏ bé này đã kháng cự thắng lợi
trước sức mạnh của quân lực Tây Ban Nha hùng hậu trong hơn
bốn mươi năm, trong một cuộc chiến được mệnh danh là
"chiến tranh cho tự do", buộc Tây Ban Nha phải ngừng chiến,
chấp nhận thực tế của sự ly khai và sau đó ký thỏa ước
Den Haag chính thức nhìn nhận "Nước Cộng Hòa Hòa Lan". Từ đó
Hòa Lan, với không đầy mười triệu dân, tiếp tục tiến lên
mạnh mẽ, trở thành siêu cường số một của thế giới trong
thế kỷ 17. Cái gì đã xảy ra?
Montesquieu (1681-1755), thủy tổ của lý thuyết "tam quyền phân
lập" và lý thuyết "những bất lợi tiên khởi", nhận định
rằng người Bắc Âu đã bị thiên nhiên ngược đãi nên phải
phấn đấu để tiến lên, và để tiến lên cần tự do, trong
khi các dân tộc Nam Âu vì được thiên nhiên ưu đãi nên không
cần phấn đấu và do đó dễ chấp nhận cuộc sống nô lệ.
Max Weber (1864-1920), dựa vào thành tựu của Hòa Lan, và của Anh
và Mỹ sau đó, cho rằng phát triển là do ảnh hưởng của
đạo Tin Lành năng động và cởi mở hơn đạo Công Giáo. Weber
lặp lại một cách mạnh mẽ hơn lập luận của một vài nhà
tư tưởng trước ông cho rằng chủ nghĩa tư bản là một sản
phẩm của đạo Tin Lành. Karl Marx, thiên tài trong nghệ thuật
lấy ý kiến của người khác làm khám phá của mình bằng cách
nói ngược lại, cho rằng chính chủ nghĩa tư bản đã khai sinh
ra đạo Tin Lành. Quanh quẩn vẫn chỉ là một ý : có một liên
hệ mật thiết giữa một tôn giáo (Tin Lành) và phát triển.
Phải nghĩ gì về những giải thích này?
Dĩ nhiên dân tộc nào cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của
điều kiện địa lý, nhưng lý thuyết "những khó khăn tiên
khởi" rất khó đứng vững. Nếu bảo rằng nhờ bị thiên
nhiên ngược đãi mà nhiều dân tộc đã phải phấn đấu, rồi
nhờ đó tiến lên thì rất khó giải thích tại sao nước Mỹ,
với tài nguyên bao la và điều kiện sinh sống dễ dãi, đã
vươn lên mạnh mẽ? Ngược lại, một số dân tộc khác như
Mali, Ethiopia, Bangladesh lạc hậu cùng cực và bị coi là tuyệt
vọng chính vì thiếu tài nguyên thiên nhiên. Các giải thích
của những nhà nghiên cứu về điều kiện thiên nhiên thường
rất mâu thuẫn. Có khi cùng một sự kiện được sử dụng cho
hai giải thích hoàn toàn trái ngược nhau : có lúc họ nói rằng
nước Anh đã trở thành hùng mạnh nhờ than đá và sắt, có khi
họ lại lý luận rằng nước Nhật đã phát triển vì người
Nhật bắt buộc phải sản xuất nhiều để xuất cảng lấy
ngoại tệ mua nguyên liệu và nhiên liệu. Lý thuyết "những khó
khăn tiên khởi" độc đáo ở chỗ nó vừa ngược đời vừa
hùng hồn, nhưng không đúng. Tài nguyên thiên nhiên chắc chắn
là có ảnh hưởng, và dĩ nhiên về lâu về dài có ảnh hưởng
tốt, nhưng không thể giải thích tất cả.
Khí hậu cũng thường được viện dẫn như một lý do giải
thích sự phát triển, dựa vào nhận xét chung là các nước khí
hậu lạnh thường phát triển hơn các nước nhiệt đới. Nhưng
Nga và Mông Cổ (chưa nói dân Esquimo!) cũng có khí hậu rất
lạnh mà tại sao không phát triển?
Còn lý do tôn giáo? Chắc chắn là các dân tộc theo một tín
ngưỡng tiêu cực coi cuộc đời không đáng sống và không
đáng cải thiện, như ‰ên Độ và Tây Tạng, sẽ rất khó ra
khỏi cảnh nghèo khổ nếu không thay đổi tâm lý, vì một lý
do dễ hiểu là họ không coi nghèo khổ là một tai họa. Nhưng
bảo rằng đó là do ảnh hưởng của đạo Tin Lành thì phải
trả lời thế nào về sự trỗi dậy ngoạn mục của Nhật
Bản?
Chắn chắn phải có một lý do căn bản hơn trong khi những lý
do khác như tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, tôn giáo chỉ là
những biểu hiện ngoài mặt.
Từ thế kỷ 15, trung tâm quyền lực tại châu Âu dời về
miền Nam, các vùng phía Bắc chung quanh Hòa Lan ít được quan
tâm tới. Đó lại là vùng đất thấp, sình lầy và giá lạnh,
cảnh trí chẳng có gì là hùng vĩ, thành quách lâu đài cũng
khó xây dựng. Các vùng này ở trong một tình trạng đặc
biệt: một mặt họ nằm dưới quyền lực của các triều
đình lớn và không thể lập ra một chính quyền mạnh của
mình mà không sợ búa rìu, mặt khác vì gần như bị bỏ quên
nên họ phải tự tổ chức sinh hoạt riêng của mình. Công
thức duy nhất và bắt buộc là cố gắng tìm ra đồng thuận
để sống yên với nhau, tránh mọi xung đột có thể lôi kéo
sự can thiệp của triều đình Tây Ban Nha. Một xã hội tự do
dân chủ dần dần thành hình với một chính quyền rất giản
dị, người cai trị Hòa Lan không phải là một ông vua, cũng
không phải là một lãnh chúa mà chỉ được gọi là một
"đại thường trú", vì ông cư ngụ và làm việc ở tòa nhà
được dựng ra để giải quyết các vấn đề hành chính tối
cần thiết.
Những người Hòa Lan cũng không thể có vinh quang được làm
vương, làm tướng, họ chỉ còn một lý tưởng là làm giàu.
Một thanh niên Hòa Lan lớn lên không thể nuôi mộng gì khác
hơn là kinh doanh buôn bán thành công.
Một xã hội mới dần dần thành hình. Chính cái xã hội tự do
dân chủ này, với một guồng máy chính quyền thật nhẹ và thu
hẹp nhường không gian tối đa cho cá nhân, và trong đó mọi cá
nhân theo đuổi lý tưởng làm giàu, đã thúc đẩy sáng kiến
và cố gắng và tạo nên sự phồn vinh của Hòa Lan. Vào năm
1551, khi hoàng đế Charles Quint phong cho dòng họ Bourguignon 12
quận đất thấp phía Bắc (gồm Hòa Lan và Bỉ ngày nay), vùng
đất này đóng thuế cho triều đình Tây Ban Nha một số tiền
gấp bảy lần lợi nhuận quan trọng đem về từ toàn châu Mỹ.
Hòa Lan đã phồn vinh hơn hẳn Tây Ban Nha. Mười bảy năm sau,
họ nổi dậy tuyên bố rũ bỏ ách thống trị của mẫu quốc.
Sức mạnh kinh tế và quyết tâm sống tự do đã khiến họ
đẩy lùi được đạo binh hùng hậu của Tây Ban Nha.
Trái với nhận xét của Max Weber, không phải đạo Tin Lành đã
tạo ra sự phồn vinh của vùng đất thấp bao gồm Hòa Lan và
Bỉ, bởi vì phần lớn của cải vẫn nằm trong tay những nhà
kinh doanh theo đạo Công Giáo. Ở một khía cạnh nào đó, có
thể nói người Công Giáo còn năng động hơn cả người Tin
Lành trong giai đoạn đầu. Nhưng dần dần do sự bách hại
đạo Tin Lành tại Pháp, Ý và Tây Ban Nha, những người Tin Lành
đã di cư tới Bỉ và nhất là Hòa Lan để tị nạn. Họ là
một đóng góp quan trọng cho sự phồn vinh của Hòa Lan, nhưng
họ không phải là yếu tố quyết định nhất. Đóng góp quyết
định nhất là những nghệ nhân, thợ khéo, thương gia di cư
tới Hòa Lan để tránh những chính quyền độc tài khắc
nghiệt. Không khí tự do dân chủ tại Hòa Lan đã giúp họ làm
giàu cho mình và cho quê hương mới. Descartes (1596-1650), nhà toán
học và tư tưởng lớn bậc nhất của nước Pháp vào thời
đại của ông, năm nào cũng phải tới Hòa Lan sống vài tháng
để lấy hứng sáng tác trong không khí tự do, dù ông là
người Công Giáo.
<h2>Anh: một dân tộc bán tiệm</h2>
Nước Anh, từ sau khi vua John "Lack Land" [Jean Sans Terre] ký Đại
Hiến Chương [Magna Carta] năm 1215 nhìn nhận những quyền tự do
lớn cho giới quí tộc, đã không còn là một nền quân chủ
tuyệt đối trung ương tập quyền nữa. Sự áp bức vẫn còn
nhưng là những áp bức của các lãnh chúa địa phương không
đủ mạnh, phải dựa vào dân chúng, do đó cần người dân và
phải tương đối nể nang người dân. Đặc điểm của Đại
Hiến Chương là nó định chế hóa đối thoại chính trị,
buộc nhà vua phải tham khảo với một nghị viện. Nó cũng nhìn
nhận cả quyền nổi loạn chống bạo quyền.
Cuộc cách mạng của Oliver Cromwell (1599-1658), năm 1649 giáng một
đòn chí tử vào cả quyền lực lẫn danh giá của triều đình
London (vua Charles I bị hành quyết và một thể chế cộng hòa
ngắn ngủi được thành lập). Năm 1688, sau một cuộc cách
mạng ngắn, các nguyên tắc tự do dân chủ được chính thức
ban hành, mở đầu một giai đoạn phát triển huy hoàng. Sự
hiện diện của chính quyền từ đó trở nên giới hạn và ngay
cả các giá trị cũng thay đổi. Làm quan tướng trong triều
đình không vinh quang hơn là làm những phú nông, phú thương.
Phải nói ngay rằng những thay đổi ngoạn mục này có rễ từ
rất lâu đời. Thói quen sinh sống trong bối cảnh phóng khoáng
đã đem lại cho người Anh, kể cả quí tộc, một tâm lý rất
khác so với lục địa châu Âu. Họ không khinh thường những
hoạt động sản xuất (có cả một huân tước được mang danh
hiệu "huân tước củ cải" vì trở thành giàu có nhờ sản
xuất và cổ võ cho củ cải đường). Cuộc sống hải đảo
đã đem lại cho họ một tâm lý đặc biệt, phiêu lưu mạo
hiểm nhưng lại không màng những danh giá phù phiếm của quyền
lực. Vả lại, cũng tương tự như trường hợp Hòa Lan, họ
vừa được các đế quốc hùng mạnh ở lục địa bỏ quên,
vừa không thể xưng hùng xưng bá để tránh búa rìu. Sau này
từ thế kỷ 18 trở đi, khi họ tự nhận ra mình đã quá mạnh
và đi chinh phục thế giới, là một chuyện khác.
Nét đặc thù của nước Anh từ trước thế kỷ 17, khi hiện
tượng phát triển bắt đầu xuất hiện một cách rõ rệt, là
một không khí cởi mở, phóng khoáng và tự do. Nước Anh đã
là nước dân chủ đầu tiên trên thế giới, trước rất lâu
so với các nước khác. Tại sao ? Đó là câu hỏi rất phức
tạp mà một cuốn sách vài trăm trang cũng không thể trả lời
một cách đầy đủ, nhưng lý do chủ yếu có lẽ là địa lý.
Đối với chúng ta ngày nay, Anh là một đảo nhỏ về diện
tích, nhưng cho tới thế kỷ 16 đó là một lãnh thổ bao la
đối với khoảng 3 hay 4 triệu dân. Cuộc sống tản mác trên
một lãnh thổ phì nhiêu đồng đều đó không cho phép ra đời
một chính quyền trung ương mạnh. Cuộc sống hải đảo biệt
lập cũng không làm nảy sinh ra những tham vọng quyền lực
điên cuồng. Thêm vào đó, những con người sống với biển
cả và dám thách thức biển cả cũng không dễ chấp nhận
cuộc sống phục tùng tuyệt đối của những kẻ nô lệ.
Cuộc sống thủy thủ cũng đã đem lại cho họ tập quán yêu
thích buôn bán. Napoléon I có lần nhận định một cách không
mấy nể nang rằng người Anh là một "dân tộc bán tiệm" [un
peuple de boutiquiers]. Ông đã lầm, người Anh không chỉ "bán
tiệm", họ là những thương gia có viễn kiến rất sớm. Ngay
từ thế kỷ 15, họ đã thành lập nhiều công ty buôn bán có
tầm vóc lớn. Một trong những công ty đó mang một tên đầy ý
nghĩa "Đồng Đội Của Những Nhà Mạo Hiểm Thương Mại Luân
Đôn" [Fellowship of the Merchant Adventurers of London]. Cần ghi nhận
"mạo hiểm" nhưng cũng cần ghi nhận "đồng đội".
Người Anh có một đặc điểm là rất thích những kết hợp
ngoài chính quyền, những kết hợp của những người cùng theo
đuổi một mục đích và cùng chấp nhận một luật chơi. Chính
họ đã phát minh ra các Club, mà hầu hết mọi ngôn ngữ khác
đều dùng và chúng ta phiên âm là câu lạc bộ. Xã hội dân
sự tại Anh xuất hiện rất sớm và phát triển rất nhanh, rất
mạnh. Cho đến nay, tham gia các hội đoàn và câu lạc bộ vẫn
là một nét đặc thù của người Anh. Tất cả những yếu tố
đó đều là đặc tính của một sinh hoạt dân chủ. Người Anh
gieo hạt giống dân chủ một cách vô tình, rất lâu trước khi
họ có tư tưởng dân chủ. Và họ cũng đã có tư tưởng dân
chủ rất sớm. Vài dẫn chứng :
Một nhà tư tưởng, Dudley North, viết năm 1691 : "Hòa bình, cố
gắng và tự do, chứ không phải bất cứ một lý do nào khác,
đem lại thương mại và giàu có" và "vai trò của luật pháp là
đảm bảo hòa bình, công lý và khuyến khích các công nghệ
bằng cách tôn vinh chúng". Vài năm sau, năm 1699, Charles Davenant
(1656-1714), dân biểu Anh, viết: "Tự do và phồn vinh đi cùng
với nhau tay trong tay".
Lý do nào đã khiến một dân tộc vài triệu dân trên một hòn
đảo vào thế kỷ 16 trở thành bá chủ hoàn cầu hai thế kỷ
sau đó ? Câu trả lời ở đây rất là hiển nhiên : một chế
độ tự do dân chủ, nhà nước nhẹ, một xã hội dân sự năng
động và lòng yêu thích thương mại. Nhưng điều cần được
đặc biệt chú ý ở đây là bối cảnh tự do đã xuất hiện
rất lâu trước khi sự giàu có ló dạng. Những hạt giống
của tự do dân chủ đâm mộng, thành cây, rồi trổ hoa kết
trái. Trái cây ở đây là sức mạnh và sự phồn vinh.
<h2>Hoa Kỳ: đất nước của những con người tự do và dũng
cảm</h2>
Châu Mỹ đã được khám phá ra từ năm 1492 và hầu như ngay sau
đó các chính quyền Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ra công khai phá
và khai thác. Sự khai thác này đã rất thành công, nếu ta không
nghĩ đến chính sách diệt chủng của những đoàn conquistadors
đầu tiên. Châu Mỹ được coi như một kho của vô tận. Ngày
nay nếu được hỏi về nước Peru, đa số chúng ta sẽ chỉ
biết mang máng rằng đó là môt nước ở Nam Mỹ, có một ông
tổng thống người Nhật tên là Fujimori gì đó, không lớn
lắm, không giàu lắm và khá lộn xộn. Hơi giản lược nhưng
mà đúng. Vậy mà cho tới thế kỷ 19, Peru đồng nghĩa với
thiên đường hạ giới. Trong tiếng Pháp, thành ngữ "trouver le
Pérou" [tìm thấy nước Peru] vẫn được coi là đồng nghĩa
với may mắn và đạt ước mơ.
Sự khai thác châu Mỹ tiến triển mạnh ngay sau khám phá của
Columbus, nhưng chỉ giới hạn ở vùng "châu Mỹ La Tinh" thuộc
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Vùng đất phía Bắc thuộc Hoa Kỳ
và Canada hiện nay vẫn bị bỏ hoang. Anh và Pháp cạnh tranh nhau
khai phá vùng đất này nhưng cả hai nước đều gặp nhiều
vấn đề nội bộ, và lại còn bận chống nhau nữa, nên không
đặc biệt chú ý đến châu Mỹ. Việc di dân và khẩn hoang
vùng đất này không nằm trong một chính sách quốc gia nào mà
do sáng kiến của những công ty tư nhân. Từng đoàn người lẻ
tẻ trên những con tàu mong manh kéo nhau tới đó. Trong tuyệt
đại bộ phận họ là những người bị phân biệt đối xử
nên phải ra đi chứ không phải vì Pháp hay Anh thiếu đất.
Nước Pháp vào thế kỷ 16 tuy là nước đông dân hạng nhì
thế giới (sau Trung Quốc nhưng trước Ấn Độ) nhưng chỉ có
khoảng 20 triệu dân mà thôi. Nước Anh lúc đó không có tới 4
triệu dân. Những người ra đi đều là thành phần nghèo khổ
và bị hắt hủi, phần lớn là người Anh ; nước Pháp trong
suốt tiến trình di dân chỉ gởi qua Québec sáu ngàn người và
một số ít hơn tới Louisiana.
Cho tới ngày 9 tháng 6 năm 1620, khi con tàu Mayflower cập bến,
với một trăm người di dân, trên cả lãnh thổ Hoa Kỳ bao la
chỉ có khoảng hai ngàn người da trắng. Những người di dân
tới đây không sống dưới một chính quyền nào, họ ít quá
để triều đình Anh chú ý, những người chủ bỏ tiền cho họ
vượt đại dương thì ở quá xa và cũng chỉ quan tâm lấy lại
vốn cộng thêm lời của số tiền đầu tư bỏ ra, còn lại
thì để mặc họ muốn làm gì thì làm. Khoảng 40 người trên
tàu Mayflower rủ nhau đi lập nghiệp tại Provincetown, trong bang
Massachussetts. Đến nơi họ thảo chung với nhau một kết ước
sống chung, Kết ước Mayflower [The Mayflower Compact]. Không biết
họ có ý thức được không, nhưng những con người thô sơ và
mỏng manh đó (phân nửa đã chết trong mùa đông giá lạnh
đầu tiên) đã làm một trong những hành động sáng tạo vĩ
đại nhất trong lịch sử loài người. Đó là tuyên ngôn thành
lập một xã hội tự do, dân chủ và pháp trị:
"<em>[...] Chúng tôi thỏa thuận thành lập với nhau một tập
thể. [...] Mỗi khi thấy cần thiết cho phúc lợi chung, chúng
tôi sẽ làm ra và ban hành các luật lệ đúng đắn và đồng
đều cho tất cả, và chúng tôi sẽ tuân phục những luật lệ
đó</em>".
Tinh thần Mayflower đã mau chóng trở thành tinh thần nền tảng
của xã hội Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có một đặc điểm nổi bật :
đó là quốc gia ngay từ lúc thai nghén đã không hề biết một
chế độ nào khác ngoài tự do và dân chủ. Đó quả là đất
nước của những con người tự do [land of the free]. Năm 1776, khi
tuyên bố độc lập, dù đã tiến bộ rất nhiều, họ mới
chỉ có hai triệu rưỡi dân nghèo đói, trình độ văn hóa
thấp, phần lớn không biết đọc biết viết và hơn nữa rất
xa lạ với nhau. Dân chủ và tự do đã dần dần đem đến sự
gắn bó, ý thức quốc gia, sáng kiến và sức mạnh. Tân quốc
gia Hoa Kỳ đã lôi cuốn những người yêu chuộng tự do dân
chủ tại châu Âu. Lòng tin vào tương lai đã cho họ một tỷ
lệ sinh đẻ cao. Một thế kỷ sau, năm 1890, họ là quốc gia
tiến bộ nhất và hùng mạnh nhất thế giới với 63 triệu
dân. Bước vào thế kỷ 21 và thiên niên kỷ thứ ba, họ là
siêu cường độc nhất của thế giới với gần 300 triệu dân.
Thế kỷ 21 sẽ còn là thế kỷ Hoa Kỳ, sự hơn hẳn sẽ còn
gia tăng lên chứ không giảm đi trong nhiều thập niên. Trường
hợp Hoa Kỳ chứng tỏ tự do và dân chủ không đòi hỏi một
trình độ văn hóa hay kinh tế nào, trái lại còn là lý do thúc
đẩy phát triển kinh tế và văn hóa.
<h2>Nhật Bản: tự do trá hình và dân chủ giấu mặt</h2>
Người Việt Nam sùng bái sự học một cách quá đáng và lệch
lạc nên bất cứ một điều gì, dù sai tới đâu, mà đã
được nhồi sọ ở trường học cũng trở thành một chân lý
rất khó lay chuyển. Một trong những sai lầm lớn mà hầu như
mọi người Việt Nam, bất luận có bằng cấp nào, cũng tin
một cách chắc nịch là nhờ vua Minh Trị sáng suốt biết canh
tân kịp thời mà nước Nhật đã trở thành tân tiến và hùng
mạnh. Tôi đã gặp không biết bao nhiêu trí thức tiếc rằng
các vua Minh Mạng, Tự Đức đã không được như Minh Trị, nếu
không Việt Nam chắc đã không thua Nhật Bản.
Sự thực Minh Trị không hơn gì Tự Đức, và nước Nhật đã
không tiến lên nhờ Minh Trị. Không những thế, còn có thể
nói chính Minh Trị đã bẻ gãy, hay đúng hơn đã là dụng cụ
để giúp đám quân phiệt bẻ gãy đà tiến hài hòa của Nhật
Bản về tương lai. Cuối "lộ trình Minh Trị" là một cuộc
chiến tự hủy, hai trái bom nguyên tử và một phần quan trọng
của lãnh thổ bị mất.
Minh Trị lên ngôi năm 1867, lúc mới 14 tuổi. Phải mê tín dị
đoan mới có thể tin một cậu bé bằng ấy tuổi và được
nuôi nấng trong hoàng cung có thể có cả một dự án canh tân
đất nước. Thực ra Minh Trị lên ngôi vào đúng lúc quyền
bính nước Nhật rối loạn hoàn toàn, các sứ quân liên kết
với nhau lật đổ và chấm dứt chế độ chúa công [shogun]
được thiết lập từ thế kỷ 12 theo một mô hình tương
đương như vua Lê chúa Trịnh tại nước ta. Lúc đó nước
Nhật đã tiếp xúc với phương Tây từ hơn ba thế kỷ, từ
năm 1543, nghĩa là cùng một lúc với Việt Nam.
Vào thời điểm Minh Trị lên ngôi, nước Nhật đã thay đổi
rất nhiều rồi, khác hẳn với Việt Nam. Câu chuyện sau đây
đủ nói lên mức độ phát triển của nước Nhật trước khi
người phương Tây đến. Một người Bồ Đào Nha, tên là Pinto,
đến nước Nhật vào khoảng cuối thế kỷ 16 đem theo một cây
súng. Ông ta khoe hiệu lực của cây súng hơn hẳn những thanh
kiếm của các hiệp sĩ Nhật, rồi cho mượn. Vài tháng sau, khi
ông ta ra đi, người Nhật đã chế ra được 500 khẩu súng
giống hệt như vậy. Hai năm sau trên toàn nước Nhật có tới
300.000 khẩu súng Pinto. Kỹ năng của người Nhật đã tiến
tới một trình độ rất cao ngay từ thế kỷ 16.
Các tài liệu của nước ta, cũng như phần lớn các tài liệu
phiến diện của phương Tây mà ta sao dịch lại, đánh dấu sự
mở cửa của Nhật về phương Tây từ năm 1853 (tức mười
bốn năm trước khi Minh Trị lên ngôi) khi phó đề đốc
[comodore] Perry chỉ huy một đoàn chiến hạm Mỹ tiến vào cảng
Đông Kinh đưa tối hậu thư buộc Nhật mở cửa khẩu cho tàu
bè phương Tây, và Nhật nhượng bộ. Thực ra, một cách không
chính thức, Nhật đã mở cửa cho phương Tây và đã tiếp thu
rất nhiều kỹ thuật và phương pháp phương Tây từ ba thế
kỷ trước rồi. Người Nhật đã quen với phương Tây và đã
đủ tiến hóa để hiểu sức mạnh của phương Tây. Họ
nhượng bộ vì hiểu biết chứ không phải vì nhát sợ. Họ
đã quen sử dụng lịch phương Tây từ lâu, cho nên năm 1873 họ
bỏ hẳn lịch Tàu để chỉ dùng lịch Tây. Họ cũng đã mở
những trường học về y khoa và khoa học cơ bản từ thập
niên 1720, nổi tiếng nhất là Trường Hòa Lan (người Nhật
quả nhiên biết chọn thầy!). Năm 1744, họ xây một đài quan
sát thiên văn với hai kính viễn vọng lớn. Từ năm 1810, họ
tổ chức cả một cơ quan chuyên môn dịch sách khoa học kỹ
thuật phương Tây. Ngày 7 tháng 1 năm 1870, đúng ba năm sau khi
Minh Trị lên ngôi, bức điện tín đầu tiên được đánh đi
từ Tokyo.
Nước Nhật đã rất tiến bộ khi người phương Tây đến.
Chính nhờ tiến bộ mà họ đã nhận thức được sự hơn hẳn
của phương Tây và đã hấp thụ rất mau chóng các kỹ thuật
phương Tây. Tại sao ? Đó là nhờ một sự kiện ngoài chủ
đích của mọi người. Xã hội Nhật do các lãnh chúa thống
trị dựa trên giai cấp hiệp sĩ. Các lãnh chúa và các hiệp sĩ
cực kỳ kiêu căng không thèm hòa trộn với dân chúng mà để
mặc quần chúng tự tổ chức lấy cuộc sống của mình, miễn
là nộp đủ thuế. Trong tình trạng ấy, quần chúng Nhật tuy
ở sát nhưng thực ra lại sống rất xa giai cấp thống trị.
Họ không thể tổ chức thành chính quyền nếu không muốn lãnh
búa rìu và họ phải tìm cách sinh sống với nhau trong đồng
thuận để tránh những can thiệp của bọn hiệp sĩ. Một cách
tiệm tiến và thầm lặng, một sinh hoạt tự do đã hình thành
giữa quần chúng với nhau, dưới sự giám sát từ xa của các
lãnh chúa. Đó là lý do khiến xã hội Nhật đã phát triển,
rồi chính sự phát triển này đã tạo ra áp lực buộc giới
cầm quyền Nhật nhượng bộ dần dần.
Ở đây, Nhật cũng không phải là một ngoại lệ. Nhật cũng
đã phát triển nhờ tự do dân chủ, dù là tự do trá hình, dân
chủ giấu mặt. Không hiểu được điều này là không hiểu
phép mầu Nhật Bản, một phép mầu đã bắt đầu từ trước
khi người phương Tây tới và đã gia tăng vận tốc sau đó.
Minh Trị sau khi lên ngôi đã chỉ là một biểu tượng giúp cho
đám quân phiệt tiêu diệt dần tự do dân chủ và đưa Nhật
Bản đến bế tắc. Những năm cuối của triều đại Minh Trị
còn là những năm đen tối cho nước Nhật: bành trướng quân
sự, chiếm Đài Loan và Cao Ly, đàn áp đẫm máu ở trong nước.
Khi Minh Trị chết, năm 1912, chế độ Nhật trở thành một chế
độ độc tài quân phiệt thuần túy với hậu quả mà chúng ta
đã thấy. Sau thế chiến II, Nhật bại trận, phải đầu hàng
không điều kiện, chấp nhận một hiến pháp tự do do Hoa Kỳ
áp đặt và giám sát, và nước Nhật lại vươn lên.
<h2>Những xã hội phồn vinh khác</h2>
Đến đây chúng ta đã xong một cuộc hành trình qua những kinh
nghiệm phát triển. Chúng ta đã dừng chân ngắn ngủi tại các
chặng đường Hòa Lan, Anh, Mỹ và Nhật. Cuộc hành trình vội
vã này đã không cho phép chúng ta dừng lại ở một số phép
mầu tại một số quốc gia khác.
Như Thụy Sĩ, quốc gia nhỏ bé và bị quên lãng trong nhiều
thế kỷ, không có bờ biển, không tài nguyên thiên nhiên, lại
thêm núi non trùng điệp, vậy mà đã trở thành quốc gia giàu
có nhất thế giới. Trong nhiều thế kỷ Thụy Sĩ đã là vùng
đất không nước nào dòm ngó, nó đã thành đất dung thân của
người Đức, người Pháp, người Ý muốn xa lánh bạo lực và
sự bất dung. Người Thụy Sĩ đã xây dựng với nhau một xã
hội tự do dân chủ theo phương châm dĩ hòa vi quí. Và họ đã
tìm được hạnh phúc. Đặc điểm của Thụy Sĩ mà mọi
người đều biết là có một chế độ dân chủ đi xa nhất
trong mọi chế độ dân chủ : dân chủ trực tiếp ở một số
địa phương.
Hay như trường hợp của các nước Bắc Âu, Đan Mạch và Thụy
Điển (cho tới gần đây Thụy Điển là nước có lợi tức
bình quân trên mỗi đầu người cao nhất châu Âu). Các quốc
gia xa xôi băng giá và ít người này cũng ở trong thế "chẳng
ai để ý đến họ và họ cũng chẳng dám vênh váo thách thức
với ai". Họ tổ chức với nhau một xã hội đồng thuận và
khiêm nhường, tôn trọng tự do và sáng kiến của mỗi người.
Và họ đã là những quốc gia phát triển đầu tiên ; như phần
đầu bài này đã nói, vùng biển Baltic đã phát triển rất
sớm.
<h2>Cùng một hiện tượng</h2>
Điều ngạc nhiên và lý thú là dưới những bề ngoài có vẻ
rất khác nhau cùng một hiện tượng đã được lặp lại.
Hiện tượng diễn ra như sau: một cộng đồng quốc gia vào
một lúc nào đó, do một tình cờ địa lý hay lịch sử, rơi
vào một hoàn cảnh đặc biệt, quyền lực khống chế không
quan tâm tới họ và để mặc họ sống với nhau. Một tổ
chức xã hội mới đã dần dần hình thành với bốn đặc
tính: một là vì không có chọn lựa nào khác họ đã tổ chức
với nhau một chính quyền tối thiểu, thậm chí không chính
thức, và sinh sống với nhau theo qui luật tự nhiên của thị
trường; hai là do không thể có tham vọng quyền lực, mọi
người tập trung cố gắng làm giàu; ba là do chính quyền không
can thiệp vào đời sống hàng ngày, người dân được hưởng
một mức độ tự do lớn, do đó phát huy tối đa sáng kiến;
bốn là thương mại được ưa chuộng và tôn vinh. Yếu tố
thứ tư thực ra chỉ là một hậu quả của yếu tố thứ hai
và nhất là thứ ba. Đã chủ tâm làm giàu và lại được tự
do phát huy sáng kiến thì chắc chắn con người trở thành mạo
hiểm, thích trao đổi và buôn bán.
Chính quyền nhẹ, tự do và dân chủ, kinh tế thị trường, ham
mê làm giàu, trọng thương mại và cởi mở với thế giới bên
ngoài là những yếu tố đem tới sự giàu có. Những yếu tố
đó là nguyên nhân thực sự của phát triển, cho dù chúng xuất
phát trong hoàn cảnh nào. Chúng ta có thể coi đó là một định
luật đúng trong mọi trường hợp. Ngay cả các thị trấn
thương mại đã phát triển sớm nhất cũng không phải là
ngoại lệ. Kiến thức của tôi rất nhiều giới hạn, nhưng
những kinh nghiệm phát triển mà tôi có dịp nghiên cứu, và
tôi có cảm tưởng không bỏ sót trường hợp quan trọng nào,
cho tôi một nhận xét là trong chiều sâu mọi phát triển trên
phạm vi quốc gia đều có cùng một nguyên nhân, dù bề ngoài
chúng có thể bộc lộ dưới một lý do đặc biệt: tôn giáo,
khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, v.v... Điều đáng lưu ý là
thực ra nhiều chế độ độc tài hoặc thiếu dân chủ cũng
đã nhận ra điều này. Đó là lý do khiến họ cho phép lập ra
những khu chế xuất, vùng kinh tế đặc biệt, v.v... mà đặc
tính là ở đó tự do được thả lỏng, các thủ tục được
giảm nhẹ, sự hiện diện của chính quyền bớt lộ liễu. Các
vùng này đều đã thành công và khiến nhiều kinh tế gia coi
chúng như một giải pháp. Nhưng đây chỉ là một biện pháp
nửa chừng. Nếu các khu chế xuất có lợi, tại sao không mở
rộng cho cả nước ?
Nét đậm nhất cần ghi nhớ sau những dòng này là, một mặt,
xã hội tự do dân chủ kích thích cố gắng và cho phép con
người phát huy tối đa khả năng của mình, và mặt khác, tự
do dân chủ không đòi hỏi một điều kiện nào, nó phù hợp
với mọi xã hội và mọi trình độ. Các dân tộc vươn lên
đầu tiên đã tình cờ đạt tới tự do và dân chủ trong
trường hợp đặc biệt. Ngày nay, đã hiểu được phúc lợi
của tự do và dân chủ, chúng ta có thể cố ý tạo dựng tự
do và dân chủ để vươn lên.
Kết luận trên đây có phải là hiển nhiên quá đến độ
nhạt nhẽo không? Nếu được như vậy thì còn gì hơn, nhưng
điều đáng buồn là không. Tôi đã quá nhiều lần được nghe
từ miệng những vị khoa bảng cao, kể cả những vị tự coi
và được coi là những chuyên viên kinh tế, kể cả một số
người hoạt động chính trị dưới danh nghĩa dân chủ, nói
tới một trình độ dân trí tối thiểu để có dân chủ, hay
tự do quá trớn, dân chủ quá trớn, hay dân chủ tự do có nguy
cơ dẫn tới vô trật tự và hỗn loạn v.v... Những lúc đó
tôi chua chát nhớ tới lời nói của một ông thầy tôi: "<em>Có
bằng cấp chưa phải là có kiến thức và thực học</em>".
Trước khi chấm dứt chương này, tôi thấy cần thêm hai chú
thích.
Một là, những dòng trên có thể khiến độc giả nghĩ tôi
phản bác Max Weber. Sự thực là không, Weber là một trong những
nhà lý luận về kinh tế và xã hội mà tôi ngưỡng mộ nhất.
Những đóng góp của ông thật là to lớn. Nếu nhìn mặt trăng
thay vì chỉ nhìn ngón tay chỉ mặt trăng thì ta thấy Weber nói
đúng. Đạo Tin Lành chỉ là ngón tay mà thôi, điều mà Weber
thực sự khám phá ra cho chúng ta là tầm quan trọng quyết
định của văn hóa. Chính vì thế mà các quốc gia tự do dân
chủ như nhau đã có những nhịp độ phát triển khác nhau vì
văn hóa khác nhau. Phát triển, kể cả phát triển kinh tế, chủ
yếu là do tâm lý con người, mà tâm lý con người là sản
phẩm của văn hóa. Ở thời đại mà Weber nghiên cứu, thời
đại của các thế kỷ 16, 17 và 18, tôn giáo là yếu tố áp
đảo của văn hóa. Văn hóa Tin Lành cởi mở, phóng khoáng, lấy
đối thoại làm căn bản thay cho giáo điều, khuôn phép. Đó là
một văn hóa tự do. Đạo Tin Lành đã đem lại phồn vinh (không
ai có thể chối cãi là các dân tộc theo đạo Tin Lành tiến
bộ hơn hẳn các dân tộc theo các tôn giáo khác) vì nó chuyên
chở văn hóa tự do và đối thoại. Nhưng chúng ta cũng có thể
đạt tới một văn hóa tự do, lấy chính tự do, dân chủ và
đa nguyên làm những giá trị căn bản, mà không cần cỗ xe Tin
Lành.
Hai là, những biện luận trên đây có một chỗ yếu là đã
gán ghép tự do và dân chủ, trong khi các kinh nghiệm chỉ chứng
tỏ tự do đã đóng vai trò quyết định. Các nước phát triển
đầu tiên đã bắt đầu phát triển ngay từ khi chưa hẳn có
dân chủ, nếu hiểu dân chủ là thể chế chính trị trong đó
những người cầm quyền được dân chúng tự do bầu ra trong
một nhiệm kỳ giới hạn nhất định. Trong một phần khác tôi
sẽ trở lại vai trò của dân chủ. Ở đây chỉ xin nói một
cách vắn tắt : quả thực tự do mới cần thiết và mới là
cứu cánh, nhưng dân chủ là yếu tố cần thiết để đảm
bảo tự do, để đà phát triển có thể tiếp tục thay vì bị
gãy đổ giữa đường.
(Còn tiếp)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6101), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét