Mai Thái Lĩnh - Đảng Lao động Na Uy – một tấm gương “tự diễn biến hòa bình” thành công rực rỡ

<em><strong>Đã có lần, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết dẫn
chứng một cách tự hào rằng trong một lần gặp gỡ, Thủ
tướng Na Uy tự nhận mình là người thuộc "thế hệ chống
Mỹ", từng tham gia phong trào phản chiến ủng hộ Việt Nam.
Nhưng nếu chịu khó tìm hiểu thêm một chút về đảng chính
trị của Thủ tướng Jens Stoltenberg, chắc hẳn vị nguyên thủ
quốc gia của Việt Nam sẽ phải giật mình.</strong></em>

<em><strong>Bởi vì Đảng Lao động Na Uy là một trong những
đảng chính trị đầu tiên trên thế giới gia nhập vào Quốc
tế Cộng sản, nhưng cũng là đảng đầu tiên từ bỏ Quốc
tế Cộng sản, để rồi sau đó "tự diễn biến hòa bình"
thành một đảng dân chủ - xã hội. Trong vòng 75 năm (1935 -
2010), đảng này nắm chính quyền 50 năm, hoàn toàn thông qua
phương thức bầu cử dân chủ. Với ngần ấy năm giữ vai trò
lãnh đạo, Đảng Lao động Na Uy đã góp phần lớn lao vào
việc biến Na Uy thành một quốc gia giàu có, chất lượng cuộc
sống đứng hàng đầu thế giới, của cải được phân phối
một cách công bằng, có một bộ máy chính quyền trong sạch,
một thể chế chính trị được đánh giá là dân chủ nhất,
tự do báo chí được xếp hàng đầu thế giới.</strong></em>

<em><strong>Bài viết sau đây sẽ giới thiệu một vài nét khái
quát về đảng chính trị độc đáo đó – một tấm gương
"tự diễn biến hòa bình" mà chúng tôi nghĩ, những người
cộng sản Việt Nam ngày nay rất nên tìm hiểu, học hỏi ở
họ nếu muốn giữ được vai trò lãnh đạo của mình, không
bị lịch sử đào thải.</strong></em>

<center>* * *</center>

Đảng Lao động Na Uy (<em>Norwegian Labour Party</em>) có tên gọi
trong tiếng Na Uy là Det Norske Arbeiderparti, viết tắt là DNA.
Ngoài ra, đảng còn được gọi bằng một cái tên thông dụng
là Arbeiderpartiet, Đảng Lao động (viết tắt là Ap).

Đảng Lao động Na Uy được thành lập vào năm 1887 tại Arendal,
một thành phố cảng nằm trên bờ biển phía Nam của Na Uy.
Bảy năm sau (1894), Đảng bắt đầu tham gia các cuộc tổng
tuyển cử và đến năm 1903 bắt đầu có mặt tại Nghị viện
(Storting). Số phiếu cử tri dành cho các Nghị sĩ Lao động gia
tăng đều đặn và đến năm 1927, DNA trở thành đảng chính
trị lớn nhất ở Na Uy.

Đằng sau những mốc lịch sử ấy là cả một chuỗi dài
những biến đổi: từ một đảng dân chủ - xã hội, DNA đã
"cấp tiến hóa" để trở thành một đảng cộng sản để
rồi sau đó, từ bỏ con đường cộng sản và dần dần chuyển
hóa trở lại thành một đảng dân chủ - xã hội theo gương
các đảng bạn ở Bắc Âu. Kể từ đó, Đảng Lao động đồng
hành với dân tộc Na Uy và làm nên những kỳ tích khiến cho
cả thế giới phải ngạc nhiên.

<h2>Từ dân chủ - xã hội đến chủ nghĩa cộng sản</h2>

Trước cuộc Chiến tranh Thế giới lần I, sức mạnh của phong
trào công nhân Na Uy nằm trong hai tổ chức: Đảng Lao động Na
Uy (DNA) thành lập vào năm 1887, và Liên hiệp Công đoàn Na Uy
(Norwegian Confederation of Trade Unions, Landsorganisasjonen i Norge, viết
tắt là LO) thành lập vào năm 1899. Hai tổ chức "sinh đôi"
này gắn bó chặt chẽ với nhau dựa theo quy chế: tất cả các
công đoàn địa phương đều là thành viên tập thể của
đảng[1].

Vào thời kỳ đầu, cũng như các đảng dân chủ - xã hội khác
ở Bắc Âu, Đảng Lao động Na Uy (DNA) được tổ chức theo
kiểu mẫu của Đảng Dân chủ - Xã hội Đức (Social Democratic
Party of Germany, Sozialdemokratische Partei Deutschlands, viết tắt là
SPD), nghĩa là một đảng theo xu hướng cải cách và hoạt
động trong khuôn khổ của hệ thống chính trị - xã hội của
Na Uy. Nhưng trong những năm đầu thập niên 1910, ngay trước khi
nổ ra cuộc Chiến tranh Thế giới lần I, một phái đối lập
có xu hướng cách mạng đã hình thành trong phong trào thanh niên
cũng như trong phong trào công đoàn[2].

Tổ chức thanh niên của DNA (được thành lập vào năm 1903) do
ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx đã nhanh chóng trở thành một
nhánh đối lập có xu hướng cách mạng. Một nhánh thứ hai
của phái đối lập cũng hình thành trong phong trào công nhân
dưới sự lãnh đạo của Martin Tranmæl. Nhánh này chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa công đoàn (syndicalism, syndicalisme)[3],
một lý thuyết chính trị kêu gọi công nhân phải hành động
trực tiếp để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản nhằm thiết lập
một trật tự xã hội mới dựa trên giai cấp công nhân được
tổ chức thành các đơn vị sản xuất.

Giai cấp công nhân Na Uy tỏ ra "cách mạng" hơn so với giai
cấp công nhân ở các quốc gia Bắc Âu khác. Chính xu hướng
cấp tiến mạnh mẽ này đã mở đường cho ảnh hưởng của
phái Bolshevik Nga. Các nhà cách mạng Bolshevik nổi tiếng như
Nicolay Bukharin và Alexandra Kollontai đã từng lưu trú tại Na Uy,
quen biết trực tiếp các nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa
cũng như viết nhiều bài đăng trên các tờ báo cánh tả tại
đây.

Khi Chiến tranh Thế giới lần I nổ ra, những khó khăn trong
đời sống hàng ngày của giai cấp công nhân càng làm gia tăng
xu thế cách mạng. Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra vào
cuối năm 1917 đã thu phục được cảm tình lớn lao của các
nhà xã hội chủ nghĩa Na Uy. Trong năm 1918, nhiều xô-viết của
công nhân và binh lính đã được thành lập. Cũng trong năm đó,
tại Đại hội thường niên của DNA, hai nhánh của phái đối
lập (trong thanh niên và trong công đoàn) đã hợp tác với nhau
để giành vị trí lãnh đạo trong Đảng. Điều này hoàn toàn
trái ngược với xu thế phát triển của các đảng dân chủ -
xã hội ở Đan Mạch và Thụy Điển vì ở các nước này ban
lãnh đạo theo xu hướng cải cách vẫn nắm vững được quyền
lực, phái cách mạng chỉ là thiểu số.

Vào lúc này DNA đã đạt được gần 100 ngàn đảng viên, phần
lớn được kết nạp thông qua các thành viên tập thể - tức
là các công đoàn địa phương. Trong cuộc tổng tuyển cử năm
1918, Đảng đạt được 31,6 % số phiếu bầu, chiếm 18 trong
tổng số 126 ghế tại Nghị viện.

Vào tháng 3 năm 1919, Đảng Lao động Na Uy trở thành một thành
viên của Quốc tế Cộng sản (Comintern)[4]. Đại biểu của DNA
tại Đại hội thành lập tổ chức quốc tế này là Emil Stang
– lúc đó là Phó Chủ tịch Đảng. Tuy nhiên, 21 điều khoản
gia nhập được Đại hội lần II của Quốc tế cộng sản
thông qua (năm 1920) đã gây ra sự phân hóa trong Đảng Na Uy. Sau
những cuộc tranh cãi gay gắt, khối đa số trong Đảng đã
chấp nhận các điều kiện nói trên để tiếp tục là thành
viên của Quốc tế Cộng sản, trong khi một bộ phận ly khai
tách ra để thành lập một đảng mới vào năm 1921 mang tên là
Đảng Lao động Dân chủ - Xã hội Na Uy (Social Democratic Labour
Party of Norway). Tuy nhiên, phái này chỉ là một thiểu số, do
đó không có ảnh hưởng chính trị nào đáng kể so với DNA.

<h2>Rời bỏ Quốc tế Cộng sản trở về với dân tộc</h2>

Trong suốt thời gian tham gia Quốc tế Cộng sản (1919 - 1923),
giữa DNA và Ủy ban Chấp hành của Quốc tế Cộng sản
(Executive Committee of the Communist International, tên viết tắt là
ECCI) thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn. Xung đột chủ yếu xoay
quanh mức độ độc lập của Đảng Lao động Na Uy đối với
Quốc tế Cộng sản. Cách nhìn nhận vấn đề này đã làm cho
nội bộ Đảng chia thành hai phái, được gọi là "phái liên
bang" (federalists) và "phái tập trung" (centralists). Phái tập
trung chủ trương phục tùng quyền lực của ECCI, trong khi phái
liên bang đòi hỏi tính tự chủ, độc lập của Đảng Na Uy
như: quyền kiểm soát các vấn đề nội bộ, quyền cử các
đại biểu tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản và tự lựa
chọn người đại diện của DNA tại ECCI, yêu cầu phải
được hỏi ý kiến trước khi ECCI cử đại biểu đến Na Uy,
v.v.

Từ đầu năm 1922, cuộc tranh chấp ngày càng gay gắt. Sự xung
đột giữa DNA với Quốc tế Cộng sản trở nên trầm trọng
khi ECCI gửi một lá thư cho Ủy ban Trung ương của DNA để bày
tỏ lập trường ủng hộ phái tập trung. Mặc dù DNA là Đảng
Cộng sản trong một quốc gia nhỏ, nhưng lại là đảng đa số
duy nhất có mặt tại Quốc tế Cộng sản, cho nên ECCI đã tỏ
ra rất kiên nhẫn trong mối quan hệ với DNA, với hy vọng
thuyết phục phái liên bang đừng ly khai. Nhiều nhà lãnh đạo
cao cấp của ECCI như Karl Radek, Nikolay Bukharin đã được cử
đến Na Uy. "Vấn đề Na Uy" đã được đưa vào chương
trình nghị sự của Hội nghị toàn thể mở rộng lần 2 của
ECCI (1922), chiếm một vị trí quan trọng tại Đại hội IV của
Quốc tế Cộng sản (tháng 6/1922) và là chủ đề chính của
Hội nghị toàn thể mở rộng lần 3 của ECCI (tháng 6/1923).

Bất chấp những nỗ lực của lãnh đạo ECCI trong việc thuyết
phục phái liên bang, tại Hội nghị toàn quốc vào tháng 11 năm
1923, DNA đã quyết định rời bỏ Quốc tế Cộng sản. Một
thiểu số đã rời bỏ DNA để thành lập một đảng mới có
tên là Đảng cộng sản Na Uy (Communist Party of Norway, Norges
Kommunistiske Parti, viết tắt là NKP).

<h2>Tự diễn biến hòa bình thành một đảng dân chủ - xã
hội</h2>

Mặc dù tách khỏi Quốc tế Cộng sản, Đảng Lao động vẫn
chưa rời bỏ ngay lập trường cách mạng. Điều này có liên
quan đến ảnh hưởng của <em><strong>Martin Tranmæl</strong></em>
(1879-1967) – người lãnh đạo của phái cách mạng trong DNA.

Xuất thân từ một gia đình nông dân, vào năm 1896, Tranmæl gia
nhập vào một công đoàn có liên hệ với Đảng Lao động. Ông
là một trong những người sáng lập tờ Ny Tid (New Time, Thời
mới) – phát hành ở Trondheim; vào năm 1900 tờ báo này trở
thành tiếng nói chính thức của Đảng Lao động. Tranmæl đã
hai lần sang Hoa Kỳ (1900 - 1902 và 1903 - 1905) và trong thời gian
làm thợ sơn ở đây, ông đã có dịp tìm hiểu về tổ chức,
lý thuyết và các phương pháp hoạt động của phong trào công
nhân Mỹ. Trong giai đoạn 1907 - 1911, Tranmæl du hành khắp châu
Âu, dành phần lớn thời gian để làm việc cho tờ Ny Tid. Ông
đã bị cầm tù vì tội xách động chính trị vào năm 1915.

Khi phái cách mạng chinh phục được khối đa số trong Đại
hội Đảng năm 1918, Tranmæl được bầu vào Ủy ban Trung ương
của DNA và từ 1918 đến 1921, đảm nhiệm chức vụ Bí thư
của Đảng. Trong thời gian sau đó, mặc dù không giữ các chức
vụ chủ chốt, Tranmæl vẫn tiếp tục là thành viên của Ủy
ban Trung ương của DNA mãi cho đến năm 1963. Từ 1921 đến 1949,
ông tham gia biên tập tờ báo đảng Social-Demokraten (sau đổi
tên thành Arbeiderblade). Ông cũng là thành viên của Ủy ban Nobel
Na Uy (Norwegian Nobel Committee) trong một thời gian khá dài (1938 -
1963).

Mặc dù không tham gia vào bất cứ Chính phủ Na Uy nào, Tranmæl
có ảnh hưởng rất lớn đối với Đảng DNA. Như trên đã
trình bày, chính do ảnh hưởng của ông mà DNA đã chấp nhận
một đường lối chính trị cấp tiến, mang tính cách mạng và
gia nhập vào Quốc tế Cộng sản.

Kể từ cuối 1923, mặc dù rời bỏ Quốc tế Cộng sản,
Tranmæl vẫn giữ lập trường triệt để cách mạng. Đảng Lao
động Na Uy đã nhiều lần phê phán Đảng Bolshevik Nga, chê
đảng này là "hữu khuynh", "thiếu tính cách mạng". Chính
lập trường cách mạng triệt để của Tranmæl và DNA đã
khiến cho phái Stalin gặp khó khăn trong việc tuyên truyền nói
xấu những người dân chủ - xã hội Na Uy. Những luận điệu
quen thuộc mà Đảng Cộng sản Liên Xô thường dùng để phỉ
báng những người dân chủ - xã hội như: "phái dân chủ - xã
hội là tay sai của giai cấp tư sản, "dân chủ - xã hội là
chủ nghĩa phát xít – xã hội (social fascism)", tỏ ra không có
tác dụng gì khi áp dụng vào trường hợp của Tranmæl và
Đảng DNA. Đó là chưa kế đến cuộc sống mẫu mực của nhà
cách mạng này. Ngay cả Leon Trotsky, mặc dù không ưa thích
Tranmæl, vẫn phải thừa nhận ông là một con người chính
trực, sống rất gương mẫu: không uống rượu, không hút
thuốc, sống đạm bạc và vào mùa đông tắm trong một hố
băng[5].

Sau khi tách ra khỏi Quốc tế Cộng sản, DNA vẫn tiếp tục là
một đảng mạnh nhất của cánh tả ở Na Uy. Cuộc tổng tuyển
cử đầu tiên sau khi chia tách (năm 1924) cho thấy Đảng Cộng
sản chỉ đạt được 6,1% số phiếu trong khi Đảng Lao động
đạt 18,3% và Đảng Lao động Dân chủ - Xã hội đạt 8,8%.

Vào năm 1927, Đảng Lao động Dân chủ - Xã hội (tức là bộ
phận tách khỏi Đảng vào năm 1921) đã tái hợp với Đảng Lao
động (DNA). Việc hợp nhất hai đảng dân chủ - xã hội đã
đem lại sức mạnh cho DNA. Trong cuộc tuyển cử năm 1927, DNA
đạt 36,8% số phiếu bầu, chiếm 59 trong tổng số 150 ghế tại
Nghị viện. Christopher Hornsrud thành lập Chính phủ Lao động
đầu tiên, được chính thức bổ nhiệm ngày 28/1/1928. Nhưng
chính phủ này chỉ tồn tại được có 18 ngày, do một nghị
quyết bất tín nhiệm được tiến hành theo đề xuất của
Đảng Tự do (Liberal Party). Đảng này phê phán việc Chính phủ
Lao động từ chối bảo đảm cho các ngân hàng trong tình trạng
bất ổn về kinh tế gây ra bởi việc chuyển đổi chính phủ.

Sau thất bại trong kỳ bầu cử năm 1930, Đảng Lao động quyết
định thay đổi đường lối chính trị. Từ chỗ nuôi tham
vọng "cách mạng hóa" xã hội, giờ đây Đảng quyết định
đấu tranh với nạn suy thoái kinh tế và nạn thất nghiệp trong
khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản và chế độ dân chủ đại
nghị. Johan Nygaardsvold trở thành gương mặt hàng đầu của
Đảng, và trong cuộc tổng tuyển cử năm 1933, Đảng Lao động
đạt 40,1% số phiếu bầu và chiếm 69 trên tổng số 150 ghế
tại Nghị viện. Mặc dù vậy, DNA vẫn chưa thể đứng ra thành
lập chính phủ vì thiếu hậu thuẫn của các đảng khác. Johan
Ludwig Mowinckel, lãnh tụ của Đảng Tự do, người đã hai lần
làm Thủ tướng (1924 - 1926 và 1928 - 1931), đứng ra thành lập
chính phủ thứ ba (1933 - 1935).

Năm 1935, Johan Nygaardsvold, lãnh tụ của DNA, đạt được một
thỏa thuận với Đảng Nông nghiệp (Agrarian Party, Bondepartiet)[6]
về chính sách nâng giá các sản phẩm nông nghiệp để hỗ
trợ khẩn cấp cho nông dân, qua đó hình thành được một liên
minh với đảng này. Nhờ vậy, DNA đánh bại được Chính phủ
của Mowinckel và đứng ra thành lập chính phủ mới vào ngày
20/3/1935. Đây là chính phủ thứ hai của DNA kể từ ngày thành
lập đảng đến nay. Liên minh với đảng của nông dân cũng là
điều kiện để DNA trở thành đảng cầm quyền liên tục trong
ba thập niên sau đó.

Cũng chính vào lúc này, sau một quá trình "tự diễn biến hòa
bình", DNA đã thật sự từ bỏ "nhiệm vụ quốc tế" của
một đảng cách mạng. Sự kiện "Leon Trotsky ở Na Uy" là
một ví dụ tiêu biểu cho sự thay đổi lập trường này.

Năm 1935, sau khi nước Pháp từ chối gia hạn visa, Trotsky đã xin
lưu trú tại Na Uy theo lời mời của Konrad Knudsen, lúc đó là
một nhà báo và là đảng viên của DNA. Do sự can thiệp của
các Nghị sĩ DNA, Trotsky được phép nhập cảnh Na Uy vào tháng 6
năm 1935. Việc Leon Trotsky có mặt ở Na Uy đã gây ra phản ứng
từ nhiều phía. Trước hết là sự phản đối từ phía cánh
hữu, nhất là Đảng Tự do (Liberal Party)[7] – chính đảng quan
trọng nhất ở Na Uy lúc đó. Phản ứng gay gắt hơn nữa đến
từ phía một tổ chức cực hữu có tên là Nasjonal Samling
(National Union, Liên hiệp Quốc dân) đề cao chủ nghĩa dân tộc
và có xu hướng phát-xít. Áp lực bên ngoài đến từ nước
Đức của Hitler và từ phía Liên Xô của Stalin.

Đầu tháng 8 năm 1936, một số thành viên của Nasjonal Samling
đã đột nhập vào nhà riêng của Knudsen – nơi Trotsky đang cư
trú. Không tìm thấy Trotsky (vì lúc đó ông đi câu cá), nhóm
người này đã đánh cắp một số tài liệu. Giữa tháng 8,
tại Liên Xô, Stalin bắt đầu tiến hành chiến dịch Đại Thanh
Trừng (Great Purge) để loại bỏ những phần tử chống đối
trong nội bộ Đảng Cộng sản. Khởi đầu là vụ án Moscow
thứ I. Trong vụ án này, 16 thành viên của cái gọi là "Trung
tâm khủng bố Trotsky-Zinoviev" bị đem ra xét xử. Trong số các
bị cáo có hai nhân vật cao cấp từng là Ủy viên Bộ Chính
trị dưới thời Lenin: Grigory Zinoviev và Lev Kamenev. Tất cả
đều bị kết án tử hình và xử bắn. Trotsky cũng bị kết án
tử hình vắng mặt.

Trước những áp lực đó, ngày 25/8/1935, Bộ trưởng Tư pháp
của Na Uy là Trygve Lie[8] đã áp dụng biện pháp quản thúc tại
gia để ngăn tất cả các hoạt động chính trị của Trotsky.
Sau khi Tổng thống Lázaro Cárdenas của Mexixo chấp nhận cho Leon
Trotsky được hưởng quyền tị nạn, qua sự dàn xếp giữa hai
chính phủ, vào cuối tháng 12/1936 một chiếc tàu chở dầu đã
bí mật đưa hai vợ chồng nhà lãnh tụ cách mạng này rời Na
Uy qua Mexico.

Cách giải quyết vấn đề "quyền tị nạn của Trotsky" cho
thấy DNA không đứng về phía Stalin nhưng cũng không bênh vực
Trotsky để tránh đối đầu với Liên Xô, và cả với nước
Đức phát-xít. Từ vị trí của một đảng đối lập nay trở
thành một đảng cầm quyền, họ phải xử lý vấn đề dựa
trên quyền lợi của một quốc gia chứ không phải dựa trên
quyền lợi của một đảng phái. Như vậy, trong thực tế, DNA
đã không còn là một đảng cách mạng, và cũng không còn quan
tâm đến lập trường "quốc tế vô sản".

<h2>Đảng Lao động Na Uy đồng hành cùng với dân tộc</h2>

Những thành công trong việc giảm bớt nạn thất nghiệp cũng
như trong các chính sách xã hội và giáo dục đã đem lại kết
quả tốt trong cuộc tổng tuyển cử năm 1936: Đảng Lao động
đạt được 70 trong tổng số 150 ghế tại Nghị viện. Nhưng
chính phủ của Johan Nygaardsvold chỉ hoạt động được cho
đến năm 1940. Ngày 9/4/1940, quân phát-xít Đức tấn công Na Uy.
Sau một cuộc kháng cự kéo dài hai tháng, Chính phủ phải cùng
với Hoàng gia Na Uy lưu vong sang nước Anh. Tại nội địa, Vidkun
Quisling - lãnh tụ của đảng phát-xít Nasjonal Samling, tuyên bố
thành lập một chính quyền quốc gia vào ngày 9/4. Nhưng chính
quyền này vấp phải sự phản đối của người dân mạnh
đến mức quân Đức phải dẹp bỏ nó vào ngày 15/4. Thay vào
đó là một Hội đồng Hành chính bao gồm một số công chức
cao cấp được thành lập để quản lý các vùng bị chiếm
đóng – nhất là vùng xung quanh thủ đô. Hội đồng này
được Tòa án Tối cao Na Uy – cơ quan có thẩm quyền duy nhất
còn lại trong nước bổ nhiệm. Nhưng quyền hành thực tế lại
nằm trong tay của Josef Terboven – Ủy viên của Đế chế Đức
(German commissioner, Reichskommissar) tại Na Uy. Đến tháng 9 năm
1940, Hội đồng Hành chính bị giải tán và thay thế bằng một
chính quyền bù nhìn do quân Đức bổ nhiệm dưới sự lãnh
đạo của Quisling. Một số ủy viên của Hội đồng bí mật
tham gia vào các hoạt động kháng chiến.

<div class="boxleft200"><img
src="http://danluan.org/files/u1/jens-stoltenberg-innviterer-til-radslag.jpg"
width="320" height="200" alt="jens-stoltenberg-innviterer-til-radslag.jpg"
/><div class="textholder">Thủ tướng Nauy Jen Stoltenberg</div></div>

Do vị trí chiến lược quan trọng của Na Uy, Hitler đã bố trí
một lực lượng rất lớn tại đây. Vào thời điểm quân
Đức đầu hàng (1945), có không dưới 400 ngàn quân Đức đóng
tại Na Uy. Đó là một lực lượng khổng lồ so với dân số Na
Uy vào lúc đó chỉ có khoảng 4 triệu người.

Khi cuộc Chiến tranh Thế giới lần II kết thúc, vai trò lãnh
đạo DNA được chuyển giao cho <em><strong>Einar
Gerhardsen</strong></em> (1897 - 1987).

Xuất thân từ một gia đình công nhân, vào năm 18 tuổi
Gerhardsen trở thành một công nhân sửa chữa đường phố ở
Kristiania (Oslo), và đến năm 1920 được bầu làm Chủ tịch
Công đoàn của ngành này tại thủ đô. Ông cũng sớm tham gia
vào Đoàn Thanh niên của Đảng Lao động. Là một người tích
cực ủng hộ Martin Tranmæl, qua hoạt động công đoàn, đến
giữa thập niên 1920 Gerhardsen trở thành thành viên của Ủy ban
Trung ương của DNA và là Bí thư đảng bộ Oslo.

Trong thập niên 1920, Gerhardsen vẫn chưa dứt khoát giữa hai lập
trường "cách mạng hay cải cách", thậm chí đã có lúc
nghiêng về xu hướng đấu tranh bạo động. Ông đã vài lần
bị tù vì các hoạt động phá rối trị an. Mãi đến Đại
hội Đảng năm 1933, Gerhardsen mới chuyển sang phía cải cách.
Mặc dù vậy, trong thời gian đầu, ông vẫn còn xem đấu tranh
nghị trường chỉ là phương tiện hoạt động chứ chưa thật
sự là mục tiêu chủ yếu.

Từ 1936 đến 1939 Gerhardsen là Bí thư toàn quốc kiêm Phó Chủ
tịch của Đảng bộ Oslo. Năm 1939 ông được bầu làm Phó Chủ
tịch của DNA. Là Phó Thị trưởng của Oslo từ năm 1938, đến
tháng 4 năm 1940, ông nắm quyền Thị trưởng Oslo chỉ vài giờ
trước khi quân Đức tấn công Na Uy. Sau khi Quân Đức chiếm Na
Uy, Gerhardsen trốn khỏi thành phố và tị nạn ở Thụy Điển.
Nhưng đến tháng 6 năm 1940, ông quyết định rời bỏ nơi ẩn
náu an toàn ở Thụy Điển để trở về nước hoạt động
trong vùng bị chiếm đóng.

Vì Chủ tịch Đảng lúc đó là Oscar Torp đã qua London, Gerhardsen
được chỉ định làm quyền Chủ tịch DNA. Ngày 11/9/1941, ông
bị quân Đức bắt, lúc đầu chuyển đến trại tập trung Grini
ở phía tây của Oslo. Mùa xuân năm 1942, ông bị chuyển sang
trại tập trung Sachsenhausen ở Đức, tại đây ông đóng vai trò
một nhà lãnh đạo của các tù nhân người Na Uy. Phía quân
Đức đã thông qua một bản án tử hình bí mật nhằm thủ
tiêu ông, nhưng nhờ sự giúp đỡ của một sĩ quan cảnh sát
mật của Đức có liên hệ với Phong trào Kháng chiến Na Uy,
Gerhardsen đã được đưa trở lại Grini vào mùa thu năm 1944,
tại đây ông lãnh đạo các hoạt động chuẩn bị cho giai
đoạn hậu chiến. Một giả thuyết khác về lý do ông không
bị thủ tiêu là: quân Đức muốn giữ ông lại như một tù
binh cao cấp để khi cần, sử dụng ông như một con bài để
đàm phán[9].

Sau khi quân Đức đầu hàng (đầu tháng 5 năm 1945), Gerhardsen
trở lại với vai trò Thị trưởng của Oslo và quyền Chủ
tịch của Đảng Lao động. Khi Chánh án Tòa án Tối cao Paal Berg
từ chối vai trò điều hành chính phủ tạm quyền, Gerhardsen
được Vua Haakon VII giao trách nhiệm đó. Chính phủ đầu tiên
của Gerhardsen - được bổ nhiệm vào ngày 25/6/1945, là một
chính phủ liên minh giữa Đảng Lao động và Phong trào Kháng
chiến, với thành phần đại diện cho tất cả các đảng phái.

Trong cuộc bầu cử đầu tiên sau chiến tranh, Đảng Lao động
giành thắng lợi lớn với 41% số phiếu và chiếm 76 ghế trên
tống số 150 ghế tại Nghị viện. Einar Gerhardsen chính thức
đứng ra thành lập Chính phủ thứ hai (5/11/1945 – 19/11/1951).
Cuối năm 1951, Gerhardsen nhường chức Thủ tướng cho Oscar Torp
– Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ của ông, chuyển sang
vai trò lãnh đạo nhóm Nghị sĩ của DNA tại Nghị viện và sau
đó được bầu làm Chủ tịch Nghị viện. Đầu năm 1955, khi
Oscar Torp rút lui khỏi chức Thủ tướng vì sự chống đối
trong nội bộ Đảng đối với chính sách ngoại giao và an ninh
của ban lãnh đạo DNA, Gerhardsen trở lại với chức vụ Thủ
tướng. Mặc dù đã điều chỉnh đường lối ngoại giao và an
ninh, Gerhardsen vẫn không ngăn cản được sự phân hóa trong
Đảng. Năm 1961, một bộ phận đảng viên không bằng lòng với
chính sách đối ngoại "thân - NATO, thân Cộng đồng Kinh tế
Châu Âu" của DNA, đã tách ra thành lập Đảng Xã hội chủ
nghĩa Nhân dân (Socialist Peoples' Party, Sosialistisk Folkeparti,
SF)[10] khiến cho Đảng Lao động không còn giữ được đa số
tại Nghị viện. Chính phủ thứ ba của Gerhardsen (1955-1963) trở
thành chính phủ thiểu số và đến 28/8/1963, phải từ chức vì
một tai nạn nghiêm trọng xảy ra tại mỏ Kings Bay ở
Ny-Ålesund. Nhưng Chính phủ liên minh của phái hữu do John Lyng
thành lập chỉ tồn tại được trong thời gian ngắn ngủi (1
tháng), sau đó Gerhardsen lại trở lại thành lập một Chính
phủ thứ tư vào ngày 25/9/1963. Cuộc tổng tuyển cử hai năm sau
đó đã dẫn đến kết quả một liên minh trung hữu
(center-right) gồm 4 đảng giành được đa số ghế tại Nghị
viện, Per Boten (Đảng Trung tâm) trở thành Thủ tướng. Ngày
12/10/1965, Gerhardsen từ chức Thủ tướng và cũng rời bỏ chức
Chủ tịch Đảng Lao động, vào lúc ông được 68 tuổi. Ông
trở lại với vai trò Nghị sĩ cho đến năm 1969 mới rút lui
khỏi hoạt động chính trị. Trong những năm cuối đời, ông
viết hồi ký và thường xuyên đi diễn thuyết. Ông mất năm
1987, thọ 90 tuổi.

Gerhardsen giữ gìn một nếp sống giản dị của một công nhân
và duy trì những tiếp xúc thường xuyên với những người lao
động cho đến cuối đời. Với 17 năm làm Thủ tướng và 20
năm làm Chủ tịch đảng, Einar Gerhardsen là người giữ chức
vụ Thủ tướng lâu năm nhất trong lịch sử của Na Uy kể từ
khi thiết lập chế độ Nghị viện. Được coi như một trong
những kiến trúc sư của công cuộc tái thiết Na Uy sau Chiến
tranh Thế giới II, ông thường được ví như "Landsfaderen"
(Cha già dân tộc, Father of Nation).

Giai đoạn 1945 - 1965 thường được coi là "thời hoàng kim"
của Đảng Lao động Na Uy. Cũng chính trong giai đoạn này, một
sự kiện quan trọng đã diễn ra: đó là việc Na Uy chuyển
hướng về chiến lược ngoại giao và an ninh quốc phòng.

Kể từ khi giành lại được độc lập (1905) cho đến hết
cuộc Chiến tranh Thế giới lần I, Na Uy là một nước trung
lập. Năm 1939, khi nổ ra cuộc Chiến tranh Thế giới lần II, Na
Uy cũng tuyên bố trung lập, nhưng không giữ vững được chủ
quyền khi bị quân phát-xít Đức xâm lược vào tháng 4 năm
1940. Sau Chiến tranh Thế giới II, cuộc đối đầu quốc tế
giữa một bên là khối cộng sản do Liên Xô lãnh đạo và bên
kia là khối phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo đã buộc Na Uy
phải chọn lựa thế đứng về ngoại giao và an ninh quốc
phòng. Chính phủ Gerhardsen đã nhận sự giúp đỡ về quân sự
của Hoa Kỳ thông qua Kế hoạch Marshall vào năm 1947 và đến
năm 1949, Na Uy chính thức trở thành thành viên của NATO. Quyết
định quan trọng này đã được sự ủng hộ của Martin
Tranmæl.

Như vậy là chỉ trong vòng 30 năm, từ chỗ là một đảng cộng
sản chủ trương đồng minh với Liên Xô, Đảng Lao động đã
lãnh đạo đất nước Na Uy gia nhập vào khối NATO, trở thành
"đồng minh" với Hoa Kỳ.

Tổng kết lại, trong 30 năm (1935 - 1965), chỉ trừ giai đoạn
của Chính phủ lưu vong trong Chiến tranh Thế giới II (1940 -
1945) và một tháng vào năm 1963, Đảng Lao động liên tục đóng
vai trò của một đảng cầm quyền. Sau năm 1965, DNA không còn
giữ được địa vị độc tôn như trước mà phải luân phiên
cầm quyền cùng với các đảng cánh hữu khác. Các giai đoạn
mà Đảng Lao động đóng vai trò lãnh đạo chính phủ là 1971 -
1972, 1973 - 1981, 1986 - 1989, 1990 - 1997, 2000 - 2001 và từ 2005 đến
nay. Như vậy, nếu tính từ 1971 đến 2010, đảng này đã nắm
quyền 25/39 năm. Uy tín của đảng phần lớn nhờ vào nỗ lực
xây dựng "Nhà nước phúc lợi" (welfare state) ở Na Uy.

Bước sang thế kỷ XXI, do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu
hóa, tự do hóa kinh tế, cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực chính
trị ngày càng trở nên gay go hơn trước. Nhưng trong khi Đảng
Dân chủ - Xã hội Thụy Điển (SAP) thất bại trong các cuộc
bầu cử năm 2006, thì tại Na Uy, Đảng Lao động lại giành
thắng lợi liên tiếp trong hai kỳ tổng tuyển cử 2005 và 2009.
Thành tích này có liên quan đến vị Thủ tướng Na Uy hiện nay:
<em><strong>Jens Stoltenberg</strong></em>.

Đọc tiểu sử của ông, chúng ta được biết Jens Stoltenberg có
một người chị lớn hơn ông một tuổi tên là Camilla; cô này
ngay từ năm 13 tuổi đã tham gia vào một nhóm thanh thiếu niên
chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mao có tên là Tuổi trẻ Đỏ
(Red Youth)[11]. Do ảnh hưởng của người chị này, Jens đã tích
cực tham gia vào phong trào phản chiến chống lại cuộc Chiến
tranh Việt Nam. Đầu thập niên 1970, sau một đợt ném bom của
không quân Mỹ vào thành phố cảng Hải Phòng, Jens đã tham gia
biểu tình trước Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại thủ đô Oslo. Cậu
bé đã ném đá làm vỡ một số cửa sổ nhưng may mắn thoát
được, trong khi một vài người bạn bị cảnh sát bắt giam.

Thế nhưng, tiểu sử của Jens Stoltenberg không chỉ dừng lại
ở đó. Ông sinh ngày 16/3/1959, xuất thân từ một gia đình có
truyền thống làm chính trị. Cha ông - Thorvald Stoltenberg, là
một trong những nhà chính trị nổi tiếng ở Na Uy, đã từng
hai lần làm Bộ trưởng Ngoại giao, mẹ ông - Karin Stoltenberg,
đã từng giữ chức Thứ trưởng. Cả hai người đều là
những đảng viên kỳ cựu của DNA.

Tốt nghiệp về kinh tế học tại Đại học Oslo, Jens Stoltenberg
tham gia vào các hoạt động của DNA từ rất sớm. Từ 1979
đến 1981, ông là nhà báo không chuyên của tờ Arbeiderbladet
(tờ báo của đảng DNA); từ 1985 đến 1989 là thủ lãnh của
Liên đoàn Thanh niên Lao động (Labour Youth League, Arbeidernes
Ungdomsfylking, viết tắt là AUF) và từ giữa 1990 đến 1992, là
Chủ tịch đảng bộ Oslo.

Năm 1993 (34 tuổi), Stoltenberg đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng
Thương mại và Năng lượng trong Nội các của nữ Thủ tướng
Gro Harlem Brundtland. Ba năm sau, ông nhận chức vụ Bộ trưởng
Tài chính trong Chính phủ của Thorbjørn Jagland. Vào ngày
29/9/1997, Jagland từ chức vì ông đã tuyên bố trước cuộc
tổng tuyển cử rằng nếu Đảng DNA không đạt được 36,9%
số phiếu của cử tri, nội các của ông sẽ từ chức. Trong
kỳ bầu cử đó, Đảng Lao động chỉ đạt được 35% số
phiếu, vì vậy Jagland phải giữ lời hứa; quyền lực được
chuyển cho một liên minh cánh hữu dưới sự lãnh đạo của
Kjell Magne Bondevik (Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo)[12].

Tháng 3 năm 2000, chính phủ của Bondevik phải từ chức sau một
cuộc biểu quyết tín nhiệm (không đạt đủ số phiếu để
thực hiện dự án xây dựng nhà máy khí đốt đầu tiên của
Na Uy). Stoltenberg đảm nhiệm việc thành lập Chính phủ và trở
thành Thủ tướng vào năm 41 tuổi – Thủ tướng trẻ tuổi
nhất trong lịch sử của Na Uy. Lúc này, Stoltenberg là Phó Chủ
tịch Đảng, trong khi Chủ tịch Đảng vẫn là Thorbjørn Jagland.
Chính phủ của DNA chỉ tồn tại được chưa đầy 1 năm
(17/3/2000 – 19/10/2001) vì trong cuộc tổng tuyển cử năm 2001,
đảng chỉ đạt 24,3% số phiếu bầu (thấp nhất kể từ năm
1927). Nguyên nhân thất bại là do cử tri bất bình trước việc
thiếu các trường mẫu giáo, các nhà dưỡng lão cũng như sự
sa sút về tiêu chuẩn chất lượng của hệ thống giáo dục
công lập.

Mặc dù vẫn còn là đảng lớn nhất tại Nghị viện, DNA phải
nhường địa vị lãnh đạo cho một liên minh của cánh hữu.
Năm 2002, Jagland rút lui, nhường vai trò lãnh đạo Đảng cho
Stoltenberg. Trong cuộc bầu cử năm 2005, DNA đã giành thắng
lợi, đạt được 32% số phiếu bầu. Nhưng để có thể thành
lập được chính phủ, DNA phải liên minh với hai đảng nhỏ
khác là Đảng Xã hội chủ nghĩa Cánh tả (Socialist Left Party,
Sosialistisk Venstreparti - viết tắt là SV) và Đảng Trung tâm
(Centre Party, Senterpartiet, viết tắt là Sp). Đó là chính phủ
liên minh đầu tiên trong lịch sử của Đảng Lao động. Để
có thể thành lập liên minh, ba đảng đã thương thảo một
giải pháp chung, thể hiện trong bản Tuyên bố Soria Moria thứ
nhất (First Declaration of Soria Moria).

Liên minh này được gọi là Liên minh "Đỏ-Xanh" (Red-Green
Coalition) bởi vì Đảng Xã hội chủ nghĩa Cánh tả (SV) có lập
trường cấp tiến nhất (xã hội chủ nghĩa), tượng trưng
bằng màu đỏ. Đảng Trung Tâm (Centre Party) đóng vai trò của
các Đảng Xanh (Green Party) ở các nước khác, vì vậy được
tượng trưng bằng màu xanh lá. DNA là đảng cánh tả lớn
nhất, có lập trường trung - tả (center-left). Jens Stoltenberg
(lúc này đã 46 tuổi) trở thành Thủ tướng lần thứ hai vào
ngày 17/10/2005. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2009, Liên minh
Đỏ - Xanh vẫn tiếp tục giữ được đa số trong Nghị viện,
vì vậy Jens Stoltenberg tiếp tục giữ chức Thủ tướng. Ba
đảng trong liên minh đã công bố một bản Tuyên bố Soria Maria
thứ hai (Second Declaration of Soria Moria) – cương lĩnh chính trị
của giai đoạn 2009 - 2013.

<center>* * *</center>

Kinh nghiệm của Đảng Lao động Na Uy cho thấy không phải bất
cứ quá trình "tự diễn biến hòa bình" nào cũng là hiện
tượng xấu, đáng lên án. Nếu "tự diễn biến hòa bình"
để rũ bỏ một hệ tư tưởng lạc hậu, lỗi thời, đi
ngược lại với xu thế phát triển của nhân loại thì quá
trình chuyển hóa đó là một quá trình lột xác mang tính chất
tiến bộ. Một đảng chính trị nhạy bén, quả cảm phải
biết sớm phát hiện hướng phát triển đúng đắn để kịp
thời điều chỉnh đường lối và phương thức tổ chức cho
phù hợp, tránh bị tụt hậu hay đào thải.

Như vậy là ngay từ năm 1923, những người cộng sản Na Uy do
sự thôi thúc của lòng yêu nước, của ý thức độc lập, tự
cường, đã mạnh dạn từ bỏ Quốc tế Cộng sản để trở
về với dân tộc. Họ đã mất một thời gian để nhìn lại
chính mình và sau đó thừa nhận sự sai lầm về hệ tư
tưởng, kiên quyết từ bỏ con đường cách mạng để trở
thành một đảng cải cách. Việc từ bỏ quan niệm chuyên chính
vô sản, kiên quyết chọn con đường dân chủ tự do của
Đảng Lao động Na Uy đã không dẫn đảng này đến chỗ "tự
sát", mà ngược lại, đã mở ra một tương lai đầy triển
vọng.

Chính việc chấp nhận các giá trị dân chủ, tự do đã đưa
đến những thay đổi lớn về đường lối, chính sách kinh
tế. Từ chỗ coi việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng
"chủ nghĩa xã hội" là mục tiêu, kể từ thập niên 1930
Đảng Lao động Na Uy đã từ bỏ ý tưởng quốc hữu hóa bằng
bất cứ giá nào để đưa ra lời cam kết "công ăn việc làm
cho mọi người" và dồn mọi nỗ lực vào việc xây dựng
một "Nhà nước phúc lợi" được tài trợ bằng thuế và
nghĩa vụ. Mặt khác, nếu như dưới thời Einar Gerhardsen, DNA
đã đưa Na Uy từ cơ chế thị trường sang một nền kinh tế
có điều chỉnh, kiểm soát thì bước sang thập niên 1980,
dưới thời của Nữ Thủ tướng Gro Harlem Brundtland, đảng đã
bổ sung các nguyên tắc của kinh tế thị trường: cho phép tư
hữu hóa các tài sản và dịch vụ của Nhà nước, giảm bớt
thuế thu nhập lũy tiến… Chính sự uyển chuyển, linh hoạt
trong đường lối, chính sách đã tạo nên sức mạnh của DNA,
hoàn toàn khác với cách tư duy bảo thủ, giáo điều của các
đảng cộng sản trên thế giới.

Ngày nay, đất nước Na Uy nhỏ bé với 4,9 triệu dân đã và
đang tiếp tục giành được những thành tích đáng kinh ngạc.
Với GDP tính trên đầu người trong năm 2010 ước tính 52.964
USD[13], Na Uy có thể được coi là quốc gia giàu thứ nhì trên
thế giới, chỉ xếp sau Luxembourg. Nhưng sự phân phối thu nhập
trong các tầng lớp dân cư cũng thể hiện rõ rệt tính bình
đẳng. Theo đánh giá của UNDP, trong thập niên 2000 - 2010 chỉ
số Gini (Gini Index) của Na Uy là 25,8 - thuộc loại thấp, được
xếp thứ 4 trên thế giới, chỉ sau Đan Mạch, Nhật Bản và
Thụy Điển (đồng hạng với Cộng hòa Tiệp)[14]. Mặt khác,
chỉ số HDI (Human Development Index, chỉ số phát triển con
người) của Na Uy năm 2010 đạt 0,938 điểm - xếp hạng 1 toàn
thế giới. Đây không phải là kết quả ngẫu nhiên, bởi vì Na
Uy đã từng được xếp thứ nhất về chỉ số HDI trong 6 năm
liền (2001 - 2006) và trong hai năm gần đây (2009; 2010), lại trở
về với vị trí dẫn đầu thế giới.

Về Chỉ số dân chủ (Democracy Index), năm 2010 tờ báo Economist
xếp Na Uy đứng thứ 1 trong số 167 nước, với 9,80 điểm.
Trước đó, vào năm 2007, tổ chức Phóng viên Không biên giới
(Reporters Without Borders) đã đánh giá Chỉ số Tự do báo chí
Toàn cầu (Worldwide Press Freedom Index) của 169 quốc gia trên thế
giới và xếp Na Uy (cùng với Iceland) vào hàng số một trên
thế giới. Tại Na Uy, án tử hình đã bị bãi bỏ vào năm 1902,
và án tử hình dành cho tội phản bội trong chiến tranh và các
tội ác chiến tranh cũng bị bãi bỏ vào năm 1979. Hiện nay, Na
Uy là quốc gia có tỷ lệ thấp nhất trên thế giới về tội
giết người.

Điều mà Đảng Lao động Na Uy có thể tự hào là trong những
thành tích tốt đẹp mà đất nước Na Uy đạt được, bao giờ
cũng có sự góp phần lớn lao của họ. Đáng lưu ý hơn nữa
là: DNA thành công không phải bằng phương thức "giành và
giữ chính quyền" với bất cứ giá nào mà bằng con đường
cạnh tranh lành mạnh, tìm kiếm các lá phiếu của cử tri trong
một hệ thống chính trị nổi tiếng là trong sạch và công
bằng nhất trên thế giới.

Có thể nói: từ một đảng cộng sản tự chuyển hóa thành
một đảng dân chủ - xã hội, Đảng Lao động Na Uy đã chứng
tỏ một bản lĩnh đáng khâm phục. Họ đã sớm rút ra được
một chân lý: sức mạnh của một đảng chính trị không thể
là sức mạnh vay mượn từ bên ngoài, mà phải bắt nguồn từ
sức mạnh của toàn dân. Chỉ bằng cách đồng hành cùng dân
tộc, chia sẻ quyền lực với nhân dân trong một chế độ
chính trị dân chủ, một đảng chính trị mới có thể làm nên
những kỳ tích.

"Tự diễn biến hòa bình" để trở thành một đảng tôn
trọng tự do, dân chủ không phải là chọn con đường tự sát.
Chỉ khi nào một đảng chính trị đứng trên Hiến pháp và
pháp luật, coi Nhà nước chỉ là phương tiện bảo vệ quyền
lợi của đảng mình, kiên trì độc chiếm quyền hành, đứng
trên dân tộc, coi thường nhân dân; đó mới thật sự là con
đường tự sát.

Đà Lạt, 9/1/2011

M.T.L

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

HO biên tập.
___________________________________________

<h2>Nguồn tham khảo:</h2>

- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia bản tiếng Anh;

- Bách khoa toàn thư Britannica 2010, bản điện tử (Encyclopaedia
Britannica Ultimate Reference Suite, Chicago, 2010);

- Website của Chính phủ Na Uy: http://www.regjeringen.no (phần tiếng
Anh),

- Egge, Åsmund, "The Communist Movement in Norway, 1917 – 1970",
Conference Paper, "People of a Special Mould?", International Conference
on Comparative Communist Biography and Prosopography, University of
Manchester, 6th to 8th of April 2001,

- "Leon Trotsky in Norway":
http://www.marxists.org/archive/trotsky/1936/12/nor.htm

- Nils Dahl, "With Trotsky in Norway", Revolutionary History, Vol.2,
No.2, Summer 1989:

http://www.marxists.org/history/etol/document/norway/nor01.htm

- "Bio - Martin Tranmæl", Nobelprize.org 17 Dec 2010:
http://nobelprize.org/nobel_prizes/peace/articles/committee/nnclist/bios/tranmael.html

- "The Norwegian Labour Party - a brief presentation":

http://arbeiderpartiet.no/Kontakt/Information-in-English

- UNDP, Human Development Report 2010, 20th Anniversary Edition:

http://hdr.undp.org/en/media/HDR_2010_EN_Complete_reprint.pdf

<h2>Các chú thích trong bài:</h2>

[1] Quy chế này vẫn được duy trì mãi đến 1997; kể từ đó,
DNA chỉ còn có thành viên cá nhân.

[2] Từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, phong trào công
nhân ở châu Âu chia thành hai phái. Phái cải cách chủ trương
đấu tranh ôn hòa để cải thiện từng bước xã hội cũ trong
khi phái cách mạng chủ trương dùng bạo lực cách mạng để
lật đổ chủ nghĩa tư bản, thiết lập chuyên chính vô sản.

[3] Chủ nghĩa công đoàn: còn gọi là chủ nghĩa công đoàn vô
chính phủ (Anarcho-syndicalism) hay chủ nghĩa công đoàn cách mạng
(Revolutionary Syndicalism, syndicalisme révolutionnaire). Chủ nghĩa
công đoàn nở rộ ở Pháp trong khoảng thời gian 1900 đến 1914
và sau đó lan sang một số nước khác ở châu Âu và châu Mỹ
la-tinh, coi đình công và nhất là tổng đình công là vũ khí
quan trọng nhất để đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.

[4] Còn được gọi là Quốc tế III - do Lenin thành lập. Tổ
chức này được gọi là Quốc tế cộng sản nhằm phân biệt
với Quốc tế II (còn được gọi là Quốc tế xã hội chủ
nghĩa).

[5] Leon Trotsky, "Their Morals and Ours", The New International, Vol.
IV, No. 6, June 1936; Socialist Viewpoint, vol.2, No. 1, January 2002:

http://socialistviewpoint.org/jan_02/jan_02_17.html

[6] Còn gọi là Farmers' Party (Đảng Nông dân), ngày nay là
Đảng Trung tâm (Centre Party).

[7] Tên trong tiếng Na Uy là Venstre (phía tả), viết tắt là V.
Đảng này thành lập vào năm 1884. Vào cuối thế kỷ XIX, tả
không có nghĩa là xã hội chủ nghĩa, mà có nghĩa là ủng hộ
chế độ đại nghị. Đối lập với đảng này vào thời đó
là Đảng Bảo thủ (Conservative Party) - tên trong tiếng Na Uy là
Høyre (phía hữu), chủ trương chống chế độ đại nghị.

[8] Về sau trở thành Tổng thư ký đầu tiên của Liên Hiệp
Quốc (1946-1952).

[9] Biography for Einar Gerhardsen, The Internet Movie Database:

http://www.imdb.com/name/nm0314288/bio

[10] Đảng Xã hội chủ nghĩa Nhân dân chính là tiền thân của
Đảng Xã hội chủ nghĩa Cánh tả (SV) – một trong ba đảng
của liên minh cầm quyền hiện nay.

[11] Camilla Stoltenberg hiện nay là một Bác sĩ, một nhà nghiên
cứu trong lĩnh vực y học.

[12] Liên minh cánh hữu này gồm 3 đảng: Dân chủ Thiên chúa
giáo (Christian Democratic Party) , Đảng Trung tâm (Centre Party) và
Đảng Tự do (Liberal Party).

[13] Đây là con số của GDP(PPP), tức là GDP (tổng sản lượng
quốc nội) tính theo sức mua (purchasing power parity).

[14] Chỉ số Gini dùng để biểu thị độ bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập. Chỉ số này càng thấp (gần 0) thì kinh
tế càng bình đẳng giữa người giàu và người nghèo; còn
ngược lại, chỉ số này càng cao (gần 100) thì xã hội càng
thiếu công bằng.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7521), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét