Đoan Trang - 65 năm một mùa thu...

<div class="boxright300"><img src="/files/u1/495798_6431273_n.jpg"
width="490" height="622" alt="495798_6431273_n.jpg" /></div>Hà Nội
sắp vào thu. Trời rất xanh và nắng rất trong, không còn
dấu vết gì của những ngày nóng 40 độ C vừa qua.

Người ta hay bảo mùa thu là mùa của thi sĩ, văn sĩ.
Nhắm mắt lại cũng nhớ ra bao nhiêu câu thơ, câu văn, câu
hát về mùa thu:

"<em>Em không nghe mùa thu</em>
<em>Lá thu rơi xào xạc</em>
<em>Con nai vàng ngơ ngác</em>
<em>Đạp trên lá vàng khô</em>" (Lưu Trọng Lư)

"<em>Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay</em>
<em>Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay</em>" (Thâm Tâm)

"<em>Sáng mát trong như sáng năm xưa</em>
<em>Gió thổi mùa thu hương cốm mới</em>" (Nguyễn Đình
Thi)

Riêng tôi đặc biệt thích đến thuộc lòng một đoạn
trích từ truyện ngắn "Chiếc mỏ neo" của Nguyễn
Phượng Cầu. Nhân vật chính của truyện là một nhà
báo u sầu. Truyện làm tôi thích và do đó, nhớ rất
lâu, tuy chẳng hiểu gì:

"<em>Trời lại vào thu năm 1993. Giữa những ngày mưa có
vài ngày nắng ráo. Nắng trong và sánh lại vàng như
mật. Cây lá trong vườn biếc xanh. Tôi lại đi qua những
khu vườn vắng, trên bãi cỏ lấm chấm một loài hoa dại
màu tím và từ đấy chập chờn màu vàng cánh bướm.
Trong một khoảnh khắc, tôi lại thấy Anna với khuôn mặt
ngời sáng cùng những đường nét thanh xuân đang ngồi
trên cỏ. Tôi vụt chạy đến, đàn bướm tỏa ra và bay
lên, một lúc sau màu vàng tụ lại trên một đám cỏ
khác. Tôi có bắt được con cá vàng nào trong cuộc
đời này? Tôi còn có thể bắt được con cá vàng nào
trong cuộc đời này? Trong một buổi chiều tôi đi qua
bến đò, cầu tre đã bị nước lũ cuốn trôi từ
trước đó, một mình lên núi Vạn. Trên chỗ cao nhất,
nơi ngày xưa từng đứng, tôi nhìn xuống thị trấn Sông
Lại, tôi nhìn vào trời mây, cặp bồ câu xưa giờ ở
nơi đâu?</em>

<em>Gió núi cuộn lên từ lũng xa sau một lúc rung từng
tán lá xào xạc giờ đã lặng hẳn. Tôi đứng yên, hai
tay chắp trước ngực, chờ nghe lời mẹ gọi: "Dậy!
Dậy học bài đi con!"…</em>".


<center>* * *</center>

Và mùa thu cũng là mùa gợi cho người ta nhớ lại
"những ngày thu năm xưa", năm 1945. Là kẻ hậu thế,
không có được dù chỉ một bức ảnh rõ ràng về
"mùa thu cách mạng" ấy, nhưng đã nhiều năm nay, gần
như tháng 8 nào, tôi cũng lần mò tìm gặp lại những
người từng sống qua năm 1945 lịch sử. Nhiều khi cũng
chẳng để làm gì, vì bài viết ra đâu có được đăng
tải – lý do nhạy cảm chỉ là một phần, phần còn lại
là do độc giả của báo chí được mặc định là không
thích những đề tài lục lọi quá khứ. Tôi cũng chẳng
biết có phải như thế không.

Nhưng tôi vẫn muốn tìm gặp những nhân vật ấy, để
nghe những câu chuyện của họ, để lục lại những mẩu
ký ức xa vời trong đầu họ. Và xót xa thấy cứ mỗi
năm, số gương mặt từng chứng kiến mùa thu lịch sử
1945 lại vơi đi dần.

Họ có thể là những ai? Là cô thiếu nữ Hà Thành ngây
thơ trong sáng, trốn bố mẹ đi "làm cách mạng", mà khi
tôi hỏi: "<em>Đi làm cách mạng là đi đâu hả
bác?</em>", thì cô thiếu nữ năm xưa trả lời:
"<em>Hồi đó tôi đâu có biết, người ta giao cho tôi báo
Cứu Quốc rồi bảo tôi đi phát, rồi gọi đấy là
"làm cách mạng" thôi</em>".

Họ là cậu thiếu niên 14-15 tuổi, người duy nhất trong
vùng được đi học trường Tây, nhưng rất căm thù thực
dân Pháp. "<em>Hồi đó ai mà chả ghét Pháp? Bọn nó
khinh mình, coi mình là An Nam mít, chửi mình, đá đít
mình. Ai cũng ghét Pháp, muốn đuổi nó đi</em>".

Họ là người trí thức thành phố, chưa biết sử dụng
súng đạn, nhưng một lòng đi theo Cách mạng: "<em>Hồi
đó, chúng tôi dũng khí thì có dư mà kinh nghiệm trận mạc,
tổ chức đội ngũ chả có gì. Cướp được súng của Nhật,
của Pháp, súng bự quá lại không biết cách tháo ra, cả chục
người phải xúm lại khiêng một khẩu</em>".

Họ là nhà tư sản (mà sau này sẽ được/bị phân loại
rõ ràng, hoặc là tư sản mại bản, hoặc là tư sản dân
tộc) đã đổ công đổ của nhà ra để phục vụ cách
mạng, từ bữa cháo gà cho các nhà cách mạng (miễn
phí, tất nhiên) đến khoản "tài trợ" hàng triệu
đồng Đông Dương, quy ra vàng lúc đó là hơn 5000 lượng.

Họ là những người đã hoạt động nội thành, trong
vùng bị tạm chiếm, đầy căng thẳng và nguy hiểm. Không
điện thoại di động, Internet – thời đó cơ sở hạ
tầng thông tin làm gì được như ngày nay – họ chỉ có
thể thỏa thuận trước với nhau tín hiệu riêng: Khi nào
mở cánh cửa sổ bên trái là có lính Pháp đi càn, khi
nào đóng nghĩa là an toàn. Cũng những con người ấy,
khi chiến tranh kết thúc, họ lúng túng, sượng sùng
trước mặt các đồng chí công an nghiêm khắc:

- Biệt thự này, các ông các bà bóc lột ai mà có
được?

Thế đấy. Tất cả những gương mặt ấy đã và đang
nhòa dần vào lịch sử đau thương của dân tộc.


<center>* * *</center>

Tôi có thể nói gì về những câu chuyện ấy, con
người ấy?

Tôi không đủ tư cách để nói gì nhiều. Tôi chỉ dám
nói một điều thôi, cũng là điều rất nhiều người
đã nói: Đó là, dù thế nào, lịch sử Việt Nam thế
kỷ 20 cũng đã có một thời kỳ rất đẹp – theo cái
nghĩa là toàn dân thống nhất một lòng chiến đấu
chống giặc ngoại xâm. Thời kỳ ấy đầy khói lửa,
máu xương, chết chóc, nhưng "đẹp" là vì sự đoàn
kết, vì tình người. Nhạc sĩ Phạm Duy gọi đó là
những năm "cả nước lên đường". Trước khoảng thời
gian ấy, ở Việt Nam, nhiều người ghét thực dân, nhưng
thật ra cũng sợ thực dân nữa. Chưa bao giờ cả một
dân tộc nhỏ bé, nghèo nàn lạc hậu, vùng lên chiến
đấu như thế.

Và thời kỳ đẹp đẽ ấy, như thói thường, rất ngắn
ngủi. Từ đó cho đến nhiều năm về sau, cho đến…
tận bây giờ, Việt Nam không có được một giai đoạn
nào "cả nước đứng lên", "toàn dân như một"
nữa. Bây giờ, lãnh đạo có kêu gào khản cổ "chống
tham nhũng", cũng chẳng ai buồn đáp lại bằng hành
động, và thật lố bịch nếu nghĩ rằng các cháu học
sinh, các em sinh viên sẽ cắm đầu vào học sau khi được
kêu gọi "học cho giỏi để mai sau kiến thiết nước
nhà". Cũng lố bịch không kém nếu ai đó tưởng rằng
các doanh nhân - những nhà tư sản dân tộc của ngày hôm
nay – sẽ hăng hái "thi đua sản xuất" để cạnh tranh
với hàng ngoại nhập, đưa nền kinh tế đất nước
vươn lên.

Bây giờ, mỗi lần gặp một nhân chứng của thời xưa,
nghe chuyện họ kể, tôi lại bần thần hồi lâu. Tôi tự
hỏi, các nhà lãnh đạo nói riêng hay tất cả những
người tự nhận là "trung thành với Đảng, với lý
tưởng cộng sản" nói chung, họ có biết họ đã đánh
mất một thứ quý giá lắm hay không? Thứ mà ngày xưa
họ đã từng có. Thứ mà giờ đây cực kỳ khó lấy
lại.

Đó là lòng dân.

Họ có biết không nhỉ? Biết quá đi chứ. Nhưng chắc
đối với họ, mất thì làm sao nào, quan trọng gì?

Vì thế cho nên…

… Trời vào thu, Việt Nam buồn lắm em ơi…

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5942), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét