width="400" height="199" alt="13.jpg" /><div class="textholder">Người
Việt, tờ báo Cộng đồng lớn nhất ở Mỹ về số lượng
phát hành đã từng bị xem là "thân Cộng" - Ảnh:
OnTheNet</div></div>
Người Việt đã bỏ quê hương ra đi trong tình thế đất
nước ngả nghiêng. Vì thế trong suốt 35 năm qua, người Việt
lưu vong lúc nào cũng nghĩ rằng phải làm một cái gì cho quê
hương. Người Việt chống lại nhà cầm quyền cộng sản ở
Hoa Kỳ và các nước phương Tây đã lập ra nhiều lực lượng,
đảng phái, phong trào hay hội đoàn để xiết chặt hàng ngũ
và tranh đấu cho dân chủ tự do của quê hương. Nhưng phải
thành thật mà nói, cho đến nay người Việt hải ngoại vẫn
chưa thực hiện được điều gì đáng kể cho đất nước.
Tại sao? Với những nỗ lực đấu tranh hiện tại, rồi Cộng
đồng người Việt hải ngoại sẽ đi tới đâu?
Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta phải lược qua lịch
sử di dân của nước Mỹ để xem những người đi trước đã
suy nghĩ và hành động như thế nào, sau đó thử nhìn về con
đường mà người Việt hải ngoại đang theo đuổi.
<h2>Lịch sử di dân của Mỹ</h2>
Qua các cuộc nghiên cứu về lịch sử di dân của Hoa Kỳ, chúng
ta thấy hiện tượng chia rẽ không phải là một hiện tượng
duy nhất của cộng đồng người Việt. Nhìn lại lịch sử di
dân của Hoa Kỳ, chúng ta thấy ngay từ bước đầu đi lập
quốc, hiện tượng này đã rất trầm trọng. Sau dây là một
số nguyên nhân chính đưa đến hiện tượng chia rẽ.
<h3>1. Chia rẽ vì khác nhau về chủng tộc, về quốc tịch, về
tôn giáo và về văn hóa</h3>
Những người Anh và người Âu Châu đầu tiên đến lập cư
tại miền Đông Bắc Hoa Kỳ đã chia nhau thành từng nhóm, tùy
theo ngồn gốc, quốc tịch, tôn giáo, văn hóa hay mục tiêu khai
thác, mỗi nhóm đi về một ngã. Một thời gian sau, các nhóm
này đã tùy theo khu vực khai thác được, chia vùng Đông Bắc
Hoa Kỳ thành 13 lãnh địa khác nhau, mỗi lãnh địa sinh hoạt
độc lập.
<h3>2. Chia rẽ do những mối cựu thù đem từ Âu Châu sang</h3>
Khi đến Bắc Mỹ, nhiều người Âu Châu đã mang theo những
mối hận thù có từ khi còn ở Âu Châu, như những mâu thuẫn
giữa các giai cấp trong xã hội Âu Châu, những đối kháng
giữa Tin Lành và Công Giáo, những tranh chấp giữa các giáo
phái Tin Lành, giữa các chủng tộc… Với những mối cựu thù
đó, họ biến Bắc Mỹ thành nột chiến trường mới. Mỗi khi
có một cuộc xung đột hay một trận chiến xẩy ra tại Âu
Châu, những người di dân có liên hệ chủng tộc, tôn giáo, phe
phái hay quốc gia với các bên lâm chiến, lại chia thành những
lực lượng đối nghịch nhau. Sự liên hệ với mẫu quốc lúc
đầu là nguyên nhân chính đưa tới các sự xung đột.
<h3>3. Chia rẽ do tranh giàng đất đai khai thác</h3>
Việc khai phá đất đai mới cũng đưa đến những xung đột
khác. Những người gốc Anh, Hòa Lan và Đức muốn đất đai
của họ ngày càng được mở rộng. Họ không chú ý đến
quyền sở hữu của người da đỏ và bắt những bộ lạc này
phải ký thỏa hiệp nhường đất cho họ. Trong khi đó, người
Pháp xúi người da đỏ chống lại sự bành trướng của
người Anh bằng cách cung cấp cho những người này vũ khí và
các dụng cụ chiến tranh khác. Người Anh tràn vào cả những
khu vực của người Pháp và người Tây Ban Nha để mở rộng
thêm đất đai. Khi những người Anh này bị đẩy lui hoặc
chết, những người Anh khác tìm cách báo thù.
Sự xung đột trở nên lớn hơn khi các lực lượng đối
nghịch là những quốc gia đi kiếm thuộc địa. Nước Anh,
nước Pháp và nước Tây Ban Nha đã đem quân khai chiến với
nhau để tranh giành đất đai nhằm kiến tạo những đế quốc
riêng. Bất cứ một phòng tuyến mới nào của Anh, của Pháp hay
của Tây Ban Nha được dựng lên bên kia dãy Appachia đều
được coi như là mối đe dọa của hai quốc gia kia. Lúc đầu,
cuộc chiến này nhằm thay đổi những phần lãnh thổ nhỏ, sau
trở thành cuộc chiến nhằm làm bá chủ vùng Bắc Mỹ.
Sự tranh giành đất đai giữa đế quốc Anh và đế quốc Pháp
đã chia vùng đất Bắc Mỹ thành hai quốc gia riêng biệt.
Người gốc Anh di dân trước đã tiên đến vùng Đông Bắc Hoa
Kỳ, còn người gốc Pháp tiến về Canada. Năm 1749, một toán
gồm 200 lính Pháp và người da đỏ rời Quebec bằng thuyền,
tiến theo sông St. Lawrence đi về thung lũng sông Ohio. Đi đền
đâu họ cũng dựng lên một cái bảng có khắc câu: "Đất
này thuộc Hoàng Đế Pháp". Thế là xung đột giữa người
gốc Anh và người gốc Pháp bùng nổ. Cuộc chiến giữa Anh và
Pháp trên đất Mỹ đã kéo dài từ năm 1754 đến năm 1763 mới
chấm dứt bằng Hiệp Ước Paris.
<h3>4. Cãi nhau về lòng yêu nước và lòng trung thành</h3>
Khi cuộc chiến giữa Anh và Pháp vừa chấm dứt, những tranh
chấp giữa những người di dân và nước Anh lại xẩy ra.
Nước Anh muốn vùng đất mới khai thác được đặt thuộc
quyền cai trị của Anh Hoàng, còn những người di dân muốn
được tự trị. Cuộc chiến lại bùng nổ. Mãi đến năm 1776,
người di dân mới đánh bại được quân đội của Anh quốc
và công bố độc lập vào ngày 4/7/1776.
Trong khi cuộc chiến chống Anh quốc đang diễn ra và ngay cả sau
khi cuộc chiến này chấm dứt, những nứt rạn trong nội bộ
của người di dân cũng rất trầm trọng. Những người di dân
gốc Anh chia thành hai phe, một phe cương quyết tranh đấu cho
tự do, còn một phe nghĩ rằng họ phải tiếp tục trung thành
với Anh quốc. Những người muốn một nước Mỹ độc lập
gọi họ là "Patriots" (Những người yêu nước), còn những
người nghĩ rằng phải trung thành với nước Anh tự xưng là
"Loyalists" (Những người trung thành). Cuộc tranh luận giữa
hai phe không những chỉ xẩy ra nơi công cộng mà còn xẩy ra
trong gia đình nữa.
Một số người di dân trung thành với nước Anh không chịu
chiến đấu chóng lại quân đội Anh. Một số khác còn cầm
súng chống lại những người được gọi là "Yêu Nước"
hay từ bỏ Mỹ qua cư ngụ ở Canada.
<h3>6. Chia rẽ về chính sách quốc gia</h3>
Sự chia rẽ giữa những người di dân trở nên nghiêm trọng khi
có cuộc tranh luận về việc thành lập một nước Hoa Kỳ
thống nhất và nhất là chính sách đối với những người nô
lệ. Miền Bắc chủ trương giải phóng nô lệ trong khi Miền Nam
chống lại. Cuộc tranh luận này đã đưa đến cuộc nội
chiến giữa Nam và Bắc Mỹ từ 1861 đến 1865, làm cả hai bên
thiệt mạng khoảng 620.000 người. Lúc đó, dân số nước Mỹ
chỉ mới có 31,5 triệu người.
<h2>Con đường đưa tới đoàn kết</h2>
Qua một thời gian tranh chấp nhau vì chủng tộc, vì tôn giáo và
văn hóa, vì những mối cựu thù, vì đất đai khai thác, vì
lòng trung thành với mẫu quốc hay vì chính sách quốc gia…,
những người di dân cảm thấy cần phải đoàn kết lại vì
nhiều lý do. Sau đây là những lý do chính:
<h3>1. Khi có kẻ thù trước mắt</h3>
Năm 1690, người da đỏ nhận thấy đất đai và tài sản của
họ ngày càng bị xâm chiếm, đã mở nhiều đợt tấn công vào
các khu vực mà người di dân đang khai thác, trước tiên là vào
hai vùng Schenectary và New York, tàn phá Salmon Falls ở New Hampshire.
Năm 1697 người da đỏ tấn công vùng Haverhill và Massachusetts.
Trong những năm kế tiếp, người da đỏ tấn công khắp mọi
biên giới mà những người di dân đã lập ra. Trước tình
trạng này, những người di dân đã phải tổ chức thành đội
ngũ và liên kết lại với nhau để tự vệ. Tất cả 13 lãnh
địa đã chiến đấu bên nhau, nhờ đó họ bắt đầu hiểu
biết nhau nhiều hơn và học cách hợp tác với nhau.
Cuộc chiến tranh chống lại đế quốc Pháp và đế quốc Anh
cũng đã khiến cho những người di dân phải liên kết với
nhau.
<h3>2. Sự kết hợp do thời gian và nhu cầu thực tế</h3>
Qua hai thế hệ đầu, đến thế hệ thứ ba, những người di
dân mất dần ý thức về những gì liên quan đến quốc gia
gốc của mình, họ tự coi mình là công dân của một quốc gia
mới, không có liên hệ gì đến quốc gia bên Âu Châu nữa. Họ
ngồi lại với nhau để tính chuyện xây dựng quốc gia mới.
Tuy nhiên, việc thiết lập một chế độ mới tại Hoa Kỳ
không phải là chuyện dễ dàng. Tuy xa mẫu quốc, một số
người di dân khi xây dựng một chế độ mới, vẫn thích mô
phỏng các hình thức tổ chức công quyền tại quốc gia cũ
của mình, trong khi đó đa số muốn tổ chức một hệ thống
công quyền mới thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Mỗi lãnh
địa đã hình thành một cơ quan lập pháp riêng. Một số nơi
gọi cơ quan lập pháp đó là quốc hội. Tại Virginia gọi là
Viện Burgesses. Dù tên được đặt khác nhau, nhưng tất cả các
cơ quan này đều do dân bầu. Nước Anh tuyên bố không nhìn
nhận các cơ chế đó, nhưng những người di dân không quan tâm.
Họ thấy rằng họ có quyền quyết định lấy những tổ chức
công quyền riêng của người Mỹ. Năm 1754, ông Benjamin Franklin
đã đưa ra Kế Hoạch Liên Bang Albany nhằm thống nhất các lãnh
địa. Mặc dầu kế hoạch đó không được áp dụng, nhưng từ
ý niệm đó những người di dân tìm ra được phương thức
tốt nhất để thống nhất đất nước.
<h2>Tình trạng Cộng đồng người Việt tại Mỹ</h2>
<h3>1. Giống mà không giống</h3>
Giữa người Mỹ gốc Âu Châu đến đây vào thế kỷ 18 và 19
và người Việt di dân hôm nay có những gì giống nhau và khác
nhau?
Người Mỹ gốc Âu Châu ngày xưa đã đến đây là để thoát
khỏi cảnh áp bức trên quê hương hay để tìm một cuộc sống
mới. Sau thời kỳ tranh chấp, người Mỹ gốc Âu Châu đã
chọn nơi này làm quê hương và biến nước Mỹ thành một
nước văn minh và giàu có nhất thế giới. Họ không còn có
chút ý niệm gì về quê hương ngày xưa của họ ở bên kia
Đại Tây Dương.
Người Việt cũng đã tìm đến đây để thoát khỏi cảnh áp
bức và nghèo đói trên quê hương, và xây dựng một cuộc
sống mới. Tuy nhiên, có nhiều điểm khác biệt giữa người
Việt di dân với người Âu Châu di dân ngày xưa. Sau đây là hai
điểm khác biệt chính:
Khác biệt thứ nhất, người Việt đến đây khi quốc gia này
đã hình thành và phát triển nhất thế giới, người Việt
chỉ là người những hội nhập (integrators), không phải lo
chiến đấu để chính phục và xây dựng một đất nước mới
như người Âu Châu ngày xưa. Vì là người hội nhập, người
Việt tỵ nạn phải tuân theo tất cả các luật lệ và chính
sách của đất nước này.
Khác biệt thứ hai, đa số người Việt khi ra đi đều mang trong
lòng một mối hận thù lớn, nên khi đến Mỹ thường nghĩ
rằng ngoài việc hội nhập, họ còn có trách nhiệm phải
"giải phóng" quê hương khỏi chế độ động sản. Thậm
chí có người còn nghĩ rằng họ phải trở về lãnh đạo
quốc gia hay tham chánh như ngày xưa. Vì thế, tại những vùng
có đông người Việt tập trung như Orange County, San José,
Houston…, một hình thức Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) nối dài vô
hình đã được thành lập, nơi đó người Việt tiếp tục
sống với những gì còn lại của VNCH: Phát động mạnh phong
trào chống Cộng và thành lập các tổ chức chống Cộng với
mục đích lật đổ chế độ cộng sản ở trong nước.
<h3>2. Gặp khó khăn khi tình thế đổi thay</h3>
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, khi Hoa Kỳ còn chủ trương
đối đầu với khối Cộng Sản, Hoa Kỳ đã lợi dụng tinh
thần chống cộng của người Việt để biến họ thành những
tổ chức quấy rối chế độ cộng sản ở trong nước. Nhưng
khi chế độ cộng sản ở Nga và Đông Âu sụp đổ, Hoa Kỳ và
các cường quốc Tây Phương đã thay đổi chiến lược, không
còn dùng chiến thuật bao vây và quấy phá nữa mà dùng chiến
lược diễn biến hoà bình để biến dần các chế độ cộng
sản còn lại thành công cụ phục vụ cho quyền lợi của họ.
Riêng đối với cộng đồng người Việt, sau khi làm áp lực
bằng một vụ truy tố về gian lận thuế, FBI đã khuyến cáo
Mặt Trận Hoàng Cơ Minh phải chấm dứt chủ trương đối kháng
bằng vũ lực và thực hiện đấu tranh chính trị, Mặt Trận
này đã phải thay đổi đường lối. Khi Hoa Kỳ bắt đầu
thiết lập bang giao với Việt Nam, điều luật về "Bảo vệ
các viên chức ngoại quốc, các quan khách ngoại quốc, và
những người được luật quốc tế bảo vệ" (Protection of
foreign officials, official guests, and internationally protected persons)
đã được đưa ra áp dụng để cảnh cáo người Việt chống
Cộng không được xâm phạm các viên chức của chính phủ
Cộng sản Việt Nam thi hành sự vụ ngoại giao hoặc là khách
mời của chính phủ Mỹ trên lãnh thổ Mỹ.
<h3>3. Quay lại cấu xé nhau</h3>
Trong chiến tranh Việt Nam, có hai nước luôn đứng chung với
VNCH để chống Cộng, đó là Đại Hàn và Đài Loan. Nhưng khi
Mỹ và các cường quốc Tây Phương thay đổi chính sách, hai
nước này đã đi theo ngay, nhờ vậy cả hai nước đã phát
triển một cách nhanh chống, biến thành những con rồng Á Châu.
Khi đã vững mạnh, họ tự tạo cho mình một thế đứng độc
lập. Bỏ qua các mối cựu thù, hôm 29/06/2010, Bắc Kinh và Đài
Bắc đã ký hiệp định về hợp tác kinh tế, xóa bỏ thuế
quan đối với hơn 800 mặt hàng, làm tăng thêm khoảng 100 tỷ
USD về mậu dịch song phương giữa Đài Loan và Trung Quốc.
Trong khi đó, người Việt chống Cộng lại chia làm hai phe, một
phe đi theo "<em>chiến lược diễn biến hòa bình, xâm nhập
để ảnh hưởng</em>" của Mỹ để đưa tới những thay đổi
ở trong nước, còn một phe nhất quyết tiếp tục con đường
chiến tranh lạnh để lật đổ chế độ cộng sản. Phe tiếp
tục chiến tranh lạnh tố cáo phe "diễn biến hoà bình" là
"hoà giải hoà hợp" với Cộng Sản. Cuộc chiến đã trở
nên dữ dội hơn khi nhà cầm quyền CSVN ban hành Nghị Quyết 36
để chiêu dụ người Việt hải ngoại trở về "hợp tác xây
dựng đất nước". Nghị quyết này đã bị nhóm chống Cộng
lấy làm vũ khí chụp mũ "tay sai cộng sản" hay "cộng
sản nằm vùng" cho bất cứ ai không đồng quan điểm với họ
hay không chấp nhận các hành động của họ.
<div class="boxright200"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>Mặc dầu tự xưng là
những kẻ tranh đấu cho tự do dân chủ và luôn đòi hỏi CSVN
phải thực hiện tự do dân chủ trên đất nước, một số
người Việt chống cộng đã rập khuôn đúng theo cái cách của
chế độ CHXHCN ở trong nước, bắt buộc mọi người Việt
hải ngoại phải tuân theo chủ trương của họ.<img
class="quoright" src="/misc/quoright.png"/> <br
class="quoteclear"></div></div>
Mặc dầu tự xưng là những kẻ tranh đấu cho tự do dân chủ
và luôn đòi hỏi CSVN phải thực hiện tự do dân chủ trên
đất nước, một số người Việt chống cộng đã rập khuôn
đúng theo cái cách của chế độ CHXHCN ở trong nước, bắt
buộc mọi người Việt hải ngoại phải tuân theo chủ trương
của họ. Một bộ "Quốc Văn Giáo Khoa Thư Chống Cộng" vô
hình đã được hình thành để bắt buộc các cơ quan truyền
thông và các chính khách phải tuân theo. Nội dung cuốn "Quốc
Văn Giáo Khoa Thư Chống Cộng" đó có thể được tóm gọn
như sau: "<em>Cộng Sản gian ác, Cộng Sản bốc lột, Cộng
Sản ngu dốt, Cộng Sản thối nát, Cộng Sản thất bại, Cộng
Sản sắp sụp đổ rồi…</em>". Báo chí, truyền thông hải
ngoại không thể hòan toàn khách quan và tự do đúng nghĩa vì
phải sống bằng quảng cáo từ Cộng đồng. Cho nên, viết bình
luận, loan báo tin tức, phát biểu tại các diễn đàn công
cộng đều phải chiều theo ý Cộng đồng, ngược lại sẽ bị
tẩy chay, tờ báo sẽ có thể bị phá sản. Vì thế, sau 35 năm,
Cộng đồng và các cơ quan truyền thông vẫn dậm chân tại
chỗ, không tìm ra được lối thoát cho chính mình.
<div class="boxright320"><img src="http://danluan.org/files/u1/lytong.jpg"
width="350" height="232" alt="lytong.jpg" /><div class="textholder">Lý
Tống "đóng trụ" trước trụ sở báo "Người Việt" - Ảnh:
OnTheNet</div></div>
<h3>4. Ngư ông đắc lợi</h3>
Trước tình trạng nói trên, chính phủ Hoa Kỳ đã xử dụng
cả hai nhóm này để thực hiện chính sách của Mỹ tại Việt
Nam: Với nhóm "diễn biến hòa bình", người Mỹ đã ngầm
thúc đẩy và tài trợ cho họ thực hiện những chương trình
làm thay đổi ở Việt Nam để đưa vào quỹ đạo của Mỹ.
Với nhóm cương quyết chống Cộng đến cùng, người Mỹ dùng
họ để thực hiện chủ trương "cây gậy và củ cà rốt",
biến họ thành những kẻ "chống Cộng theo thời vụ". Mổi
khi CSVN không đáp ứng các yêu cầu mà người Mỹ đòi hỏi,
chiến dịch chống Cộng được cho bùng lên, đòi đưa Việt Nam
vào danh sách CPC, v.v… Nhưng khi CSVN chịu đáp ứng, mặt hồ
lại trở lại phẳng lặng…
<h2>Rồi sẽ về đâu?</h2>
Nói ra ngậm đắng nuốt cay, nhưng không nói ra thì người Việt
tỵ nạn vẫn bị biến thành công cụ như 35 năm về trước.
Thời còn VNCH, người Việt chống Cộng có chính phủ, có quân
đội thiện chiến với vũ khí hùng mạnh…, nhưng người Mỹ
có để cho người Việt chống Cộng quyết định vận mạng
đất nước đâu? Nay đang sống trên đất Mỹ, dĩ nhiên người
Mỹ chẳng bao giờ để cho người Việt chống Cộng hình thành
tại đây một quốc gia với đường lối và chủ trương riêng.
Do đó, dù người Việt chống Cộng có quay cuồng gì đi nữa,
rồi người Mỹ cũng sẽ đưa họ vào quỹ đạo lớn, để
thực hiện chính sách của Mỹ. Đó là một sự thật đau lòng,
nhưng đó là sự thật.
Ông Michel Guillaumé de Grèvecoeur, một người Pháp định cư tại
Pennsylvania giữa thế kỷ 18, đã đặt câu hỏi: "<em>Người
Mỹ, một con người mới, là người như thế nào?</em>" Rồi
ông ta tự trả lời:
"<em>Người đó là người Mỹ, một người vừa gạt bỏ mọi
thành kiến và thái độ cũ, vừa tiếp nhận những cái mới qua
cuộc sống mới họ đang chấp nhận, qua một chánh thể mới
họ đang nghe theo và địa vị mới họ đang nắm giữ… Người
Mỹ là con người mới hành động trên những nguyên tắc mới,
vì vậy họ phải quan tâm đến những ý tưởng mới và tạo
những quan niệm mới</em>".
Người Mỹ hiểu rằng trong thế hệ thứ ba, con cháu của
người Việt sẽ không còn hợp nhau ở phố Bolsa để tố cáo
nhau là "tay sai cộng sản" hay "cộng sản nằm vùng" và
đòi "giải phóng quê hương" nữa. Họ cũng sẽ không còn
bắt những người khác phải có quan điểm và hành động chính
trị như mình. Con cháu của người Việt sẽ là những con
người mà ông Michel Guillaumé de Grèvecoeur đã hình dung nói
trên.
Một số người Việt lưu vong đã nhận ra con đường mà Cộng
đồng người Việt ở hải ngoại đang đi tới, nên họ đã
tách rời ra khỏi Cộng đồng và chính sách của Mỹ, hình
thành những tổ chức riêng, với hình thức đóng góp riêng cho
phong trào tranh đấu dân chủ của Việt Nam mà họ cảm thấy
mang lại hiệu quả. Chưa ai biết họ có thể làm được gì,
nhưng ít ra họ đã thấy được tình trạng của người Việt
lưu vong hôm nay, trong tương lai, và con đường phải chọn nếu
muốn phục vụ đất nước.
Đất nước Việt Nam chỉ có thể thay đổi, chuyển hóa để
trở thành quốc gia dân chủ tự do, khi quần chúng trong nước
thực sự có khát vọng đó và biết thống nhất lực lượng,
có tổ chức để đối đầu với nhà cầm quyền cộng sản.
Chứ không phải bất kỳ lực lượng chống Cộng nào ở nước
ngoài. Đây chỉ là lực lượng mang tính thứ yếu, hỗ trợ mà
thôi!
<em><strong>Nguồn:</strong> Bài nhận được từ tác giả. Lê
Diễn Đức Weblog biên tập và minh họa</em>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6018), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét