Ian Bremmer - Dân chủ trên không gian mạng (2)

<h2>Phía nhà nước</h2>

Công dân không phải là những người duy nhất tích cực hoạt
động trong không gian xi-be. Nhà nước cũng sử dụng Internet,
để đưa ra quan điểm của mình và hạn chế những gì mà một
người sử dụng Internet trung bình có thể được thấy và
được làm. Những phát kiến trong công nghệ truyền thông cung
cấp cho người dân các nguồn thông tin mới mẻ và các cơ hội
mới mẻ để chia sẻ ý kiến, nhưng chúng cũng tăng sức cho
các chính phủ muốn lèo lái công luận và theo dõi những điều
người dân đang phát biểu.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Xô-viết cách đây một
thế hệ đã dạy cho các lãnh tụ độc tài khắp thế giới
rằng họ không thể ra lệnh (mandate) phát triển kinh tế liên
tục và rằng họ phải chấp nhận chủ nghĩa tư bản nếu họ
còn nuôi hi vọng tạo công ăn việc làm và nâng mức sống
người dân nhằm đảm bảo sinh mệnh chính trị lâu dài của
chính họ. Nhưng ôm lấy chủ nghĩa tư bản cũng có nghĩa là cho
phép nhiều tự do nguy hiểm. Và vì thế, để phát triển kinh
tế mạnh mẽ đồng thời vẫn tiếp tục nắm quyền kiểm soát
chính trị, một số lãnh đạo độc tài đã quay qua chủ nghĩa
tư bản nhà nước (state capitalism), một hệ thống giúp họ
khống chế sinh hoạt thị trường bằng cách sử dụng các công
ty dầu khí quốc gia, các xí nghiệp quốc doanh khác, các công ty
lớn do tư nhân làm chủ nhưng trung thành với nhà nước
(national champions), các ngân hàng quốc doanh, và các quĩ đầu tư
quốc gia (sovereign wealth funds).

Theo cùng một lô-gíc, những chính phủ độc tài hiện nay đang
cố gắng nắm chắc rằng luồng ý kiến và tư duy ngày càng
tự do xuyên qua không gian xi-be sẽ nuôi dưỡng nền kinh tế
nhưng không đe dọa quyền lực chính trị của họ. Vào tháng
Sáu, lần đầu tiên chính phủ Trung Quốc đã ra một tuyên bố
chính thức về quyền và trách nhiệm của người sử dụng
Internet. Văn bản này "đảm bảo quyền tự do ngôn luận của
công dân trên Internet cũng như quyền của dân chúng được
biết, được tham gia, được lắng nghe, và được giám sát
[chính phủ] phù hợp với pháp luật". Nhưng văn bản cũng qui
định rằng "trong phạm vi lãnh thổ Trung Quốc, Internet nằm
dưới quyền tài phán thuộc chủ quyền Trung Quốc". Qui định
này đã hợp thức hóa "bức đại tường thành lửa" của
Trung Quốc, một hệ thống có chức năng gạn lọc dữ liệu,
chuyển đường nối kết đi hướng khác, hay đưa đến ngỏ
cụt, một hệ thống được thiết kế để bắt người sử
dụng Internet tại Trung Quốc phải ở trên con lộ thông tin
trực tuyến được nhà nước chấp thuận.

Lãnh đạo Trung Quốc cũng sử dụng những phương tiện công
nghệ thấp (low-tech) để bảo vệ lợi ích trên mạng của họ.
Người lướt mạng có trình độ trung bình tại Trung Quốc
không thể biết chắc mọi ý kiến hay quan niệm mà họ gặp
trên mạng có thực sự phản ánh quan điểm người viết hay
không. Chính phủ đã tạo ra Đảng 50 Xu (the 50 Cent Party), một
đội ngũ gồm những người bình luận trực tuyến được
chính phủ trả tiền cho mỗi bài viết trên blog hay mỗi thông
điệp được đăng trên diễn đàn Internet có nội dung cổ vũ
đường lối của Đảng Cộng sản Trung Quốc về một số đề
tài nhạy cảm. Đây là một cách đơn giản, rẻ tiền để các
chính phủ phổ biến và nguỵ trang quan điểm chính thống. Các
nhà nước độc tài không dùng công nghệ chỉ để chặn đứng
dòng luân lưu tự do của những tư tưởng trái chiều. Họ còn
sử dụng công nghệ để phổ biến lập trường của mình.

<h2>Phong trào phi liên kết</h2>

Những người có tinh thần lạc quan công nghệ (techno-optimists),
những người hi vọng rằng các phương tiện truyền thông hiện
đại sẽ dân chủ hóa các quốc gia độc tài, cũng đang hi
vọng rằng các phương tiện này sẽ tạo điều kiện liên kết
lợi ích của các quốc gia phi dân chủ với lợi ích của các
quốc gia dân chủ. Nhưng sự thật đã diễn ra ngược lại.
Những nỗ lực của các nhà nước độc tài nhằm kiểm soát
hoặc thủ đắc các phương tiện này tất yếu tạo ra các xung
đột thương mại rồi dẫn đến các xung đột chính trị giữa
các chính phủ.

Vào tháng Giêng, Google công khai phàn nàn các tài khoản Gmail
(Gmail accounts) cá nhân đã bị xâm phạm vì những cuộc tấn
công mạng phát xuất từ Trung Quốc – những cuộc tấn công
mà giới chức Trung Quốc có vẻ đồng tình hay thậm chí chính
họ đã tung ra. Để phản đối hành vi này, Google tuyên bố sẽ
không tiếp tục kiểm duyệt các kết quả tìm kiếm của
người sử dụng tại lục địa Trung Quốc, điều mà trước
đây công ty này đã miễn cưỡng chấp nhận khi bước vào thị
trường Trung Quốc năm 2006. Bắc Kinh không chịu xuống nước,
khiến Google tự động chuyển các tìm kiếm của người sử
dụng tại Trung Quốc sang một máy tìm kiếm không kiểm duyệt
của Google đặt tại Hồng Kông. Nhưng thật nhẹ nhõm cho những
người sử dụng Google tại lục địa, chủ yếu là sinh viên
và các nhà nghiên cứu vốn ưa thích các chức năng của Google
hơn thích đối thủ chính của công ty này tại lục địa, tức
công ty Baidu, giới chức Trung Quốc cuối cùng đã tuyên bố gia
hạn giấy phép hoạt động của Google. (Cũng có thể họ xuống
nước vì họ tin tưởng có thể kiểm soát Google hoặc sử
dụng công ty này để theo dõi các hoạt động trực tuyến của
những nhà bất đồng chính kiến).

Khi các công ty công nghệ Trung Quốc bắt đầu cạnh tranh ngang
hàng với các công ty công nghệ phương Tây đồng thời chính
phủ Trung Quốc sử dụng các phương tiện pháp lý và tài chính
để tích cực hỗ trợ những công ty nội địa, tức những
công ty vốn coi chế độ kiểm duyệt là cái giá bình thường
phải trả khi làm doanh nghiệp, nhu cầu đối với các sản
phẩm của Google sẽ suy giảm tại Trung Quốc. Tháng Tám 2010,
Tân Hoa Xã và công ty China Mobile, công ty điện thoại di động
lớn nhất nước, công bố kế hoạch liên doanh xây dựng một
công ty truyền thông và máy tìm kiếm thông tin do nhà nước sở
hữu. Để đối phó với tình hình này, các công ty công nghệ
Hoa Kỳ dĩ nhiên sẽ hướng về các nhà lập pháp Hoa Kỳ để
tìm sự hỗ trợ trong việc tạo ra và duy trì một sân chơi
thương mại bằng phẳng tại Trung Quốc. Thay vì liên kết các
giá trị chính trị Hoa Kỳ và Trung Quốc lại với nhau và giúp
công dân hai nước xích lại gần nhau hơn, những xung đột về
dòng thông tin luân lưu qua không gian xi-be sẽ làm phức tạp
thêm nữa mối quan hệ Mỹ-Trung vốn đã rất đáng lo ngại.

Những dấu hiệu xung đột đã xuất hiện rõ rệt. Khi Google
lần đầu tiên công bố những khiếu nại về các cuộc tấn
công mạng và chế độ kiểm duyệt, Bắc Kinh không trực tiếp
trả lời công ty này, một công ty mà Bắc Kinh coi như là một
cánh tay công nghệ cao của chính phủ Hoa Kỳ, và đã trả lời
trực tiếp với Washington. Một bản tin của Đảng Cộng sản
Trung Quốc đã đăng một bài bình luận dưới tựa đề "Thế
giới không hoan nghênh công ty Google của Nhà Trắng"; bài báo
tranh luận: "Cứ mỗi lần chính phủ Hoa Kỳ đòi hỏi, Google
lại dễ dàng trở thành một công cụ tiện lợi để cổ vũ ý
chí chính trị và các giá trị của chính phủ Hoa Kỳ ở nước
ngoài". Để đáp lại, bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Hillary
Clinton khuyến khích các công ty như Google không nên cộng tác
với "chế độ kiểm duyệt có động lực chính trị", phát
biều này đã nhấn mạnh hơn nữa sự dị biệt, chứ không
phải là sự hợp lưu, giữa các giá trị chính trị của Hoa
Kỳ và Trung Quốc.

Cũng bày tỏ những lo sợ tương tự về tương lai của việc
kiểm soát chính trị của mình, Tiểu vương quốc Á rập thống
nhất (UAE) và Á rập Xê-út đã có hành động vào đầu năm nay
chống lại công ty Research in Motion (RIM), một công ty của Canada
sản xuất loạt máy BlackBerry, một loại điện thoại thông minh
đa chức năng, vì đã trang bị trong máy của mình công nghệ mã
hóa mà chính quyền không thể giải mã được. Bằng lý luận
cho rằng bọn khủng bố và gián điệp có thể sử dụng máy
BlackBerry để liên lạc nhau trong lãnh thổ UAE mà không sợ bị
phát hiện, các giới chức Tiểu vương quốc công bố vào tháng
Tám rằng họ sẽ chấm dứt dịch vụ của BlackBerry trong một
tương lai gần trừ phi hãng RIM cung cấp cho các giới chức nhà
nước một số phương tiện để theo dõi các văn bản tin nhắn
trên máy BlackBerry. Hai ngày sau đó, Á rập Xê-út cũng công bố
một lệnh cấm tương tự, mặc dù từ đó chính quyền Riyadh
và hãng RIM đã đạt được một tương nhượng đòi hỏi hãng
RIM phải thiết lập một máy chủ chuyển tiếp (relay server)
trên lãnh thổ Xê-út, cho phép giới chức Xê-út theo dõi các tin
nhắn gửi ra ngoài hay gửi đi trong nước. UAE chắc cũng sẽ đi
đến một thỏa hiệp nào đó với hãng RIM: có khoảng nửa
triệu người sử dụng BlackBerry tại UAE (khoảng 10 phần trăm
dân số), và quốc gia này muốn duy trì tư thế một trung tâm
thương mại và du lịch chủ yếu của thế giới Ả rập. Tuy
nhiên, thay vì cổ vũ những giá trị phương Tây ở các nước
độc tài phi-Tây phương (non-Western), điện thoại thông minh
BlackBerry đã châm ngòi thêm một loạt tranh luận về sự kiện
các công ty công nghệ phương Tây quyết tâm bảo vệ thị phần
(market shares) của mình bằng cách đưa ra nhiều nhượng bộ có
thể giúp các chính phủ độc tài theo dõi tư tưởng của
người dân.

Công bằng với những chính phủ trên mà nói, các quốc gia dân
chủ hàng đầu thế giới cũng không kém phần lo ngại về các
tiềm năng đe dọa khủng bố được đặt ra do các văn bản
nhắn tin không kiểm soát. Chính phủ Ấn Độ cũng đe dọa cấm
sử dụng điện thoại thông minh BlackBerry trừ phi hãng RIM cho
phép chính phủ này tiếp cận một số dữ liệu nhất định,
và các viên chức chống khủng bố của Hoa Kỳ và châu Âu cũng
đang cân nhắc lựa chọn biện pháp này. Xuyên qua các nỗ lực
để tu chính Đạo luật về quyền riêng tư cá nhân trong
truyền thông điện tử (the Electronic Communications Privacy Act),
chính quyền Obama đã từng bước có những biện pháp giúp đỡ
Cơ quan điều tra liên bang (FBI) tiếp cận "các hồ sơ dịch
vụ truyền thông điện tử" – như địa chỉ người nhận,
hồ sơ lưu giữ các hoạt động trực tuyến của người sử
dụng, lịch sử các chương trình tìm kiếm trên máy tính – mà
không cần đến lệnh tòa án nếu nhân viên điều tra nghi ngờ
có dấu hiệu khủng bố hay gián điệp. Các chính trị gia và
các công ty công nghệ như Google và RIM sẽ đối diện những
cuộc tranh chấp này trong nhiều năm tới.

Hẳn nhiên, các chính phủ độc tài, khác với các thể chế
dân chủ, còn phải lo ngại rằng các cá nhân không phải là
khủng bố hay tình báo sẽ sử dụng các phương tiện truyền
thông hiện đại để thách thức tính hợp pháp chính trị của
họ. Trung Quốc, Iran, Miến Điện, Bắc Hàn, Á-rập Xê-út, và
các quốc gia độc tài khác không thể chặn đứng sự lan tràn
của các loại vũ khí trong ngành truyền thông hiện đại, nhưng
họ có thể cố gắng theo dõi và lèo lái chúng để phục vụ
cho mục đích của mình. Cuộc phản công của họ cũng sẽ
tiếp tục, bằng cách hạn chế khả năng của các công nghệ
hiện đại trong việc tiếp sức cho phe đối lập chính trị
tại những quốc gia này và bằng cách tạo thêm nhiều mâu
thuẫn về các giá trị chính trị giữa các nước dân chủ và
các nước độc tài.

<h2>Những vòng phản hồi tác dụng ngược lại</h2>

Mặc dù Internet có thể đã thay đổi thế giới, nhưng hiện nay
thế giới đang thay đổi Internet. Trong 30 năm qua, các công nghệ
truyền thông mới mẻ đã thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa,
xu thế mang tính cách thời đại. Những công ty tạo ra các sản
phẩm này đã thực hiện những kế hoạch dài hạn dựa trên
nhu cầu và đòi hỏi của người tiêu thụ, chứ không phải
của các chính phủ. Lợi nhuận của họ đã tăng lên trong khi
họ nối kết hằng tỉ khách hàng lại với nhau; biên giới
quốc gia đã có một thời trở nên ít quan trọng.

Nhưng hiện nay, nhịp độ của những biến đổi công nghệ và
mối đe dọa khủng bố đang buộc các nhà hoạch định chính
sách phải nới rộng các định nghĩa về an ninh quốc gia và
đang xét lại các định nghĩa về "cơ sở hạ tầng trọng
yếu" của họ. Do đó, các chính phủ đang hướng về các
hãng truyền thông công nghệ cao để nhờ chống đỡ những vị
trí nhạy cảm về an ninh đang xuất hiện, và các hãng truyền
thông công nghệ cao đã bắt đầu suy nghĩ ngày càng giống như
các hãng thầu quốc phòng – các công ty mà sự thành công của
chúng tùy thuộc vào tính bí mật, tính độc quyền, quan hệ
chính trị, và hồ sơ an ninh không tì vết.

Do đó, các biên giới chính trị, mà có thời công nghệ thông
tin tưởng chừng có thể xóa bỏ, hiện đang mang một tầm quan
trọng mới: một chính sách cởi mở rộng lớn hơn sẽ tạo
thêm nhiều vận hội hơn, nhưng đồng thời nó cũng tạo thêm
nhiều lo ngại. Dù không thể bắt kịp các chi phí quốc phòng
của Hoa Kỳ, nhưng Trung Quốc và Nga đã trở nên rất tinh khôn
trong chiến tranh thông tin. Tháng Tám vừa qua, Lầu năm góc cho
biết rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển các khả năng
đánh cắp bí mật quân sự của Hoa Kỳ qua phương tiện điện
tử và không cho phép các nước thù địch "tiếp cận các
thông tin cần thiết cho việc điều động các cuộc hành quân
tác chiến". Năm 2007, một cuộc tấn công xi-be rộng lớn
được tung ra từ bên trong nước Nga đã gây thiệt hại cho cơ
hở hạ tầng kỹ thuật số (digital infrastructure) tại nước
láng giềng Estonia. Những cơ sở nhạy cảm về an ninh của Hoa
Kỳ gồm có, từ các nhà máy điện hạt nhân và các mạng
lưới điện lực đến các hệ thống thông tin của các cơ quan
chính phủ và các công ty lớn của Hoa Kỳ. Bất chấp sự cạnh
tranh chính trị và thương mại giữa họ với nhau, Hoa Kỳ, Trung
Quốc, Nga, Ấn Độ và nhiều quốc gia khác đều chia sẻ một
sự sơ hở đối với các cuộc tấn công xi-be, do đó họ cam
kết cộng tác để xây dựng một chiến lược chung nhằm bảo
vệ an ninh mạng lưới Internet. Nhưng trong vấn đề gián điệp,
các quốc gia không bao giờ có thể tin tưởng nhau hoàn toàn. Và
hẳn nhiên, chính quyền Obama không muốn chia sẻ các ngành công
nghệ có thể tạo điều kiện dễ dãi hơn cho các quan chức
công an tại Bắc Kinh hay Moscow theo dõi các hoạt động trực
tuyến của các nhà bất đồng chính kiến.

Nhiều vấn đề khác sẽ làm cho các căng thẳng quốc tế trở
nên tồi tệ hơn. Các hãng công nghệ tại Hoa Kỳ và châu Âu,
từng lưu tâm theo dõi những rắc rối gần đây của Google tại
Trung Quốc, sẽ hướng về chính phủ của họ để nhờ đáp
ứng các nhu cầu an ninh riêng. Khi các đe dọa mạng trở nên
tinh vi hơn bao giờ cả, những công ty này sẽ hợp tác tích
cực hơn nữa với các cơ quan an ninh quốc gia trong việc phát
triển các công nghệ mới. Tình trạng này sẽ lôi kéo thêm
nhiều công ty công nghệ vào quỉ đạo của khu liên hợp quân
sự-công nghiệp (the military-industrial complex). Tiếp đó, sự
kiện này sẽ làm cho các công ty công nghệ trở nên khả nghi
hơn nữa đối với các chế độ độc tài và có thêm nhiều
khả năng trở thành mục tiêu cho tin tặc và gián điệp đủ
loại. Biên giới quốc gia sẽ trở nên quan trọng hơn nhiều
trong một tương lai không xa.

Hậu quả sẽ là, thế giới không phải chỉ có một Internet mà
có một tập hợp gồm nhiều nội mạng nối kết với nhau
(interlinked intranets), được theo dõi kỹ lưỡng bởi nhiều
chính phủ khác nhau. Internet sẽ không biến mất trong một
tương lai gần, nhưng lời tiên đoán cho rằng chỉ cần một
mạng lưới Internet là có thể đáp ứng cả nhu cầu của
phương Tây lẫn những đòi hỏi đang diễn ra của các nhà
nước độc tài là không bao giờ thực tế. Người sử dụng
mạng tại Hoa Kỳ và châu Âu sẽ tiếp cận cùng một Internet
như trước, nhưng chính phủ Trung Quốc đã nói rõ ý định
tuyên bố chủ quyền trên một Internet riêng của mình. Các
quốc gia độc tài khác có đủ mọi động lực khuyến khích
họ đi theo sự lãnh đạo của Trung Quốc.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7173), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét