nam có ba đặc tính này:
<strong>Một:</strong> họ không tu tạo gia sản theo lối bình
thường, cũng không phải cạnh tranh như các giai cấp tư sản
ở các quốc gia khác vì được sự bảo trợ của bộ máy cầm
quyền, do đó họ có thể đặc biệt giầu có dù đặc biệt
ngu dốt.
<strong>Hai:</strong> họ thường xuyên dẫm đạp lên luật pháp
vì hai lẽ:
- Luật pháp nằm trong tay cha chú họ và ở Việt Nam, bất cứ
điều luật nào dù ghi trên giấy trắng mực đen cũng có thể
bị bẻ queo vì các "lệnh mồm".
- Đặc tính "Phép vua thua lệ làng" được truyền thụ một
cách vô ngôn, vì thế bất cứ kẻ nào có quyền hành cũng áp
đặt quyền lực bản thân lên trên các điều luật. Minh chứng
gần đây nhất là hành vi của giám đốc tập đoàn Vinashin.
Đặc tính này phổ biến trên toàn cõi Việt Nam, có thể gọi
nôm na đó là đặc tính của bọn Chánh tổng.
<strong>Ba:</strong> vì hình thành và phát triển dưới bóng quyền
lực độc tài, họ thường xuyên có mối quan hệ với bộ máy
đàn áp. Bộ máy đàn áp, tới lượt nó, không thể tránh khỏi
mối liên kết với thế giới tội phạm, công cụ đặc biệt
hữu hiệu trong các lò sản xuất kim tiền tại các nước kém
văn minh. Do đó, giai cấp tư sản đỏ chắc chắn mang tính
chất mafia. Chỉ cần nhớ lại vụ án Năm Cam xảy ra năm 2001,
với vai trò thứ trưởng bộ nội vụ, tổng cục trưởng tổng
cục I, tức Tổng cục chống gián điệp, Bùi Quốc Huy, tên
tục là Năm Huy, ta sẽ rõ tính mafia của chính quyền tư sản
đỏ Việt Nam.
Với ba đặc tính trên, giai cấp tư sản đỏ Việt Nam là sản
phẩm cá biệt, vừa mang tính chất chung của giai cấp này nhưng
lại kèm theo rất nhiều yếu tố dị biệt mà nhân loại không
hiểu nổi. Tôi tạm đặt cho sự dị biệt này hai tính từ:
tính sân khấu và tính lưu manh.
Sân khấu, hay nói cách khác, đạo đức giả, vì ngoại trừ
vài ba quốc gia đồng dạng như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và
Cuba, chẳng ở nơi đâu giai cấp tư sản đứng chào cờ búa
liềm và hát Quốc tế ca vô sản như đám quan lại đất Việt.
Đương nhiên, ai cũng hiểu rằng họ hát theo kiểu con vẹt
nhắc lại lời chủ dậy một cách máy móc, nhưng chẳng một ai
đặt câu hỏi rằng "Họ nghĩ gì khi hát những lời ca ấy?"
<center><img src="http://danluan.org/files/u1/quocteca.jpg" width="373"
height="486" alt="quocteca.jpg" /></center>
<center><em>Quốc tế ca (Nguồn: ctu.edu.vn)</em></center>
Phải chăng họ đã tự coi mình là loài vẹt nên không cần suy
nghĩ? Phải chăng họ ngu đến mức không hiểu ý nghĩa của
ngôn từ? Phải chăng họ đã quen đeo mặt nạ nên sự gian dối
đối với họ trở thành tự nhiên như hơi thở? Phải chăng,
từ những người lính dũng cảm năm xưa giờ họ đã rơi
xuống vũng bùn của sự tham lam truỵ lạc, trở thành lũ
người hoàn toàn vô sỉ và vô cảm, nói cách khác, một lũ
lợn vục mõm xuống máng và chỉ còn biết duy nhất hành vi đó
mà thôi?
Lưu manh, bởi vì họ đã chấp nhận thứ chính trị lừa đảo
trên với sự trơ trẽn vô tiền khoáng hậu, thực thi cuộc
dối trá tập thể này với các thủ đoạn tàn độc và hạ
tiện, chẳng mảy may quan ngại công chúng. Nếu không hoàn toàn
biến thành đám lưu manh, ắt họ phải hiểu rằng sự gian dối
này là bất khả chấp nhận, rằng họ đang tiêu tiền giả,
rằng họ đang phản bội lại nhân dân. Và sự phản bội nào
cũng hứa hẹn những hiểm nguy theo luật nhân quả.
Hãy tạm đặt dấu chấm lửng ở đây, bởi sớm hay muộn
thời gian cũng cho lời giải đáp. Lúc này, hãy nhìn thẳng vào
thực tại và phân tích thực tại ấy vì điều đó khẩn cấp
và thiết thực.
Hiện thời, nhà cầm quyền Việt Nam đang ngồi trên đống
vàng, họ nhìn những đoàn người đói rách, bị bóc lột đến
kiệt sức, bị dồn đến cùng đường tuyệt vọng với sự
sợ hãi. Vì bất cứ sự sợ hãi nào cùng dễ dàng dẫn đến
bạo lực nên họ thẳng tay đàn áp dân chúng.
Bộ máy đàn áp đang thuộc quyền sở hữu của họ, là vũ khí
cốt lõi của nhà nước Stalin, nó được sử dụng một cách
thường hằng. Bởi lẽ, họ biết chắc chắn rằng đám đông
nghèo khổ kia chính là bản sao của họ hơn nửa thế kỉ
trước, cũng như họ hơn nửa thế kỉ trước, đó là những
kẻ nuôi mầm phản loạn và có ngày sẽ lật đổ ngai vàng.
Nhờ nghiệm sinh mà họ hiểu được ý nghĩ của đám người
này, dù những ý nghĩ đó tồn tại trong thầm lén, trong câm
lặng. Nghiệm sinh là phương tiện xác tín giúp họ nhận thức.
Dẫu năm tháng qua, nhưng các nghiệm sinh cốt lõi không hề phai
nhạt, bởi chúng được hình thành cùng một lần với các xúc
động sâu sắc, những xúc động mãi mãi ghi khắc vào trí nhớ
như những nhát đục trên đá của nhà tạc tượng, sẽ định
hình cho đến phút lâm chung.
Họ đã trải nghiệm cùng một thứ tủi nhục, cùng nuôi cấy
ý định lật đổ và trả thù, cảm thấy tận đáy sâu tâm
hồn sức mạnh của hờn căm lẫn năng lượng tàn phá, cùng
cảm thức về sự cám dỗ của ý muốn huỷ diệt, ý muốn
nảy sinh bất cứ nơi đâu, khi con người bị đầy ải và bị
tước đoạt mọi hy vọng. Họ hiểu rằng, chính đám đông
phẫn nộ kia có thể làm một cuộc cách mạng khác, như họ
từng làm năm 1945.
Tại sao không ? Cùng là người, cùng da thịt, cùng sự khắc
khoải sinh tồn, ắt không thể không phản ứng trước đàn áp
và bất công.
<em>Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian,</em>
<em>Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn...</em>
Bây giờ, Quốc tế ca đích thực sẽ cất lên trên môi những
người khác, trên môi hàng triệu nông dân bị chính phủ cướp
đất, hàng trăm nghìn công nhân bị bóc lột đứng dưới mưa
và dưới nắng biểu tình.
Những công nhân này biết chắc chắn phần cay đắng họ sẽ
phải chịu vì chính phủ luôn luôn đứng về phía các ông
chủ. Các ông chủ Đại Hàn hay Trung Quốc, Pháp, Mỹ cũng như
Tây Ban Nha, mũi lõ hay mũi tẹt đều là liên minh thắm thiết
của nhà cầm quyền Việt Nam, bởi vì họ đem lại cho các quan
lớn các tấm vé xanh, các tấm vé làm đầy ngân khoản tú ụ
của các quan ông ở ngân hàng quốc ngoại hoặc đổi lấy
những thỏi vàng ròng cho các quan bà gửi vào két tại ngân
hàng quốc nội.
Ngược lại, dân chúng đã bị tách lìa khỏi khối "liên minh
công nông" đường mật mà người cộng sản năm xưa từng
hứa hẹn, hoặc nói chính xác hơn, hy vọng của họ đã tiêu
biến như cát bụi cùng mớ danh từ sáo rỗng kia. Dân chúng
giờ đây đã trở thành những kẻ đứng bên lề, nếu không
gọi đích danh là những đàn bò để quan lại vắt sữa mà
đôi khi, sự ương chướng của lũ bò làm rầy rà đám người
chăn dắt.
Dân chúng, những người mà xưa kia cha ông họ lăn lưng vào
chèn pháo hay lấy thân lấp lỗ châu mai, hoặc kĩu kịt đẩy xe
thồ từ đồng bằng lên chiến trường Tây Bắc, những người
mà xương cốt của cha anh họ đã rải trắng dãy Trường Sơn
để ngày 30 tháng 4 năm 1975, lá cờ đỏ sao vàng có thể cắm
lên trên dinh Độc Lập, những người ấy giờ đây là "kẻ
bên ngoài" đối với các quan lớn, nói cách khác, họ là
những kẻ đứng bên kia đường ranh giới phân biệt giai tầng.
Bởi vì điều đơn giản là <em><strong>các con rối cuộc đời
đã thay vai</strong></em>.
Sự đổi thay này là lý do cơ bản khiến kẻ cầm quyền Hà
Nội kết án ba nhà tổ chức công đoàn Tự do, hành động này
không xảy ra đường đột hoặc hàm hồ mà được tính toán
kĩ lưỡng và tuân theo logic. Nỗi kinh ngạc cũng như kinh hoàng
của dân chúng chỉ là bằng cớ về sự thơ ngây hoặc khờ
khạo của họ, những người đang huyễn hoặc bởi các ảo
vọng hoặc bùi tai vì sự lừa mị của ngôn từ.
Tuy nhiên, khi trở thành giai cấp tư sản, kẻ cầm quyền Hà
Hội quên rằng họ đã từng là học trò của ông Mác và ông
tổ này dạy rằng "Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu
tranh"
Nếu như trước năm Con Gà (1945), họ nhai đi nhai lại câu này
mỗi ngày, họ tuyên truyền, hò hét khẩu hiệu này đến hụt
hơi, khan giọng, thì giờ đây, cổ họng họ đã lèn ứ vàng
nên lưỡi họ cứng đơ và tai họ ù điếc. Họ quên hoặc làm
ra vẻ đã quên. Nhưng dù kẻ cầm quyền quên hay nhớ thì cuộc
sống vẫn tồn tại với các quy luật khách quan của nó.
<em>Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh!</em>
Câu nói này chẳng phải là một sáng tạo độc đáo mà chỉ
đơn thuần là một nhận xét khách quan. Từ cổ chí kim, từ
đông sang tây, nơi nào con người bị áp bức nơi đó họ phải
đứng lên đòi quyền sống. Từ Spartacus đến Hoàng Sào, từ
những đám "giặc châu chấu, giặc trâu trắng" xuất hiện
ở đồng bằng Việt Nam nhiều thế kỉ trước đến các cuộc
biểu tình của công nhân hầm mỏ ở Nam Mỹ thế kỉ XX, nơi
nào và thời nào cũng có thể tìm được các bằng chứng của
quy luật phổ biến.
Như thế, người cộng sản Việt Nam không thể tự cho họ
độc chiếm quyền đấu tranh. Họ cũng không thể triệt tiêu
khả năng tranh đấu của dân chúng một cách lâu dài bởi
điều đó nằm bên ngoài khả năng của họ. Sự bắt bớ các
nhà báo mới gần đây, cũng như vụ đẩy ba nhà sáng lập công
đoàn Tự do về tỉnh Trà Vinh xét xử là các vết mụn mưng
mủ mọc trên gương mặt kẻ cầm quyền Hà Nội, triệu chứng
hiển nhiên của bệnh aids ở giai đoạn thứ ba.
<strong>SỢ HÃI!</strong>
Có nhiều định nghĩa về sự sợ hãi, nhưng chúng ta không
liệt kê các định nghĩa mà chỉ phân tích một số triệu
chứng lâm sàng của hiện tượng này.
Cảm thức sợ hãi nảy sinh khi con người nhận thấy cuộc
sống của họ mất đi hoặc có nguy cơ mất đi sự an toàn, an
toàn cho đời sống vật chất cũng như tình cảm.
Người ta sợ hãi khi giáp mặt cái chết, người ta sợ hãi khi
có nguy cơ mất đi các tiện nghi, một chỗ làm béo bở, một
ngôi nhà đẹp, một người tình. Người ta cũng sợ hãi trước
nguy cơ bị phát giác các lỗi lầm và bị khinh bỉ: vụ án
nổi tiếng ở Hà Nội nhiều năm trước đây là vụ án một
phụ nữ ngoại tình dùng dao ăn đâm chết chồng khi anh này dò
theo để bắt quả tang chị ta ngồi tình tự với tình nhân ở
Hồ Tây. Con dao đem theo là để cắt bánh mì ăn, rút cục trở
thành vũ khí sát nhân, do đó vụ án này được coi là án
trọng điểm, được đưa vào các bài giảng luật pháp như
điển hình về sự ngộ sát.
Sợ hãi là một cảm xúc thường hằng trong đời sống nhân
loại, tuy nhiên cảm xúc ấy vô cùng phức tạp và trong phạm vi
bài viết này, tôi không có tham vọng đề cập tới các khía
cạnh khác nhau của nó. Vì khẳng định là động lực bắt bớ
các nhà báo cũng như xử án nặng ba thanh niên sáng lập công
đoàn Tự do của chính quyền Việt Nam là sự sợ hãi nên trong
phần thứ hai của bài viết, tôi sẽ nêu lên một vài sự
kiện có liên quan tới ý tưởng này.
Trước hết, có rất nhiều thứ sợ hãi.
Thứ sợ hãi đơn phương khi một đối tượng tuyệt đối
mạnh, tuyệt đối ưu thế, có thể thực thi quyền lực trên
đối phương một cách vô điều kiện. Thứ sợ hãi song phương
xảy ra khi hai đối thủ ngang tài ngang sức lần đầu đọ găng
trên võ đài, vì là lần đầu chưa ai hiểu biết ai nên sự
sợ hãi được chia đều cho hai phía.
Theo luật tự nhiên, con người thường rơi vào tâm trạng khắc
khoải hoặc hãi hùng khi đối diện với những gì nằm bên
ngoài tầm hiểu biết của họ. Đây là thứ sợ hãi của con
chuột khi rời khỏi hang, của con nai khi lạc rừng, của dân
đô thị khi vào rừng sâu và ngược lại. Thứ sợ hãi nội
tại, được coi như kết quả của quá trình tâm lý xảy ra
trong một cá nhân, cũng có thể biểu hiện thành hành vi, cũng
có khi âm ỉ như trạng thái ủ bệnh. Thứ sợ hãi này xác
lập trên cuộc đấu tranh thầm kín, đối tượng thứ nhất là
lương tâm, còn địch thủ của lương tâm là chính con người
cùng các hành vi của anh ta. Các cụ xưa có câu
"<em>Chưa đánh được người mặt đỏ như gấc</em>
<em>Đánh được người rồi mặt vàng như nghệ</em>"
Cách ngôn đó diễn đạt một trạng thái của thứ sợ hãi
này. Nhiều kẻ sát nhân cũng trải nghiệm thứ cảm xúc ấy,
dù án mạng không bị lôi ra ánh sáng.
Vân vân và vân vân...
Chúng ta sẽ phân tích thứ sợ hãi đơn phương vì nó liên
đới một cách chặt chẽ đến hiện trạng đất nước giờ
đây.
Sự sợ hãi đơn phương có tính tập thể đã từng diễn ra
nhiều lần trong lịch sử nhân loại.
Cuộc di dân xa xưa của người Do Thái khi vượt qua Biển Chết
để đi tìm miền đất hứa đã xảy ra khi dân Do Thái bị đàn
áp, bị tàn sát một cách đại trà, rơi vào ngõ cụt của sự
sợ hãi và tuyệt vọng, rồi chính sự hãi hùng và tuyệt vọng
này đã khiến họ đủ can đảm rời bỏ Ai Cập ra đi dù cuộc
ra đi ấy phải đổi bằng những mất mát lớn lao cũng như
phải chấp nhận muôn vàn nguy hiểm. Các cuộc tàn sát, săn
đuổi phù thuỷ xảy ra ở châu Âu trước đây là ví dụ
điển hình về sự sợ hãi đơn phương vì những nạn nhân
không có cách phản ứng nào hơn là nhẫn nhục chịu đựng sự
tra tấn của đám đông rồi sau cùng chết thiêu trên dàn lửa.
Dưới chính quyền Stalin, hàng chục triệu người Nga bị đầy
tới các trại tù ở Siberia cũng sống trong sự sợ hãi đơn
phương trước mũi súng của chính quyền Xô viết. Sau năm 1975,
hàng trăm nghìn binh sĩ miền Nam cũng như gia đình họ cũng có
chung kinh nghiệm về sự sợ hãi này, bởi chính quyền Hà Nội
lúc đó có sức mạnh tuyệt đối, hệt như sức mạnh của
chính quyền Hitler những năm 1941, 1942, 1943, 1944 cho đến tận
tháng 2 năm 1945.
Sự sợ hãi đơn phương xảy ra khi kẻ mạnh tự cho là Thượng
đế, còn các nạn nhân bị tê liệt vì hãi hùng, nói cách khác
họ bị tước đi toàn bộ vũ khí tuỳ thân, kể cả vũ khí
tâm lý, nghĩa là niềm tin rằng mình vô tội, rằng mình có
quyền sống.
Khi sự sợ hãi đơn phương đã thực thi một cách thành công
quyền năng của nó trên một đám đông thì bao giờ nó cũng có
một bạn đường, một trợ thủ đắc lực, ấy là một thứ
tôn giáo để biện minh cho hành vi của kẻ mạnh đồng thời
để nhào nặn các nạn nhân trong khiếp nhược. Thứ tôn giáo
này có thể khoác áo, đội mũ của vua chúa Ai Cập cổ, có
thể hiện hình dưới lý thuyết thanh trừng của Giáo hội châu
Âu, có thể mang hình hài "người hùng" với dòng máu xanh
của Hitler, có thể thổi toe toe kèn đồng biểu dương "niềm
kiêu ngạo cộng sản" của đám cầm quyền da vàng mũi tẹt
Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tóm lại, không có sự sợ hãi tập thể nào thiếu yếu tố
thần bí, một trạng thái "nhập đồng" cho cả hai phía, theo
nghĩa tiêu cực của ngôn từ. Kẻ sắm vai Thượng đế, trong
cơn nhập đồng thật sự tưởng mình là Thượng đế toàn
năng. Đám nạn nhân, trong cơn nhập đồng, mất hoàn toàn lý
trí và dũng khí, bị đẩy vào trạng thái trầm uất, không còn
tìm được các phản ứng cần thiết để tự bảo vệ mình.
Giống như kẻ say, hoặc họ không đứng lên nổi, hoặc họ
loạng choạng bước trên đường vì không nhìn rõ lối đi.
Tình trạng này sẽ kéo dài trong một khoảng thời gian nào đó,
tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, cho đến lúc cơn nhập đồng
chấm dứt, kẻ sắm vai Thượng đế chợt nhận ra họ thôi là
Thượng đế, các nạn nhân ra khỏi cơn trầm uất, mở to cặp
mắt để nhìn kẻ thống trị mình, chợt nhận ra rằng đó
cũng chỉ là một con vật đi bằng hai chân sau, và cũng như
họ, có đầy khả năng khiếp nhược. Thời khắc đó, người
ta đặt tên là thoát nhập đồng. Thời khắc đó, sự sợ hãi
được chuyển đổi vị trí, và căn cứ vào một số trường
hợp đã xảy ra trong lịch sử, sự chuyển đổi này xảy ra
như một nhu cầu tự nhiên để lấy lại thế cân bằng.
Ra khỏi cuộc chiến tranh, tôi may mắn hơn nhiều người khác
vì đã thoát nhập đồng khá sớm.
Sự kiện có tính quyết định xảy ra vào mùa thu năm 1975. Trên
các ngả đường từ Sài Gòn trở ra Quảng Bình, đặc biệt
trên vùng đất Quảng Trị, tôi chứng kiến cảnh những người
lính bị khám xét, lục soát, hạch sách, nhục mạ hệt như các
nô lệ tại các khu vực được mệnh danh là "trạm kiểm soát
quân nhân". Ở các trạm này, lính phải tháo cởi ba lô, lục
lọi hành lý để trình bày trước đám nhân viên kiểm soát.
Nhà nước ra lệnh cho mỗi người trong bọn họ chỉ được
phép mang về miền Bắc một chiếc khung xe đạp, một con poupée
nhựa, hai chiếc rổ rá nhựa và một chiếc chảo nhôm. Họ
không được phép mang thêm các thứ hàng hoá khác bởi điều
ấy sẽ là bằng chứng xác thực ca ngợi "chủ nghĩa phồn
vinh giả tạo của chính quyền miền Nam", và như thế, một
cách tố cáo hiển nhiên sự nghèo khổ lầm than ngự trị bấy
lâu nay trên đất Bắc.
Quan sát cảnh tượng ấy, tôi có hai cảm xúc trái chiều. Cảm
xúc thứ nhất là nỗi xót xa. Nỗi xót xa đối với người
thân. Tại sao lại là người thân? Điều này có vẻ khó tin
với những người chỉ sống trong cảnh thanh bình nhưng hoàn
toàn dễ hiểu với tất cả những ai đã trải qua cuộc chiến
tranh chống Mỹ. Quảng Bình là yết hầu của đường dây 559,
trong suốt những năm chiến tranh lính qua lại các binh trạm
không ngưng nghỉ. Tôi luôn có dịp gần gũi, trò chuyện với
các "đồng hương trẻ tuổi", mối liên kết giữa chúng tôi
nằm trong tình đoàn kết cổ truyền của người dân Việt,
thứ tình cảm đã làm nên sức mạnh của các cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm.
Những năm ấy, trước thế thượng phong của Mỹ trong một
cuộc đối đầu không cân sức, trước tất thảy những mất
mát kinh hoàng và sự gian khổ vô cùng tận, người ta phải
thương nhau thực, yêu nhau thực, chia cơm xẻ áo thực mới
sống nổi, người ta không thể lừa đảo lẫn nhau và đểu
giả như bây giờ. Vì tình đồng loại thấm thía ấy, cái
hiện thực phũ phàng xẩy ra mùa thu năm 1975 là một cú đấm
nổ đom đóm mắt đối với tôi. Hoặc mắt tôi tối sầm vì
phẫn uất, hoặc cái hiện thực kia không thể nuốt trôi.
Trước mặt tôi, những người lính từng được ngợi ca suốt
các năm dài là các anh hùng vượt Trường Sơn, những con
người đáng yêu đầy dũng khí đó trong phút chốc trở thành
những kẻ thảm hại, khiếp nhược. Họ gãi đầu gãi tai xin
xỏ đám nhân viên kiểm soát khi họ muốn mang thêm một con
poupée bé tẻo tèo teo để làm quà cho cháu, hoặc chiếc rổ
nhựa thứ ba để cho người chị ruột.
Nhìn những gương mặt khổ sở của họ, giọng nằn nì cầu
khẩn của họ, tôi có cảm giác như máu đông lại giữa tim.
Tôi biết rằng con người có thể bị phản bội một cách dễ
dàng, và sự phản bội có thể đến ngay vào lúc người ta
không ngờ tới. Chính quyền này đã phản bội lại nhân dân
quá sớm, vì âm ba của tiếng súng chưa dứt hẳn bao lâu. Cơn
say chiến thắng khiến họ tự cho phép mình làm tất cả mọi
điều mà không tính đếm đến hậu quả của các hành vi đó.
Tôi cũng hiểu rằng các khái niệm như đạo đức, lương tâm,
tinh thần vị tha không thể là bạn đồng hành với kẻ nắm
quyền, nhất là khi quyền lực ấy đặt trên cơ sở độc
đảng.
Trước đó vài tuần, khi đang còn ở Sài Gòn, do các mối quen
biết mà tôi chứng kiến tận mắt các quan ông, quan bà dùng
từng đoàn xe tải của nhà nước để chở hàng riêng về Hà
Nội cho gia đình họ. Nào giường tủ, salon, tủ lạnh, máy
điều hoà nhiệt độ, quạt máy, radio, loa thùng nghe nhạc, vải
vóc quần áo và cho đến cả bát, đĩa, li tách... Cơn khát
triền miên của những kẻ thiếu thốn tiện nghi trong chế độ
Xã hội chủ nghĩa được thoả mãn thả phanh.
Không ai trách cứ họ vì điều ấy. Con người có quyền
được sống sung sướng và mọi sáng tạo của nhân loại cũng
chỉ nhằm mục đích làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều
đáng hổ thẹn là nếu họ tự cho phép mình thụ hưởng ê hề
mọi tiện nghi, hà cớ gì họ ngăn cấm người lính, hạn mức
cho họ ở một chiếc khung xe đạp và một con poupée ?
Ở đây, tính độc ác và sự đạo đức giả tự lột áo cùng
một lần. Cái thể chế ra rả tuyên bố nhân nghĩa, ong ỏng
ngợi ca sự công bằng bình đẳng té ra là một xã hội phân
chia đẳng cấp khốc liệt và trắng trợn hơn bất kì thể
chế nào khác.
Cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như chiến thắng ngày 30/04/75
chẳng rơi từ trên trời xuống mà đó là các đài tưởng
niệm xây trên xương cốt của lính và của dân. Tính kiêu mạn
và sự độc ác của chính quyền cộng sản ngày ấy đã khởi
dậy trong tim tôi cảm xúc thứ hai: sự khinh bỉ và lòng căm
uất. Thứ tình cảm này, một khi đã nảy nở sẽ không ngừng
phát triển theo chiều rộng cũng như theo bề sâu. Lẽ đương
nhiên, con đường chống độc tài, đòi dân chủ đối với tôi
là một hành trình logic.
Từ khi các ý tưởng trên nảy sinh cho đến lúc thực thụ bắt
tay vào hành động đòi hỏi một quãng thời gian chuẩn bị khá
dài. Tôi không sinh ra để làm nghề lật đổ, cũng không biết
bắn súng hoặc sử dụng một vũ khí nào khác. Tôi không
được đào tạo để có kiến thức về quân sự cũng như về
chính trị. Tóm lại, tôi là kẻ vô năng khi dấn thân vào con
đường đấu tranh. Tuy nhiên, tôi hiểu rằng nhà nước Việt
Nam là nhà nước cảnh sát và sức mạnh của nó là chính ở
đây, đúng theo định nghĩa của Lenin: chính quyền tựa trên
nòng súng.
Vậy thì, để chống lại thể chế độc tài, đòi dân chủ,
không có cách nào chuẩn xác hơn là đánh vào trụ cột của
nó, tay chân của nó, bầy chó berger hung dữ của nó: công an.
Sách lược của tôi là: <em><strong>Muốn chống lại kẻ thù
tốt hơn cả là học hỏi chính kẻ thù ấy.</strong></em>
Một con lươn bị ném vào giỏ cua ắt sẽ bị lũ cua kẹp nát.
Muốn vào giỏ cua thì phải có hai cái càng cua. Do đó, văn
chương đối với tôi trở nên trò chơi thứ yếu, tôi chú tâm
vào học hỏi một nghề mới: nghề công an. Nghề dò la. Nghề
thám tử. Nghề chó săn, nếu muốn gọi một cách khinh bỉ, cái
nghề mà ông Vũ Ngọc Nhạ đã làm xưa kia trong chính quyền
Diệm, giờ tôi làm trong xã hội miền Bắc, cái xã hội mà tôi
biết chắc chắn rằng ông Vũ Ngọc Nhạ đã kịp nhận ra chân
tướng của nó, sự tàn ác, lũng nhạm, bội bạc, ti tiện
hiển nhiên của nó và ông đã mang theo một khối hận trong câm
lặng cho đến lúc xuống mồ.
Trong Bộ Nội vụ, tổng cục quan trọng nhất là Tổng cục I,
chính danh là Tổng cục Chống gián điệp, do đó, mục tiêu
của tôi là ở đây.
Thời gian ấy, tướng Dương Thông đang giữ chức tổng cục
trưởng. Tướng Dương Thông, biệt danh là "hung thần của
chế độ", người đã trấn áp hết sức thành công vụ Nhân
văn giai phẩm, cũng như vụ Xét lại chống Đảng, đã đặt
hàng loạt văn nghệ sĩ vào mạng lưới chỉ điểm, buộc
những kẻ vốn được gọi là nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, hoạ
sĩ... hành nghề chó săn cho chế độ với các mức trợ cấp
thường niên, thường quý hoặc các loại quà bánh, bổng lộc,
tuỳ theo "thành tích chó săn".
Vì tầm quan trọng của nhân vật này, tôi đã phải chuẩn bị
khá lâu và chỉ nhờ sự giúp đỡ tận tình của một số anh
em mới có thể dò tìm được vài nét đáng chú ý trong lý
lịch quan lớn. Sự may mắn đã xảy ra khi việt kiều Bùi Duy
Tâm tìm cách gặp tôi qua đạo diễn Trần Văn Thuỷ năm 1990.
Tôi biết rằng đây là cơ hội vàng để tìm ra sự thật.
Đầu năm 1991, khi ông Bùi Duy Tâm quay lại Hà Nội, tôi chấp
nhận đi chơi sông Đà cùng anh em Bùi Duy Tâm, Bùi Duy Tuấn.
<div class="boxright200"><img
src="http://danluan.org/files/u1/duongthong.jpg" width="150" height="227"
alt="duongthong.jpg" /><div class="textholder">Phó Tổng Cục trưởng
Bộ Công an Dương Trọng Thông (Nguồn: wikipedia)</div></div>
Nhờ cuộc hành trình ngắn ngủi này, tôi đã thu được cuốn
băng mà trong đó, Bùi Duy Tâm khẳng định rằng hai lần ông ta
bị bắt và cả hai lần tướng Dương Thông can thiệp để trả
lại tự do cho ông ta là vì ông ta đã trả Dương Thông rất
nhiều tiền: "Đó chẳng phải quà cho không". Rằng, mối quan
hệ của ông ta với Dương Thông đã phát triển tốt đẹp và
điều kiện thuận lợi này cho phép ông ta tiếp xúc nhiều lần
với Bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam, với đích
danh đại tướng Nguyễn Thị Định, nhằm bàn với các nhà
lãnh đạo tối cao ở Hà Nội về việc bán kho vũ khí Long
Thành, việc bán dầu thô, việc khai khoáng...
Chuyến đi sông Đà kết thúc, tôi vừa kịp chuyển cuốn băng
này ra nước ngoài thì bị bắt, tháng 4 năm 1991. Như mọi
người đã biết, tội danh của tôi được hệ thống truyền
thông của nhà nước tuyên bố là "tuyên truyền chống lại
nhà nước Xã hội chủ nghĩa, ăn cắp tài sản quốc gia bán cho
ngoại bang. Làm gián điệp cho ngoại bang".
Với sự can thiệp của tổ chức nhân quyền quốc tế, đặc
biệt là sự can thiệp của chính phủ Mitterrand, họ đã thả
tôi ra sau gần tám tháng giam giữ, hành động vội vã đến
mức không kịp làm bản tống đạt.
Sau đó, ông bộ trưởng Bùi Thiện Ngộ cử người đến nói
rằng "Theo luật, nhà văn Dương Thu Hương có quyền khiếu
kiện nhà nước, nhưng việc này chắc chắn sẽ bất lợi cho
cả hai bên. Vậy, bộ trưởng đề nghị dàn xếp một cuộc
thanh toán giữa nhà văn Dương Thu Hương với tướng Dương
Thông, hy vọng điều kiện này có thể mang lại kết quả tốt
đẹp".
Tốt đẹp? Tôi nghi ngờ danh từ mĩ miều đó. Nhưng tôi cần
cuộc thanh toán với tướng Dương Thông, tôi cần đối mặt
với "hung thần chế độ", tôi muốn khạc nhổ vào thứ
đại diện của sự tham lam và thói đạo đức giả, vào con
berger điển hình của đảng cộng sản Việt Nam. Tôi chấp
nhận.
Cuộc gặp giữa quan lớn Dương Thông và tôi đã xảy ra tại
căn phòng nhỏ giáp cổng vào 15 Trần Bình Trọng. Đương nhiên,
tôi ghi âm và Bộ nội vụ cũng ghi âm. Đương nhiên, các đồng
nghiệp của ông Dương Thông sẽ được nghe rõ ràng những lời
tôi nói (bởi chắc chắn tôi đã nói rất to, nói theo kiểu
chửi giữa hàng tổng, còn ngược lại, ông tướng công an lại
cất tiếng nhẹ nhàng, nhẹ nhàng và run rẩy).
<div class="boxleft200"><img src="http://danluan.org/files/u1/buidt.jpg"
width="150" height="190" alt="buidt.jpg" /><div class="textholder">Bùi Duy
Tâm (Nguồn: ykhoasaigon.com)</div></div>
Tôi nói rằng "Sau rốt, tôi biết ông cũng chỉ là một con
đĩ, một kẻ bán mình. Nhưng trên đời có nhiều loại đĩ,
thảm hại cho ông, ông là loại đĩ đứng vỉa hè, loại ngả
thân dưới hàng rào công viên hoặc ven cống. Bán mình cho Bùi
Duy Tâm, chứng tỏ ông thuộc loại điếm năm xu".
Mặt hung thần chế độ thâm đen, cặp môi ông ta run lật bật.
Khoảnh khắc ấy, tên đao phủ sợ hãi. Khi sợ hãi, y cũng
thảng thốt, nhớn nhác, thất thần như những kẻ bị tra tấn
trong nhà tù.
Tôi nhìn bộ mặt nhem nhuốc sần sùi của Dương Thông và nghĩ
"Mày đã từng đẩy biết bao nhiêu người vào nhà tù, đã
bầy ra trăm mưu ngàn kế để sát hại tha nhân, và bây giờ
tới lượt mày run như cầy sấy. Phải chăng suốt đời mày
chỉ là một con chó berger và đến lúc này đây, chỉ khi bị
lột mặt nạ, chỉ khi bị đẩy vào chân tường, mày mới bắt
đầu thấm thía nỗi thống khổ?"
Người thay thế tướng Dương Thông lãnh đạo tổng cục I là
Bùi Quốc Huy tức Năm Huy, trước đây từng nhiều năm làm
trưởng ty công an tỉnh Kiên Giang. Một trong các thành tích nổi
bật của ông ta khi ở địa phương là bắt được băng cướp
Bạch Hải Đường, băng cướp này vốn lộng hành nhiều năm
dưới chính quyền Diệm và Thiệu.
Ông Bùi Quốc Huy được lệnh của ông Bùi Thiện Ngộ gặp tôi
để thoả thuận về cuộc thanh toán với tướng Dương Thông.
Cuộc gặp này có sự hiện diện của đại tá Nguyễn Công
Nhuận, quyền cục trưởng cục 24, tính danh là Cục điều tra
xét hỏi. Ông Nguyễn Công Nhuận là người kí lệnh bắt tôi
tháng 4 năm 1991, đồng thời là trưởng nhóm hỏi cung trong
suốt thời gian tôi ở tù.
Tại cuộc gặp gỡ tay ba này, tôi chơi ngửa bài với hai quan
chức bộ nội vụ. Tôi nói: "Trong cuộc đấu tranh đòi dân
chủ, tôi biết rõ rằng chúng tôi là trứng còn các ông là
đá. Tuy nhiên, một khi đã dấn thân, tôi phải tính toán sao cho
cái chết của tôi được bù trả một cách xứng đáng. Từ
nhỏ tôi đã thích câu ca này:
<em>Trạng chết chúa cũng băng hà</em>
<em>Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn.</em>
Vì lý do ấy, tôi đã quyết tâm học hỏi nghề nghiệp của
các ông. Nếu các ông theo rõi tôi, tôi cũng theo rõi lại các
ông. Nói cụ thể, tôi biết ông giao du với những ai trong hội
Quý Mùi (Hội những người cùng sinh năm 1943 như ông Bùi Quốc
Huy), tôi biết các ông kiếm thú vui ở nơi chốn nào (ổ điếm
nào và nhậu nhẹt hành lạc ra sao) và tôi biết giá tiền mỗi
chai rượu các ông uống. Về đám lãnh đạo các ông, những
thái thượng hoàng đẻ ra cái chế độ này, tôi có các cuốn
băng ghi lại những bằng chứng về các sự kiện chính trị
ngầm ẩn cũng như các bí mật liên quan đến đời tư của
họ, nói cách khác là những tấn tuồng diễn ra nơi hậu cung
chưa ai hay biết. Tôi đã thực hiện các cuốn băng này vài năm
trước đây, và đã gửi chúng ra ngoài biên giới. Tiện thể,
tôi cũng công bố luôn các địa điểm cất giữ tài liệu:
Mỹ, Pháp, Tiệp. Liệu các ông có đủ tài năng và tiền bạc
để lục tung ba quốc gia ấy lên không? Tôi tin chắc là không.
Các ông mạnh đối với dân chúng trong nước, các ông bất
lực ngay khi bước qua biên giới. Sứ quán của các ông lúc
nhúc bọn buôn đi bán lại, chen chúc nhau kiếm tiền, đi hết
chợ trời này sang chợ đen kia để nhặt xu, ngoài món lộc
thường xuyên là bòn mót bóc lột đám công nhân xuất khẩu.
Thế nên, tôi hoàn toàn tin rằng ở các xứ khác, các ông là
bọn người bất khả, các ông không thể làm những gì bọn KGB
Nga đã làm trước đây ba bốn thập kỉ. Bức tường Berlin
đổ sụp rồi. Ở đây, các ông có toàn quyền, các ông có
thể tổ chức lần thứ ba, thứ tư, thứ năm tai nạn xe cộ
để kẹp chết tôi, điều đó chẳng khó khăn với các ông,
cũng chẳng lạ lùng với chính tôi. Thế nên, tôi đã chuẩn
bị sẵn sàng để một khi tôi ngã xuống thì các tài liệu kia
được bật mí, và điều đó người ta thường gọi là sự
trả đũa. Cuộc chiến tranh nào cũng phải có vũ khí bí mật,
đó là một trong các mưu chước tồn tại từ xửa từ xưa.
Để chống lại các ông, tôi buộc phải học chính nghề của
các ông. Vũ khí bí mật của tôi lấy được chính từ nghề
nghiệp ấy".
Tướng Bùi Quốc Huy không trả lời mà lảng sang chuyện khác.
Phải chăng, nhờ cuộc chơi ngửa bài này mà tôi được toàn
thân? Vẻ như điều đó là hợp lý.
Cuộc nói chuyện trên xảy ra cuối năm 1991.
Mười năm sau, ông Năm Huy ra trình toà, được ưu tiên "mang
thường phục". Lần đầu tiên, người dân Việt Nam được
biết một cách chính thức đại diện quyền lực nhà nước
câu kết với lũ tội phạm để tham nhũng và để sự tham
nhũng trôi lọt, ra tay tàn sát chính các đồng nghiệp của
mình.
Do học mót được nghề "thám tử" từ trước đó khá lâu,
tôi biết rằng quá trình mafia hoá là không thể tránh đối
với bộ máy cầm quyền Hà Nội.
Tiện thể, cũng xin công bố rằng mới chỉ có một Năm Huy bị
lộ, nhưng còn nhiều Năm Huy khác đang ẩn mình trong bóng tối.
Và bóng tối đang tụ trên bầu trời Hà Nội khá dầy. Hãy
nhớ lại vụ xử án đại uý công an Nguyễn Xuân Trường, một
mắt xích trong đường dây buôn ma tuý xuyên quốc gia cũng như
vụ thủ tiêu người lính canh gác ông ta là hiểu được một
phần sự thật.
Bây giờ, đến nhân vật thứ ba, người thay thế ông Bùi Quốc
Huy lãnh đạo Tổng cục I, trung tướng, thứ trưởng, đại
biểu quốc hội Nguyễn Văn Hưởng tức Trần.
Cũng như ông Năm Huy, Nguyễn Văn Hưởng tức Trần vốn là sĩ
quan công an Quảng Ninh, do thành tích nghề nghiệp được điều
lên Bộ công tác. So với ông Dương Thông và ông Năm Huy thì
đây là người kẻng trai nhất, có cặp mắt hết sức "Ất
Dậu", đúng như tuổi của ông ta.
Vào những năm xảy ra nạn Thuyền nhân, Bộ Nội vụ đã gài
ít nhất là hàng trăm điệp viên vào làn sóng di tản. Các
điệp viên này sinh cơ lập nghiệp tại Mỹ từ ngày ấy. Đa
phần các bà đều lấy chồng Mỹ, trong những dịp "về thăm
quê" họ phải báo cáo tin tức với ông tổng cục trưởng
này.
Một trong các địa điểm ông Trần ưa sử dụng là nhà hàng
"Cây sấu" nằm trên đường Bà Triệu, dãy bên phải, cách
Trụ sở Việt kiều không xa. Nhà hàng này thuộc sở hữu của
bác sĩ Thanh, đại uý quân đội, vợ đô đốc hải quân Khánh.
Do công lao của đô đốc Khánh mà nhà nước chia cho họ ngôi
nhà này. Để làm một hàng ăn bình thường thì "Cây sấu"
thiếu các điều kiện không gian cần thiết, nhưng để làm nơi
các cặp nhân tình tình tự một cách vụng lén thì đây là
địa điểm tuyệt vời, vì có rất nhiều phòng riêng.
Ông Nguyễn Văn Hưởng chọn nơi này để nhận tin tức của
các điệp viên là hợp lý: Họ vừa có thể nhậu nhẹt, vừa
có thể làm việc một cách kín đáo. Khép cánh cửa lại, quán
ăn biến ngay thành phòng riêng.
Vì các vị tổng cục trưởng tổng cục I được coi là rường
cột quan trọng nhất của Bộ Nội vụ, nòng súng cho chính
quyền tì vào nên tôi cố gắng chọn ở mỗi ông tướng một
khía cạnh tiêu biểu, trước hết để trình bày tính đa dạng,
khả năng phát triển nhân cách một cách phong phú của đám quan
lớn cộng sản, sau nữa để người đọc đỡ nhàm chán vì
phải chứng kiến mãi một nội dung.
Dẫu rằng, nhìn trên tổng thể, các ông tổng cục trưởng
đều có các đặc tính chung của bọn hung thần chế độ, của
đám người ngất nghểu trên đỉnh cao quyền lực, tự coi mình
là Thượng đế, nhưng họ vẫn có các đặc điểm riêng, khá
dễ dàng phân biệt.
Nếu như ông Dương Thông được coi như biểu tượng của sự
tham nhũng và thói đạo đức giả, ông Năm Huy như một Bố
trẻ mafia thì ông trung tướng Nguyễn Văn Hưởng có dáng dấp
hào hoa hơn, ông ta có vẻ như một trai chơi (play boy) chính
cống. Đó là đặc tính của Ất Dậu (Gà trống) hay cá tính
riêng của ông nghị Trần? Ông tổng cục trưởng này có một
đội ngũ gái bao, mà cô gái bao già nhất, kém mã nhất là Hồ
Thu Hồng, sinh năm 1960, tuổi con Chuột.
Hồ Thu Hồng tuy là gái bao, nhưng lại có thẻ nhà báo, tờ báo
cô ta đang điều hành là Thể Thao TpHCM. Như thế, cô Hồng là
thứ gái bao có chữ, cao cấp hơn các chị em khác một cái
đầu nên tuy kém mã nhất trong bọn cô vẫn được trai chơi
sủng ái.
Cậy mình có chữ, cô Hồ Thu Hồng mở cả một site internet
để chửi bới những người đấu tranh cho dân chủ và trước
hết, để ca ngợi ông Nguyễn Văn Hưởng là "Người đàn ông
tài cao, học rộng", người đã "yêu chiều cung phụng hết
lòng" mỹ nhân. Nỗi hân hoan cũng như sự tận tuỵ với
người tình của cô Hồng là dễ hiểu.
Trước đây, khi còn là vợ nhà văn Trần Nhật Tuấn, cô ta
chỉ là một phóng viên báo tầm thường, không đến nỗi túng
thiếu nhưng cũng chưa bao giờ dư dả. Từ khi trở thành gái bao
của ông Trần, cuộc đời cô Hồng đổi thay như có phép mầu,
cô ta xây nhà lầu cho mình, xây nhà lầu cho bố mẹ và những
người thân khác, cô ta mua hết lô đất này sang dãy nhà kia
để cho thuê, rồi gửi các con sang Mỹ học... Niềm hạnh phúc
lớn lao đó khiến cô ta không thể ngậm miệng, và hễ có cơ
hội là phải rống lên vì sung sướng.
Nếu đọc lại các bài báo cô Hồng từng viết, ta dễ dàng
nhận ra điều đó. Tiêu biểu là bài viết về cảm xúc trên
vùng đất nung lửa Quảng Trị Đông Hà. Khi tới miền đất
này, nhà báo Hồ Thu Hồng chứng kiến nỗi khổ sở của đám
dân xung quanh trong thứ khí hậu khắc nghiệt, lại tận hưởng
cảm giác mát lạnh của chiếc xe hơi sang trọng mà người tình
mua cho, cô ta không thể nén lòng mà phải rên lên hừ hừ vì
khoái cảm. Khi cơn khoái cảm lắng dịu, cô Hồng tiếp tục
thốt lời tri ân nồng nhiệt với "chàng tài cao học rộng"
Nguyễn Văn Hưởng tức Trần. Đọc bài báo này, tôi không
khỏi mỉm cười vì liên tưởng đến hình ảnh một con gà mái
đang chịu trống, con trống thì im lặng cong lưng, dướn cổ
trong cơn khoái lạc, còn con mái lại kêu quang quác để khắp
bốn bề rào dậu làng xóm cùng nghe.
Ở đây, cần phải nói rõ rằng tôi không thành kiến với
nghề gái bao. Gái điếm và gái bao là những nghề cổ lỗ
nhất trong lịch sử nhân loại. Đừng đóng vai đạo đức giả
thì phải xác nhận rằng ở đâu có cầu, ở đó có cung. Nghề
gái điếm cũng như gái bao tồn tại trong mọi thời đại và
mọi nơi chốn vì thời nào và ở đâu cũng có những người
đàn ông không đủ điều kiện thành lập gia đình, hoặc có
gia đình nhưng bất hạnh với vợ, hoặc vợ họ không đủ
sức giải phóng cái dung lượng nhục dục tồn tại trong cơ
thể họ như một hoả diệm sơn. Vân vân... Tóm lại, tôi không
quan tâm đến nghề gái bao, nhưng tôi quan tâm đến tiền bao
gái.
Bởi ở đây, kẻ trả tiền là một bậc lương đống triều
đình, kẻ có đầy đủ quyền năng và mánh khoé để rót các
thứ quỹ quốc gia sang tài khoản đám mèo cái thoả mãn phần
dưới rốn của y. Hồ Thu Hồng sinh năm 1960, đằng trước lắp
hai túi bọt biển, đằng sau mông độn silicon, mắt một mí đi
mỹ viện cắt thành hai mí, nói đích xác cô ta chưa bao giờ là
một mỹ nhân, vậy mà còn được hưởng sự "yêu chiều cung
phụng" thả phanh như chính cô ta thú nhận.
Vậy còn các cô khác, các em trẻ trung hơn, xinh đẹp hơn? Các
em sinh năm 1970, 1973 và nhất là 1975, da thịt nõn nường hơn,
xôi oản đều là của thật chứ không phải đồ giả, mắt hai
mí long lanh do cha sinh mẻ đẻ chứ không nhờ dao kéo thẩm mỹ
viện can thiệp vào, những em ấy ắt phải được "yêu chiều
cung phụng trăm lần hơn", bởi theo nghề chơi, thuyền nổi khi
nước nổi. Để sòng phẳng với luật chơi, để không hổ
mặt đấng mày râu, ắt trai chơi Nguyễn Văn Hưởng phải làm
đầy hầu bao đám mỹ nhân.
Tiền ấy moi từ đâu ra? Phải chăng lương trung tướng cộng
với lương ông nghị đủ trang trải tất thảy các chi phí,
đủ xây hàng loạt nhà lầu cho đám mèo và bố mẹ họ, đủ
mua hàng loạt ô-tô deluxe cho các cô nương? Trong các bạn đọc
liệu có ai hành nghề kế toán hay không? Nếu có, xin nhờ các
vị làm giúp bài toán. Môn toán, là môn điểm kém nhất trong
học bạ của tôi, từ cấp một đến cấp ba.
Phần trên, tôi giới thiệu ba gương mặt quyền lực của Bộ
Nội vụ để bạn đọc hiểu rõ vì sao các quan chức công an
càng ngày càng biến thành bọn tội phạm, bọn trộm cướp,
đúng như câu ca của các cụ xưa
Con ơi, mẹ bảo con này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng toàn thể các sĩ quan công an
đều là bọn mafia, đều là quân cướp. Bởi, nói như vậy là
vu khống, là hàm hồ. Nói điêu thì trước hết, kẻ nói phải
chịu hình phạt theo luật nhân quả. Trong đám công an, không
thiếu những người trung thực, theo ngôn ngữ bình dân, người
tử tế. Chỉ có điều họ đã trở thành thiểu số và họ
gần như vô năng. Đó là những gì tôi trải nghiệm.
Năm 1991, nhà nước cộng sản bắt tôi. Người kí lệnh là
đại tá Nguyễn Công Nhuận. Thời gian tôi ở tù cũng chính ông
Nhuận điều hành nhóm ba người hỏi cung. Thời gian này được
chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn hỏi cung và giai đoạn xin
cung.
Hỏi cung là việc thông thường đối với các tù chính trị.
Mục tiêu nhằm tìm xem tôi liên lạc với ai, ai là kẻ chỉ huy
tôi, ai là kẻ gây ảnh hưởng với tôi thậm chí khống chế
tôi.
Điều này dễ hiểu.
Những người đàn ông Việt Nam, công an cũng như không công an,
trong sâu thẳm tâm hồn, họ khinh bỉ đàn bà, họ coi đàn bà
là bọn đầu óc nông nổi, chỉ hành động vì ngu ngốc và bị
xui khiến. Công an, cái nghề của bạo lực, thứ định kiến
này càng mãnh liệt hơn. Thế nên, các cuộc hỏi cung nhiều khi
dẫn đến tay bo. Nói cụ thể là có lần, tôi chồm lên với ý
định thoi vào giữa mặt ông đại tá này.
Tuy nhiên, giai đoạn hỏi cung thực sự kéo dài không quá lâu
bởi sau rốt, dẫu đặt cả nghìn lần một câu hỏi thì họ
cũng chỉ được nghe câu trả lời duy nhất của tôi là "Tôi
là kẻ chủ tâm đòi dân chủ và tôi sẽ chống chính quyền
cộng sản cho đến phút cuối cùng. Chính tôi rủ rê, tuyên
truyền người khác đi theo tôi, tôi dạy họ căm thù và khinh
bỉ đảng bởi đa phần những người lớn tuổi hơn tôi đã
gắn bó với chính quyền này trong những năm kháng chiến chống
Pháp nên họ không nỡ hoặc chưa nỡ dứt tình. Tôi không có
mảy may chút tình nào với bọn cầm quyền, tôi chủ tâm tiêu
diệt họ". Như thế, chẳng còn lý do gì để nhai mãi một
thứ bã trầu đã hết nước. Vả chăng, qua mấy tháng ròng rã,
ông đại tá Nguyễn Công Nhuận đã hiểu tôi là ai, và vì
thế, ông ta bèn chuyển sang giai đoạn xin cung.
Xin cung? Vì sao lại xin cung? Nghe có vẻ huyênh hoang khoác lác.
Thực chất, tôi chưa tìm được danh từ nào tương hợp hơn.
Tôi sẽ lý giải điều này ngay bây giờ.
Ngày họ bắt tôi, ông Mai Chí Thọ đang còn là bộ trưởng,
nhưng khi tôi đang ở trong tù thì ông này mất chức và ông Bùi
Thiện Ngộ lên thay.
Mai Chí Thọ hồi trẻ là trương tuần, đánh chết dân sợ Tây
bỏ tù nên trốn đi làm cách mạng. Được anh là Lê Đức Thọ
nâng đỡ nên nhẩy về nắm bộ nội vụ. Vốn không có nghiệp
vụ, lại hống hách nên ông ta bị các sĩ quan công an các cấp
vụ, cục vừa khinh bỉ vừa căm tức. Đã thế, Mai Chí Thọ
ngang nhiên bổ nhiệm Lê Tẩu, lái xe riêng của ông ta lên vị
trí Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần.
Lê Tẩu là ai, về mặt chính danh, y là lái xe riêng của Mai Chí
Thọ. Trên thực tế, y là kẻ tay chân tâm phúc, kẻ chuyên đưa
ông ta đi săn, đi nhậu và dẫn gái về cho "thủ trưởng
xài". Tổng cục Hậu cần là tổng cục "quyền sinh quyền
sát" trong lòng bộ nội vụ, chẳng những nó nắm các nguồn
tài chính quan trọng liên quan đến nghề "cảnh sát" mà nó
còn nắm hạ tầng cơ sở, mà khâu thiết thực nhất đối với
đời sống các quan chức là nhà đất.
Từ các khu tập thể đắt tiền dành cho các sĩ quan cao cấp cho
đến các khu cao tầng ít tiện nghi hơn dành cho sĩ quan cấp
thấp đều nằm trong tay Lê Tẩu, một mình y có quyền phân
phối. Vốn là tên lưu manh, vô học, bỗng chốc nhẩy lên đầu
lên cổ mọi người, Lê Tẩu thực thi quyền lực dưới hai áp
lực tâm lý: thói tàn ác của một thằng chánh tổng và mặc
cảm của kẻ hèn hạ, ngu dốt mới được đổi đời.
Vì lẽ đó, ai nịnh nọt y, ai chịu cúi luồn đút lót y đều
được phân phối các căn hộ đắt tiền, tại các khu sang
trọng. Ngược lại, kẻ nào khiến y ngứa mắt, dù dày công
hãn mã, dù hiển nhiên được ưu đãi theo chính sách cũng đều
bị hất cẳng ra ngoài. Tóm lại, Lê Tẩu hành xử bất lề
luật, ngang ngược đến mức đám sĩ quan trong bộ phẫn nộ
đâm đơn khiếu kiện, đó cũng là một trong các nguyên nhân
buộc Mai Chí Thọ rời võ đài.
Trong thời gian lãnh đạo tổng cục hậu cần, ngoài việc chèn
ép các sĩ quan trong bộ, những người mà y biết rằng kiến
thức văn hoá cũng như chuyên môn vượt hơn y năm bẩy cái
đầu, Lê Tẩu còn lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt
công quỹ, chuyển thành các biệt thự và các lô đất của
riêng y, bất động sản của y rải rác từ Sài Gòn cho tới
Vũng Tàu không kể các cơ sở sẵn có tại Hà Nội.
Quá trình "bốc vàng" không thể thực hành một cách nhanh
chóng nếu không có đội ngũ chân tay của y, bọn tội phạm
được tuyển chọn và trả công hậu hĩ. Tài sản của Lê Tẩu
không chỉ rút từ ngân quỹ quốc gia mà còn rút từ máu những
người dân thường, những người dám cưỡng lại sự chiếm
đoạt và các nhà báo theo rõi y.
Tôi cho rằng hiện tượng Lê Tẩu là hiện tượng đậm đà
bản sắc chế độ cộng sản, nơi mà quyền lực được thực
thi theo cách "bố thí", bất kể lề luật hay sự thẹn
thùng. Một tên lưu manh vô học chỉ nhờ công hầu hạ chủ
nhân, chỉ nhờ thành tích tu tạo được mảnh vườn nuôi hổ,
nuôi trăn và nuôi cá sấu cho quan thầy Mai Chí Thọ đã được
trả công bằng một chức vụ có thể khuynh loát biết bao nhiêu
người tài năng hơn, tất nhiên, những người cũng còn thực
lòng tận tuỵ với chế độ hơn. Vì lẽ đó, khi Mai Chí Thọ
ngã ngựa, đám sĩ quan cao cấp bộ nội vụ khao khát trả thù,
họ muốn tìm chứng cớ để đưa Lê Tẩu ra toà, muốn thằng
lưu manh từng nhục mạ họ phải ngồi bóc lịch trong nhà giam.
Đại tá Nguyễn Công Nhuận là một trong số các sĩ quan ấy.
Biết tiếng Anh và tiếng Pháp, là người trực tiếp hỏi cung
các phi công Mỹ trong chiến tranh, ông đại tá này được liệt
vào loại trí thức dày công hãn mã trong Bộ Nội vụ. Bị một
thằng ma cô thất học, viết tiếng Việt chưa chỉnh, nửa câu
tiếng Tây bồi cũng không biết, ngồi trên đầu trên cổ hà
hiếp mình nên ông ta "nuôi một khối căm hờn" trong dạ.
Vì lẽ đó, suốt mấy tháng ròng, ông Nhuận tìm cách thuyết
phục tôi cho ông ta các chứng cớ để có thể buộc Lê Tẩu ra
trước vành móng ngựa. Tôi dùng từ xin cung ở đây vì lẽ
ấy.
Theo sự nhận định của tôi, ông Nguyễn Công Nhuận cũng như
một số đồng liêu của ông ta là điển hình của giới công
chức: trung thực nhưng bảo thủ, họ tin đinh ninh rằng phục
vụ một lý tưởng tốt đẹp và chúi mũi vào làm việc theo
các sơ đồ cho sẵn. Họ thiếu sự linh hoạt cũng như thiếu
óc quan sát, họ không biết rằng thế giới đã đổi thay,
rằng trong đám thượng cấp, hạ cấp và đồng cấp của mình
biết bao kẻ đã thối rữa, đã biến hình, đã trở thành tội
phạm. Khi họ mở được mắt ra nhìn sự vật thì đã muộn
màng.
Thế nên, dù là những người có nghiệp vụ điều tra xét
hỏi, mà họ chẳng có nổi một manh mún chứng cớ trong tay.
Họ đã đánh mất cơ hội, họ quá chậm chân. Dù thành thục
trong nghề, dù tài ba lỗi lạc mà lỡ thời cơ thì cũng bại.
Cổ nhân dạy "Thời gian là vàng, cơ hội là kim cương"
chẳng sai một ly.
Tôi nhìn thấy tóc ông đại tá bạc đi từng ngày trong cuộc
đấu tranh vô vọng. Dù động cơ hành động của ông Nhuận là
chính đáng, và trong lòng có sự đồng cảm nhưng tôi cũng
không thể cho cung ông ta. Bởi tôi biết một cách đích xác
rằng, ông Nhuận cũng như các sĩ quan cùng phe nhóm không đủ
mạnh để chống lại băng mafia Mai Chí Thọ và Lê Tẩu. Vì
không đủ mạnh, họ sẽ không thể bảo vệ được các nhân
chứng. Nếu tôi mềm lòng mà cung cấp tin tức cho ông Nguyễn
Công Nhuận, lũ tội phạm sẽ thủ tiêu họ như chúng đã từng
thủ tiêu nhiều người khác trước kia.
Sau rốt, điều tôi có thể làm được là chấp nhận gặp Mai
Chí Thọ. Trong cuộc gặp ấy, ông Nguyễn Công Nhuận ngồi im
để nghe tôi sỉ nhục thượng cấp, kẻ thù của mình. Tôi có
đủ chứng cớ, tôi có thừa lòng khinh bỉ, tôi lại không
thiếu lời lẽ để khạc nhổ lên bộ mặt của tên sát nhân
này. Ông đại tá hẳn rửa được một phần nỗi uất hận.
Với tôi, đó là trò giải trí nhẹ nhàng. Nói theo giọng
người dân Quảng Bình là "không mất gì của bọ mà lại
được lòng lối xóm, bọ mần ngay!"
Nhìn toàn cục, trong chế độ cộng sản, sự thối rữa nhân
cách của các quan chức là không thể tránh. Một khi đã trở
thành quân ăn cắp, ăn cướp, kẻ truỵ lạc, tên sát nhân, ắt
đám người này phải ra khỏi cơn nhập đồng. Họ biết rõ
họ là ai. Thực hành quyền lực của Thượng đế trong khi
biết rõ bản thân là con vật bẩn thỉu, họ phải sống một
cách phân thân. Phức cảm của sự phân thân thường dẫn đến
hai trạng thái:
- Sự cường điệu, sự khoa trương, sự lên gân khi đeo mặt
nạ trước dân chúng.
- Sự sợ hãi một cách thầm kín, và cùng với sự sợ hãi
này, các toan tính cho tương lai.
Năm 1989, tại đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ V diễn ra
tại nhà quốc hội Ba Đình, ông Dương Thông lên diễn đàn, tay
giơ lên chém xuống, giọng oang oang hùng hổ, không nói mà hét
để đe nẹt công chúng: "Có rất nhiều văn nghệ sĩ nhận
tiền của bọn phản động nước ngoài. Rồi an ninh sẽ làm
việc với họ".
Ông Dương Thông không hiểu rằng những lời hù doạ một cách
thậm xưng lẫn thái độ khoa trương của ông ta ngay lúc ấy
đã khiến tôi ngờ vực. Nỗi ngờ vực ấy mau chóng biến
thành xác tín dưới ảnh hưởng của linh cảm. Do đó, tôi
quyết định thực hành cuộc ghi âm với việt kiều Bùi Duy
Tâm. Bà ngoại tôi dạy tôi câu này "Gái đĩ thì già mồm".
Tôi tin lời dạy của bà tôi và nhờ thế, tôi đã tìm ra bộ
mặt thật của Dương Thông.
© DCVOnline
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7025), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét