Có lẽ đấy là kết luận chung nhất và cũng là quan trọng
nhất cho cộng đồng ASEAN có thể rút ra từ ARF 17 tại Hà Nội
và từ mọi hoạt động khác trong những tháng vừa qua của
ASEAN. Đoàn kết như thế cũng là phương thức hữu hiệu nhất
của ASEAN góp phần mình vào các mối quan hệ tốt đẹp và sự
thịnh vượng chung của toàn khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Cũng có thể nói với ARF 17, ASEAN giác ngộ thêm một
bước quan trọng về sức mạnh đoàn kết của chính mình. Và
điều này vô cùng hệ trọng cho tương lai ASEAN và cho mọi
điều tốt đẹp trong khu vực. Xin nhấn mạnh: Thành quả của
ARF 17 mớí chỉ là sự giác ngộ thêm một bước quan trọng
về đoàn kết thôi, cộng đồng ASEAN còn phải phấn đấu
nhiều để đoàn kết như thế trở thành một ý chí bất
khuất mạnh mẽ của mình, là nguồn sức mạnh tự bảo vệ
mình và phát triển!
<strong>I. Đoàn kết và khắc phục hiện tượng "ăn
mảnh"</strong>
Thành lập từ năm 1967, song cho đến hôm nay chưa bao
giờ có thể nói ASEAN là một cộng đồng mạnh so với nguyện
vọng hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển của chính
các nước thành viên ASEAN, so với khả năng của mình cho phép.
Cũng không thể nói được là mạnh, nếu đem ASEAN so với
nhiều cộng đồng khu vực có một tuổi đời tương tự như
thế ở những nơi khác trên thế giới. Càng không thể nói
được ASEAN là mạnh so với những thách thức từ bên ngoài mà
cả cộng đồng ASEAN phải thường xuyên đối phó. Khỏi phải
nói tôn chỉ, mục đích và bản chất tồn tại của cộng
đồng ASEAN không bao giờ nhằm chống lại một quốc gia nào
ngoài cộng đồng, nó hoàn toàn không có khả năng và không có
lợi ích theo đuổi một mục tiêu như thế.
Nguyên nhân cho đến nay chưa tạo ra được một sức
mạnh cộng đồng ASEAN đáng mong muốn như thế có nhiều, quy
kết cho hoàn cảnh chủ quan, khách quan hay sự phát triển quá
chênh lệch nhau và có quá nhiều khác biệt nhau... đều có cái
lý của nó. Song mặt khác cũng phải nói: Có bằng nào nguyên
nhân thúc bách sự hình thành và tham gia ASEAN, thì cũng có bằng
ấy đòi hỏi hay lợi ích giống nhau của các nước thành viên
trong việc hình thành và tham gia vào tổ chức này. Nếu cứ
chờ cho có sự phát triển đồng đều và có nhiều cái giống
nhau, thì sẽ chẳng bao giờ lập ra được ASEAN cả!
Vì vậy cái thiếu phải tìm cách khắc phục ngay để
làm ASEAN mạnh không phải là đi tìm sự phát triển đồng
đều chưa làm sao có ngay được. Cái thiếu phải thường xuyên
ra sức khắc phục để nâng cao sức mạnh của cộng đồng
ASEAN chính là những nỗ lực không bao giờ có thể nói là đủ
cho việc luôn luôn tìm ra sự đồng thuận vì lợi ích chung,
để thường xuyên tăng cường <strong>sức mạnh đoàn kết của
cộng đồng, vì cộng đồng</strong>.
Thực tế xảy ra trong cộng đồng ASEAN là lúc này lúc
khác từng nước thành viên ASEAN vẫn còn nhiều hiện tượng
hoặc là chỉ lo cho thân mình, hoặc tệ hơn nữa là chỉ quan
tâm đến lợi riêng của mình, tệ nhất là qua đó làm yếu
cộng đồng. Nói dân dã và thô thiển, có thể gói ghém tất
cả những biểu hiện này dưới cái tên chung là "ăn mảnh".
Căn bệnh "ăn mảnh" này rất dễ nhiễm tự bên trong nội
bộ từng nước ASEAN, đồng thời nó là đồng minh tự nhiên
cho chính sách chia để trị của cường quyền bên ngoài[1].
Đành rằng tạo ra đồng thuận trong hoàn cảnh có
nhiều hiện tượng phát triển không đồng đều và khác biệt
là rất khó. Ngoài ra cũng phải thừa nhận không thể lúc nào
cũng phân biệt được rành mạch giữa một bên là lợi ích
quốc gia chính đáng và một bên là hiện tượng "ăn mảnh".
Hãy lấy ra vài ví dụ trong thực tiễn để xem xét:
- Myanma có chế độ chính trị do giới quân sự nắm giữ và
vì nhiều lý do khác nhau có quan hệ mật thiết sống còn với
Trung Quốc. Campuchia đang là một nước nhận viện trợ rất
lớn từ Trung Quốc. Đòi hỏi hai nước này có thái độ rõ
ràng với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông là điều rất
khó. Thậm chí Phnompenh đã có lúc phản đối việc đưa vấn
đề Biển Đông vào chương trình nghị sự họp ASEAN. Đấy là
chưa nói vì những lý do dễ hiểu Trung Quốc có cách đối xử
khác và hầu như không đụng chạm đến 2 nước này chung quanh
vấn đề Biển Đông.
- Ký kết song phương Trung Quốc – Philippines năm 2004 về thăm
dò địa chấn khu vực Vành Khăn thuộc Trường Sa, bị Việt Nam
phản đối, sau trở thành ký kết 3 bên[2] với nhiều hậu quả
tai hại cho Tuyên bố về những nguyên tắc ứng xử ở Biển
Đông (DOC), chia rẽ nội bộ ASEAN và nội bộ Philipnes.
- Ký kết thành lập hợp tác 4 bên sông Mekong giữa Trung
Quốc, Thái Lan, Lào và Campuchia, không có Việt Nam, mặc dù từ
nhiều thập kỷ nay đã tồn tại Ủy ban Sông Mekong với tính
cách là một tổ chức khu vực – trong đó Việt Nam là thành
viên. Chưa nói đến chuyện Việt Nam là nước hạ nguồn chịu
nhiều tác động nhất mọi biến đổi của dòng sông này.
- Nhiều ký kết song phương về quan hệ kinh tế giữa một
bên là Trung Quốc và một bên là một thành viên ASEAN (như Thái
Lan, Philippines...) mang tính chất phân hóa nhiều hơn là thúc
đẩy hợp tác kinh tế giữa các nước trong và ngoài ASEAN...
- Trong khi cựu Thủ tướng Thaksin bị lật đổ đang bị chính
quyền Thái Lan đặt ra ngoài vòng pháp luật và truy nã, Thủ
tướng Hunsen lại chọn ông Thaksin làm cố vấn đặc trách cho
mình, như vậy làm sao mong đợi hai nước này có quan hệ tốt
với nhau, trong khi đó sự tranh chấp giữa hai nước về ngôi
đền Preach Vihear rất căng thẳng.
- Đặc biệt quan trọng là: Năm 1988 hải quân Trung Quốc tấn
công hải quân Việt Nam ở khu vực Trường Sa, năm 1995 hải
quân Trung Quốc tấn công hải quân Philippines ở khu vực Vành
Khăn thuộc Trường Sa; trong các ngày 29 và 30-04-2010 tầu chiến
Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Malaysia ở Biển Đông bị lực
lượng hải quân Malaysia đuổi đi..; trong những năm gần đây
xảy ra ngày càng nhiều các vụ tầu chiến Trung Quốc xâm phạm
vùng biển của các nước thành viên ASEAN tại Biển Đông và
có nhiều hành động vũ lực gây nhiều thiệt hại về tính
mạng con người và tài sản của một số nước trong vùng...
Phản ứng của các nước ASEAN nhìn chung yếu, có khi rất yếu
và có không ít trường hợp ngơ đi.
- Những năm gần đây Trung Quốc nhiều lần tuyên bố thẳng
thừng: "vùng lưỡi bò" chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông
là thuộc chủ quyền Trung Quốc, khẳng định chủ quyền này
là "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc và không thể tranh
cãi – như Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan!.. Cách đây 15 năm
Trung Quốc chưa sử dụng thứ ngôn ngữ đầy sắt thép và chưa
có nhiều hành động đầy thuốc súng kiểu ngoại giao pháo
thuyền như ngày nay trên Biển Đông. Ngôn ngữ tiếng Hoa trên
các báo mạng của Trung Quốc còn khủng khiếp hơn nhiều và
đang tiếp tục biện minh cho các hành động của Trung Quốc
trên Biển Đông. Song cho đến trước ARF 17, chưa có một lần
nào các nước thành viên ASEAN có thái độ thỏa đáng chung
hoặc của riêng từng nước lên án những hành động này của
Trung Quốc...
- Vân vân...
Nhà báo Greg Torode (<a
href="http://viet-studies.info/NguyenTrung/how_the_us_ambushed_china.htm">South
China Morning Post, 25 tháng 7, 2010</a>) nhận định, đại ý: Do có
khuynh hướng duy trì vẻ bề ngoài của tình anh em, nên ngay cả
Việt Nam (nước chịu đựng nhiều nhất những hoạt động vũ
lực của Trung Quốc trên Biển Đông) cũng hiếm khi lên án Trung
Quốc trước công luận, ...không ai muốn dẫn đầu (trong việc
lên án những hành động vũ lực của Trung Quốc), tất cả
mọi người đều chờ đợi để cùng nhau được an toàn...
Một người bạn tâm huyết của Việt Nam thổ lộ: Việt Nam là
quốc gia chịu đựng nhiều nhất các hoạt động lấn chiếm
và gây sức ép của Trung Quốc ở Biển Đông, song với tính
cách là người bị mất cắp mà anh không dám la làng, thậm chí
còn nói quan hệ của anh với nó đang rất tốt, thế thì còn ai
dám đứng ra bênh vực anh nữa? Nên anh phải thông cảm với
phản ứng yếu ớt của các thành viên ASEAN trong vấn đề
Biển Đông!...
<strong>II. Tiền đề quan trọng nhất cho giữ gìn hòa bình và
ổn định ở Biển Đông là chính tự thân các nước ASEAN
</strong>
Không có cách gì nhắm mắt trước thực tế là siêu
cường Trung Quốc đang dần dần nổi lên nhưng khá ồn ào trên
Biển Đông, đang gây ra nhiều lo âu cho các nước trong khu vực
này. Chưa nói đến hiện tượng đang xuất hiện siêu cường
này còn là vấn đề chung của cả thế giới, bởi lẽ tự
nhiên: xuất hiện diễn viên mới thường đi cùng với sân
khấu mới, trò chơi mới.
Dù ồn ào đến thế nào, sự đang xuất hiện siêu
cường Trung Quốc không phải là diễn ra trong một thế giới
chân không, mà là trong thế giới của thế kỷ 21 với tất cả
những điều kiện và trật tự mà thế giới này hiện tại
đang mang trong nó. Chí ít là đã và đang có một siêu cường
xuất hiện trước Trung Quốc là Mỹ và còn giữ được khoảng
cách đáng kể so với Trung Quốc, có các cường quốc và tập
hợp kinh tế, chính trị, quân sự mà Trung Quốc không thể bỏ
qua, đã có một trật tự quốc tế và những luật lệ quốc
tế mà dù là quốc gia nào cũng phải tuân thủ ở phạm vi nào
đó, hiện đang có một đời sống quốc tế mà văn minh loài
người ngày càng có nhiều giá trị chung; cạnh tranh luôn luôn
quyết liệt song không một quốc gia nào có thể đứng một
mình; sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia dù lớn
nhỏ thế nào ngày càng phụ thuộc vào cả cộng đồng thế
giới. Vẫn còn không ít hiện tượng cá lớn nuốt cá bé, song
luật rừng ngày càng thu hẹp... Vân vân và vân vân.... Điều
quan trọng đáng nhấn mạnh liên quan thiết thân đến các
nước ASEAN là: Trong một thế giới như thế ở thế kỷ 21,
các nước nhỏ giữ vai trò ngày càng quan trọng trong đời
sống của cộng đồng quốc tế, do chính sức mạnh của mình
và do sự tự ý thức được về chính mình tạo nên.
Nói ngắn gọn, chính cái bối cảnh của thế giới
hiện nay và trong những ngày tháng này đã dẫn tới tuyên bố
của Ngoại trưởng Hillary Rodham Clinton 23-07-2010 tại Hà Nội:
Mỹ coi việc giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền ở
Biển Đông và bảo đảm tự do lưu thông hàng hải ở đây là
"quyền lợi quốc gia" của Mỹ, ủng hộ quá trình hợp tác
ngoại giao đa phương cho việc tìm kiếm giải pháp hòa bình,
phản đối đe dọa hay sử dụng vũ lực của bất kỳ quốc gia
yêu sách nào...
Cái bối cảnh của thế giới không chân không như thế
đã khiến cho Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì này
27-07-2010 phản pháo lại: Tuyên bố của bà Ngoại trưởng H. R.
Clinton là nhằm "tấn công vào Trung Quốc". Phản ứng này là
hiểu được, bởi lẽ những đòi hỏi của Trung Quốc về chủ
quyền các đảo và "cái lưỡi bò" ở Biển Đông là phi lý,
trái với luật pháp quốc tế, và ngạo ngược; những đòi
hỏi này một mặt trực tiếp đi ngược lại lợi ích của
Mỹ về tự do lưu thông hàng hải và uy hiếp các đồng minh
của Mỹ trên nhiều phương diện, mặt khác trực tiếp xâm
phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cũng như an ninh của
các nước ASEAN trên Biển Đông.
Hiển nhiên, từ chỗ Tổng thống Obama khi mới nhậm
chức (11-2008) đã tìm mọi cách "engage" (lôi kéo, dẫn dụ)
Trung Quốc tham gia gánh vác trách nhiệm với cộng đồng quốc
tế, nhất là trong khuôn khổ G2 (Mỹ - Trung), đến tuyên bố
của bà Ngoại trưởng H. R. Clinton ngày 23-07-2010 tại Hà Nội
là một bước thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại của
Mỹ đối với Trung Quốc (có nhà báo nói là thay đổi 180
độ[3]) – nguyên do là Trung Quốc cho rằng Mỹ đang ở thế
yếu trong nhiều vấn đề lớn song phương và đa phương quan
trọng trên bàn cờ thế giới, và vì thế Trung Quốc tự cho
phép mình ngày càng "lấn tới" – đặc biệt là thái độ
của Trung quốc đối với vấn đề hạt nhân của Iran, đối
với vụ Bắc Triểu Tiên bắn chìm tầu chiến Hàn Quốc Cheonan
(19-05-2010), sự uy hiếp của Trung Quốc ngày càng trắng trợn
trên Biển Đông[4]...
Hiển nhiên, sự chuyển biến này của Mỹ (qua tuyên
bố của Ngoại trưởng H. R. Clinton) ngoài việc phục vụ lợi
ích của Mỹ và đồng minh, khách quan tự nó là một hỗ trợ
lớn hay là trùng hợp với lợi ích chính đáng của các quốc
gia Biển Đông đang bị Trung Quốc uy hiếp. Hiển nhiên tuyên
bố của Ngoại trưởng Dương muốn vin vào việc đổ lỗi cho
tuyên bố của H. R. Clinton "nhằm tấn công Trung Quốc" có 2
mục đích là (1) ngoài việc chống lại thái độ mới của Mỹ
về Biển Đông còn nhằm (2) bác bỏ mọi nỗ lực hòa bình và
ngoại giao đa phương của các nước ASEAN trong việc giải
quyết những tranh chấp ở Biển Đông, biện hộ cho giải pháp
song phương mà Trung Quốc muốn áp đặt để tiện bề áp dụng
chính sách chia để trị của mình. Nói một cách khác, bên
cạnh những lý do khách quan thuận (của Mỹ) và chống (của
Trung Quốc) cho việc giải quyết hòa bình những vấn đề của
Biển Đông, có sự tranh chấp và tình hình "đang nóng lên"
trong quan hệ song phương Mỹ - Trung trên bàn cờ thế giới.
Các nước ASEAN làm gì để khai thác tối đa mọi
thuận lợi mới trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay,
để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình và thực hiện
được giải pháp hòa bình cho các vấn đề ở Biển Đông, mà
không sa đà vào bên này hay bên kia giữa Mỹ và Trung Quốc
trong những vấn đề song phương của riêng hai nước này, cũng
hàm nghĩa là không để rơi vào hay tạo ra một sự trung lập
vô tính – nghĩa là ASEAN phải làm thế nào không được ba
phải, mà phải cổ vũ cho cái đúng, cái tốt, cái hợp với xu
thế phát triển của thế giới là tôn trọng luật pháp quốc
tế, vì hòa bình, dân chủ, tiến bộ và phát triển? Đây là
câu hỏi lớn, các nước ASEAN bắt buộc phải có câu trả
lời. Đơn giản là các nước ASEAN không thể bảo vệ lợi ích
chính đáng của mình bằng cách trở thành tù binh của bên này
hay bên kia, hoặc để quay về giam mình trong lạc hậu. Mà
ngược lai chỉ thông qua phấn đấu cho cái mới, cái tiến bộ
các nước ASEAN mới tạo ra được sức mạnh tự thân để
thực hiện và bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình,
để tiếp tục phát triển phồn vinh.
Nói đơn giản, sự hậu thuẫn của Mỹ cho những giải
pháp hòa bình và đa phương đúng đắn những vấn đề của
Biển Đông sẽ có nghĩa lý gì, nếu như nội bộ từng nước
ASEAN chìm đắm trong tham nhũng, chia rẽ, mất tự do dân chủ,
chẳng những không còn sức lực đâu mà đối phó với mọi uy
hiếp từ bên ngoài, mà còn tạo ra cơ hội cho sự can thiệp
từ bên ngoài? Làm sao từng nước ASEAN có thể bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của mình nếu thực lực
của từng nước không được thường xuyên bồi bổ và tăng
cường? Hơn lúc nào hết, là những quốc gia nhỏ yếu so với
những thách thức đang phải đối mặt trong khu vực, từng
nước và toàn thể cộng đồng ASEAN cần một nền ngoại giao
mạnh xuất phát từ một nền nội trị mạnh. Không bao giờ có
thể có một nền ngoại giao mạnh trên cơ sở một nền nội
trị bệnh hoạn quặt quẹo, kinh tế phụ thuộc vào cầu xin
viện trợ từ bên ngoài để sống. Hơn lúc nào hết, những
yếu kém đang tồn tại trong nền nội trị của nhiều nước
thành viên ASEAN là đồng minh tự nhiên của chính sách chia để
trị và mọi can thiệp từ bên ngoài, là kẻ thù nguy hiểm của
chính những quốc gia này, là yếu tố lớn nhất cản trở xây
dựng và phát triển ASEAN thành một cộng đồng mạnh.
Nói riêng về nước ta, nên từ đòi hỏi một nền
ngoại giao mạnh xuất phát từ một nền nội trị mạnh nhìn
nhận lại tất cả các yếu kém đối nội của mình, để
khắc phục, để tạo ra thực lực của chính mình. Đặt vấn
đề như vậy, không thể cứ một bề nhân danh giữ vững ổn
định và định hướng xã hội chủ nghĩa gạt bỏ những vấn
đề về tự do dân chủ và quyền con người, trong khi đó lại
thỏa hiệp hay mềm yếu với tham nhũng và mọi yếu kém khác,
không phát huy được đại đoàn kết dân tộc, kéo dài tình
trạng tụt hậu của đất nước trong một nền kinh tế chạy
theo tăng trưởng về số lượng, không bền vững và ô nhiễm
môi trường ngày càng trầm trọng. Cần thẳng thắn nhận
định những yếu kém mọi mặt của Việt Nam có nguyên nhân
sâu xa nhất trong những yếu kém của hệ thống chính trị và
trong tình trạng kinh tế lạc hậu. Thực tế này đang làm giảm
vị thế đối ngoại của đất nước, cản trở nghiêm trọng
đất nước ta theo đuổi một đường lối đối ngoại dấn
thân, chủ động vì lợi ích chính đáng của mình cũng như vì
trào lưu tiến bộ chung của thế giới. Quan trọng hơn nữa,
tự do dân chủ và quyền con người chẳng những là động lực
phát triển của chính nước ta, mà còn là ngọn cờ của trào
lưu tiến bộ trên thế giới ngày nay nước ta nhất thiết
phải chiếm lấy và giương cao. Làm sao có thể có một nền
ngoại giao dấn thân, đi với cả thế giới tiến bộ, nếu
thực lực của nước ta yếu và chính chế độ chính trị của
nước ta lại tìm cách đi ngược lại trào lưu tự do dân chủ
của thế giới?
Nói sát sườn hơn nữa, lợi ích thiết thân của Việt
Nam gắn bó mật thiết với ASEAN, đồng thời lợi ích này và
nghĩa vụ cộng đồng cũng đặt ra cho Việt Nam trách nhiệm
nặng nề phải tích cực chủ động đóng góp vào tăng cường
toàn diện ASEAN. Việt Nam làm sao đáp ứng được đòi hỏi này
nếu tự mình Việt Nam cứ giam hãm mình mãi trong tụt hậu,
không tạo ra được sự phát triển năng động cho chính mình?
Làm sao Việt Nam có thể đáp ứng được những đòi hỏi này,
nếu tự mình không vươn lên đứng trong hàng ngũ các quốc gia
tiến tiến, phấn đấu và cống hiến cho những giá trị cao
đẹp và cho xu thế tiến bộ chung trên thế giới?
Một chính khách, xin miễn nói tên và quốc tịch, hỏi
tôi: Thử cố tìm xem có cách nào ASEAN nhân nhượng làm dịu
bớt sức ép của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông không?
Bởi vì dĩ hòa vi quý!..
Tôi suy nghĩ mãi và bất lực. Trong lịch sử ngoại giao
tôi chưa tìm được một ví dụ nào cho phép gợi ý một giải
pháp kiểu như vậy cho vấn đề Biển Đông. Theo hiểu biết
của tôi, thỏa hiệp điển hình nhất từng có trong lịch sử
quan hệ quốc tế có lẽ là Hiệp ước Ribentrov – Molotov ký
năm 1939 giữa Liên Xô và Đức. Đấy là thỏa hiệp được cam
kết giữa hai quốc gia "nặng ký" ngang nhau, đủ sức ăn
miếng trả miếng nhau, thế mà cuối cùng Liên Xô vẫn bị
nước Đức quốc xã bất ngờ tấn công trước. Thử hỏi trong
khu vực Đông Nam Á này có quốc gia Biển Đông nào nặng ký
ngang ngang Trung Quốc để tìm kiếm một giải pháp nhân nhượng
hay thỏa hiệp kiểu như thế?
Hơn nữa, nói riêng về Việt Nam, lịch sử 15 năm Việt
Nam vào ASEAN cũng là lịch sủ 15 năm Việt Nam nói riêng và ASEAN
nói chung hết sức nhân nhượng và tự kiềm chế đến mức
tối đa đối với Trung Quốc trong mọi vấn đề của Biển
Đông. Nhưng cho đến hôm nay, sức ép của Trung Quốc trên Biển
Đông đối với Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung đang giảm
đi hay đang ngày một gia tăng? Đấy có phải là lối thoát cho
các nước ASEAN trong đó có Việt Nam hay không? Hiển nhiên là
không!
Tôi còn đi xa đến mức tự đặt cho mình câu hỏi
giả định rằng Việt Nam có thể ve vãn, thỏa hiệp tối đa
với Trung Quốc trong mọi chuyện tranh chấp với Trung Quốc ở
Biển Đông... Trong trường hợp như thế liệu Việt Nam có
được yên thân không? Hoặc giả thiết rằng Trung Quốc sẽ
chủ động có một thỏa hiệp riêng rẽ nào đó dành cho Việt
Nam trong tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam có dám nhận không?
Tôi chỉ tìm được câu trả lời: Tìm kiếm hay chấp nhận
thỏa hiệp như thế là tự sát, và tôi nghĩ rằng nếu mình
ấu trĩ như thế thì mình cũng rất đáng chết! Tìm kiếm hay
chấp nhận một thỏa hiệp như thế chẳng những là tự mình
phản bội lại chính mình mà còn là phản bội lại cả cộng
đồng ASEAN. Tôi nghĩ rằng nhân dân ta nói riêng và nhân dân
các nước ASEAN không bao giờ chấp nhận một thỏa hiệp như
thế. Bởi lẽ đơn giản, lịch sử đã chứng minh không thể
chối cãi: Việt Nam chưa bao giờ và chắc chắn sẽ không bao
giờ có thể có chỗ đứng của mình trong chính sách ngoại giao
bá quyền của Trung Quốc. Việt Nam chỉ có thể tìm kiếm chỗ
đứng của mình trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc
bằng cách đứng trên đôi chân của mình với tính cách là
một đối tác độc lập, có thực lực và được tôn trọng.
Người chính khách nọ hỏi tôi tiếp: Nhỡ ra một
thành viên ASEAN nào đó tìm kiếm một thỏa hiệp ăn mảnh như
thế thì sao? Mà những ví dụ ăn mảnh như thế đâu có hiếm
gì trong thực tiễn đời sống ASEAN? Không thể loại trừ một
khả năng như vậy.
Ý kiến của tôi: Không! Dù là không ngoại trừ một
khả năng như vậy. Tôi không muốn giao cho mình nhiệm vụ trả
lời thay cho nước nào cả. Vấn đề đặt ra cho nước nào thì
nước đó phải trả lời. Nhưng là người Việt Nam, câu trả
lời của riêng tôi nghĩ cho nước tôi là: Hãy nói "Không!"
với một thỏa hiệp như thế!
Vậy đoàn kết và có thực lực, chứ không phải tự
ai người nấy lo theo kiểu "ăn mảnh", đấy mới là lối
thoát cho các nước ASEAN trong việc giữ gìn hòa bình, ổn
định ở Biển Đông. Thiết nghĩ đó cũng là câu trả lời
của Việt Nam cho Việt Nam. Tôi tin như vậy. Cũng không có
chuyện Việt Nam ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng cho ASEAN đâu.
Trong bài "Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế
kỷ 21" tôi đã có dịp trình bày: Tìm kiếm một quan hệ láng
giềng kiểu nhân nhượng hay thỏa hiệp như thế với Trung
Quốc, Việt Nam sẽ chỉ được sắm vai thằng hầu, con điếm
hay tên tốt đen thiêu thân. Sẽ chẳng có ý thức hệ nào thay
đổi được điều này.
Thậm chí riêng tôi trong đầu còn nghĩ trong tình hình
cụ thể hiện nay phải tính đến khả năng vào một thời
điểm nhất định, do xẩy ra những sự cố nhất định đâu
đó trên thế giới, không loại trừ Trung Quốc có thể dùng dao
trâu mổ gà cho một bước đi chiến thuật nào đó trong tầm
tay của mình, vào chỗ xung yếu nhất có thể trên bàn cờ khu
vực Đông Nam Á này – để "nắn gân" tất cả các thành
phần can dự, để "nuôi dưỡng khí thế trong nước", để
giải quyết một vấn đề gì đó trong nội bộ Trung Quốc,
để thăm dò và giọn đường cho nhiều toan tính khác nữa,
để tạo ra một sự việc đã rồi ("fait accompli" – một
sự việc đã xảy ra không thay đổi được nữa), để làm
những chuyện mà "bài học" tháng 2-1979 đã "dạy" chúng
ta… … …Xin đừng hiểu nhầm suy nghĩ này của tôi là chịu
ảnh hưởng những tác phẩm văn học "Tam quốc chí",
"Đông Chu liệt quốc".., mà là cuộc sống quan hệ Việt –
Trung hơn nửa thế kỷ nay dạy tôi như vậy. Ngay trong những
ngày này (29, 30-07-2010), sau khi tập trận bắn đạn thật trên
Biển Đông, Trung Quốc tiếp tục cho các tầu ngư chính xâm
phạm vùng biển này với nhiều lời tuyên bố chính thức rất
ngang ngược. Sống bên cạnh một quốc gia mục tiêu biện minh
cho mọi biện pháp như thế, Việt Nam chỉ có thể lựa chọn
mối quan hệ dựa trên bản lĩnh của chính mình. Trong lịch sử
của mình, đây không phải là lần đầu tiên Việt Nam phải
lựa chọn như thế. Không từ nan giành một thuận lợi nào cho
hòa bình, dù nhỏ nhất, song bản lĩnh thì không thể thiếu.
Gìn giữ và phát triển mối quan hệ láng giềng vì hòa bình,
sự phát triển phồn vinh và hữu nghị giữa Việt Nam và Trung
Quốc là một trong các lợi ích sống còn của Việt Nam, hiển
nhiên lịch sử đã chứng minh mục tiêu này chỉ có thể đạt
được với một Việt Nam bản lĩnh như thế. Hiện tại và
tương lai cũng sẽ như vậy.
Có thể nói dứt khoát: Trật tự thế giới và luật
pháp quốc tế hiện có, xu thế tiến bộ chung của thế giới,
những thuận lợi mới cho gìn giữ hòa bình ổn định vì hợp
tác và phát triển trên Biển Đông, Tuyên bố về những nguyên
tắc ứng xử ở Biển Đông ký kết giữa các nước ASEAN và
Trung Quốc năm 2002 (DOC), triển vọng nâng cấp DOC lên thành COC
(Code of Conduct – với nội dung có nhiều ràng buộc pháp lý
đối với các nước ký kết), vân vân.., tất cả những yếu
tố này chỉ thực sự có ý nghĩa cho giải pháp hòa bình những
tranh chấp ở biển Đông khi mỗi quốc gia thành viên ASEAN tạo
ra được sức mạnh tự thân và có ý thức sâu sắc về đoàn
kết cộng đồng của chính mình. Đây là tiền đề quan trọng
bậc nhất. Cũng chỉ với sức mạnh tự thân như vậy từng
nước và cộng đồng ASEAN mới không bao giờ phải trở thành
tù binh của bên nào, dù bàn cờ thế giới xoay vần ra sao.
<strong>III. Đòi hỏi sống còn: Tăng cường ASEAN vững
mạnh</strong>
Mọi thách thức nguy hiểm nhất đối với toàn vẹn
chủ quyền và lãnh thổ, hòa bình và ổn định của các nước
ASEAN liên quan đến Biển Đông vẫn đang ở phía trước, đơn
giản vì (1)vẫn chưa có giải pháp cho các vấn đề tranh chấp
trên Biển Đông, (2) tuyên bố của Trung Quốc khẳng định chủ
quyền về Biển Đông là "lợi ích cốt lõi" của mình và
sự uy hiếp ngày càng lớn của hải quân Trung Quốc trên Biển
Đông đang tăng thêm căng thẳng trong khu vục, khiến cho nhiều
nước ASEAN phải dồn sức tăng cường lực lượng vũ trang
của mình, (3)nguy cơ tranh chấp trên Biển Đông giữa một bên
là các nước ASEAN và một bên là Trung Quốc bị tác động
bởi những tranh chấp song phương mang tính toàn cầu giữa một
bên là Mỹ và một bên là Trung Quốc đang có khuynh hướng gia
tăng – các nước nhỏ bao giờ cũng là nạn nhân không ít thì
nhiều của loại tác động này.
Một đòi hỏi và đồng thời cũng là một thách thức
lớn khác là các nước ASEAN phải tạo ra được nhịp điệu
tăng trưởng và phát triển kinh tế hài hòa với sự phát
triển năng động của kinh tế Trung Quốc, từ đó tạo ra cho
mình khả năng hợp tác kinh tế cùng có lợi với Trung Quốc,
củng cố cho những mối quan hệ hòa bình, hữu nghị và hợp
tác đã đạt được trong mọi lĩnh vực khác trong quan hệ với
Trung Quốc. Xin đừng lúc nào quên, để gìn giữ, phát huy
những mối quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia trong toàn bộ
khu vực Đông Nam Á – cụ thể ở đây được hiểu là giữa
các nước ASEAN và Trung Quốc – bên cạnh việc giải quyết
hòa bình những vấn đề tranh chấp, điều quyết định là
phải không ngừng tăng cường các mối quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhau song phương và đa phương một cách bình
đẳng cùng có lợi trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tranh
chấp dù sao cũng chỉ là nhất thời, chung sống hòa bình mới
là vạn đại. Chính vì thế những mối quan hệ và sự hợp
tác cần phải có này mới là những yếu tố cơ bản, tạo ra
sự tin cậy lẫn nhau và cung cấp mọi điều kiện cho phát
triển những mối quan hệ bền vững vì lợi ích của tất cả
các bên.
Châu Á đang trở thành khu vực năng động nhất trong
phát triển của kinh tế thế giới, với vai trò như vậy châu
Á có ý nghĩa ngày càng tăng đối với hòa bình và sự phát
triển của thế giới. ASEAN là một bộ phận của châu Á và
là đối tác của hầu hết mọi quốc gia và của mọi tổ
chức quốc tế và khu vực trên thế giới, với ý nghĩa đó
ASEAN cũng phải tạo ra sự phát triển năng động của chính
mình để gánh vác vai trò của mình trong cộng đông thế giới.
Trong khi đó, như đã nêu lên trong phần I, bản thân
cộng đồng ASEAN còn rất nhiều vấn đề phải vượt qua để
tạo ra sự phát triển nhất thiết phải có của chính mình và
để bảo vệ lợi ích chính đáng của từng nước cũng của
cộng đồng và để trở thành một tổ chức hợp tác kinh tế
có thực chất cũng như khuyến khích hợp tác trên các lĩnh
vực khác trong nội bộ ASEAN. Hơn nữa, vì yêu cầu phát triển
của chính mình, giữa các nước ASEAN có rất nhiều vấn đề
kinh tế, khoa học kỹ thuật, môi trường đang đòi hỏi không
ngừng mở rộng hợp tác đa phương, song phương trong nội bộ
cộng đồng ASEAN cũng như với thế giới bên ngoài. Sự hợp
tác như vậy đò hỏi nhiều nỗ lực rất lớn của tất cả
các nươc thành viên.
Trong khi đó bản thân ASEAN cũng đang lần lượt dành
thêm những bước phát triển mới: Từ thể chế ARF (Diễn đàn
khu vực Châu Á) phát triển thêm thể chế EAS (Họp Thượng
đỉnh Đông Á). Tình hình này có nghĩa vai trò, ảnh hưởng và
trách nhiệm của ASEAN trong cộng đồng thế giới ngày càng
lớn, đòi hỏi từng nước và cả cộng đồng ASEAN phải có
nhiều nỗ lực mới. Ngay trước mắt, tinh thần của ARF 17
đòi hỏi tất cả các nước thành viên ASEAN phải có những
nỗ lực thỏa đáng để những ý tưởng tốt đẹp về các
giải pháp ngoại giao hòa bình đa phương cho những vấn đề
tranh chấp trên Biển Đông trở thành hiện thực.
Tất cả 5 loại vấn đề vừa nêu trên do tự thân
cuộc sống đặt ra và đều dồn vào một yêu cầu chung cho
các nước thành viên ASEAN: Phải tăng cường toàn diện cộng
đồng ASEAN. Từng nước thành viên và cả cộng đồng ASEAN
chỉ có có thể đáp ứng yêu cầu chung vô cùng quan trọng này
bằng cách thực hiện: Đoàn kết trong từng nước và đoàn
kết trong toàn cộng đồng ASEAN để tạo ra sức sống mới cho
chính mình. Nền tảng vững chắc cho đoàn kết như thế chỉ
có thể là những giá trị tiến bộ trong mỗi nước thành viên
và sự đồng thuận lớn nhất của cả cộng đồng ASEAN.
Cuộc sống đang chứng minh đoàn kết trong từng nước
và trong toàn thể cộng đồng ASEAN mang lại hòa bình, ổn
định và phát triển cho từng nước thành viên và cho toàn
cộng đồng, và đấy cũng là con đường ASEAN tạo ra khả năng
thực hiện nghĩa vụ khu vực và quốc tế của mình./.
Hà Nội, 30-07-2010
Tài liệu tham khảo:
1. Gordon F. Chang, <a
href="http://www.forbes.com/2010/07/28/china-beijing-asia-hillary-clinton-opinions-columnists-gordon-g-chang.html?boxes=Homepagechannels">Hillary
Clinton Changes America's China Policy</a>, Forbes, 28-7-2010
2. "Direct bilateral dialogue best way to solve disputes" - MFA China
26-07-2010.
3. Nguyễn Trung, <a
href="http://tuanvietnam.net/2010-07-28-bien-dong-hoa-binh-song-phuong-da-phuong-quoc-te-hoa-">"Biển
Đông: Hòa bình song phương? Đa phương? Hay quốc tế hóa?"</a>
– TVN 28-07-2010.
4. Greg Torode, <a
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/how_the_us_ambushed_china.htm">"How
the US ambushed China in its backyard. and what happens next,"</a> South
China Morning Post. 25-7-2010
5. Một số bài báo khác về ARF 17.
[1] "Bất kể một ký kết tay đôi nào giữa một bên là Trung
Quốc và một bên là một nước thành viên ASEAN về những vấn
đề có liên quan đến Biển Đông đều có nguy cơ gây nghi kỵ
giữa các nước ASEAN với nhau và làm suy yếu cộng đồng này,
điều này đồng nghĩa làm tăng thêm nguy cơ gây mất hòa bình
và ổn định trong khu vực." – tìm xem: Nguyễn Trung, "Biển
Đông: Hòa bình song phương? Đa phương? Hay quốc tế hóa?" –
TVN 28-07-2010.
[2] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, "Biển Đông: Hòa bình song
phương? Đa phương? Hay quốc tế hóa?" – TVN 28-07-2010.
[3] Bình luận của Gordon G. Chang trên tạp chí Forbes ngày
28-07-2010.
[4] "Sự tiến lên phía trước mà không bị trở ngại của
Bắc Kinh để thống trị toàn cầu vừa gặp phải sự kháng
cự" - Gordon G. Chang
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5922), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét