với mục đích qui định nhiệm vụ và quyền hạn của Quân
đội nhân dân; những việc phải làm và những việc không
được làm.
1. Quân đội phải trung thành với tổ quốc, trung thành với
nhân dân.
2. Quyền điều động, tổng chỉ huy quân đội phải là người
đứng đầu nhà nước.
3. Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ quốc gia bao gồm:
đất đai, vùng nước, vùng biển, vùng trời, lòng đất. Bảo
vệ biên giới quốc gia.
4. Nhiệm vụ bảo đảm quyền lợi quốc gia trên lãnh thổ,
trên vùng đặc quyền kinh tế, vùng ảnh hưởng đến an ninh
phòng thủ của Việt Nam…
5. Bảo đảm an toàn cho sinh hoạt đời sống, sản xuất cho
công dân, tổ chức Việt Nam và những cá nhân, tổ chức
được sự cho phép của nhà nước Việt Nam trên lãnh thổ,
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
6. Chế định tham chiến bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.
7. Chế định Quân đội nhân dân khi tham gia lực lượng gìn
giữ hòa bình, quốc tế.
8. Chế định diễn tập, trong nước và bên ngoài lãnh thổ
quốc gia.
9. Tham gia hoạt động chống khủng bố trong nước và quốc
tế.
10. Chế định chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ đối với
quân đội.
11. Qui định phạm vi, nhiệm vụ của tình báo quân đội, an
ninh quân đội…
12. Chế định nghiên cứu, thử nghiệm, mua bán, sản xuất vũ
khí, quân trang.
13. Chế định về đối tượng, phạm vi đào tạo trong hệ
thống các cơ sở đào tạo của quân đội.
14. Không được nghiên cứu, mua bán, vận chuyển, tàng trữ,
sử dụng các loại vũ khí mà luật pháp quốc tế cấm.
15. Hoạt động chống tội phạm qua biên giới: buôn lậu, ma
túy, vũ khí, buôn người…
16. Chế định tham gia hoạt động cứu trợ thảm họa, thiên
tai..
17. Không được tham gia các hoạt động kinh tế, trừ các lĩnh
vực có qui định cụ thể.
18. Chỉ được tham gia hoạt động giữ gìn trật tự xã hội
hỗ trợ công an nhân dân khi có lệnh của người đứng đầu
nhà nước.
19. Không được tổ chức, sinh hoạt tôn giáo, đảng phái chính
trị trong quân đội.
Hà Nội, tháng 8/2010
Hà Đình Sơn
HS_TS_VN_1001@YAHOO.COM
Nguồn: Blog Free Lê Công Định
<center>* * *</center>
<h2>Tài liệu tham khảo: Dân Sự Kiểm Soát Quân Sự</h2>
Michael F. Cairo
<center>"<em>Ngay cả khi cần có lực lượng quân sự thì, trong
nước... người dân khôn ngoan và thận trọng vẫn phải luôn
luôn để ý và canh chừng lực lượng đó</em>" - Samuel Adams,
Người ký vào Tuyên Ngôn Độc lập</center>
Từ năm 1789 Hoa kỳ ít khi tham gia vào những hoạt động quân
sự kéo dài. Do đó, dân chúng Mỹ chú trọng đến các vấn
đề nội bộ nhiều hơn, còn ngoại giao và quốc phòng thì chỉ
đôi khi mới quan tâm tới. Nói chung, các cuộc thăm dò ý kiến
công chúng cho thấy đa số dân Mỹ tương đối ít quan tâm tới
các vấn đề ngoại giao, và chỉ khi có các cuộc khủng hoảng
quốc tế thì mới chú ý tới nhiều hơn. Tuy nhiên, như ghi trong
Hiến pháp, cái động cơ chính dẫn tới việc thành lập nước
Mỹ lại là để "bảo vệ chung [cho cả nước]." Một phần ba
trong số 18 các quyền hành liệt kê trong Điều I, Đoạn 8 của
hiến pháp Hoa kỳ thuộc về các vấn đề quân sự và ngoại
giao, và cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều vấn đề nguyên
thủy bàn tới trong Luận cương Liên bang liên quan đến các yêu
cầu quốc phòng của Hoa kỳ.
Khi xây dựng một chính quyền quốc gia mới, các vị lập quốc
đã nhận rõ tầm quan trọng cần phải thành lập một chính
quyền có thể bảo vệ quốc gia một cách đúng mức. Một
chính sách hữu hiệu, thống nhất giữa ngoại giao và quân sự
đòi hỏi phải có một lãnh đạo mạnh của ngành hành pháp
đối với quân đội. Đồng thời các vị đó cũng nhận thấy
rằng nếu không được kiểm soát đúng mức thì lực lượng
quân sự có thể được dùng để cướp chính quyền và là
một mối đe dọa cho dân chủ. Các vị lập quốc quả thực
đã sợ vấn đề lạm dụng quyền lực quân sự, và lo ngại
rằng một hành pháp quá mạnh sẽ có lúc thoái hoá thành chế
độ độc tài hay chế độ mị dân. Lịch sử đã cho các vị
đó biết là những sự tiếm quyền như vậy không phải là ít
xẩy ra. Do đó các vị lập quốc thấy rằng muốn bảo vệ dân
chủ thì cần phải nêu rõ trong hiến pháp mới là quân sự
phải phục tòng chính quyền dân sự. Trong Luận cương Liên bang
số 28, Alexander Hamilton viết:
<div class="special_quote"><em>Không lệ thuộc vào tất cả mọi
lý luận khác về vấn đề này, đối với những người muốn
có một quy định dứt khoát hơn về bộ máy quân sự trong
thời bình thì câu trả lời đầy đủ là tất cả quyền lực
của chính quyền [chúng ta] trù liệu phải ở trong tay của
những người đại diện dân. Điều này là thiết yếu và, nói
cho cùng, cũng là phương thức có hiệu lực duy nhất để bảo
đảm an toàn các quyền và đặc quyền của dân chúng trong một
xã hội dân sự.</em></div>
Các nhà lập quốc nhận thấy tầm quan trọng của một lực
lượng quân sự thường trực để phòng vệ nhưng các vị đó
cũng thấy là cần phải thận trọng để gìn giữ tự do và
ngăn ngừa tiếm quyền. James Madison đã giải thích trong Luận
cương Liên bang số 41 như sau:
<div class="special_quote">"<em>Bảo đảm an ninh chống lại sự
đe dọa từ bên ngoài là một trong những mục tiêu nguyên thủy
của một xã hội dân sự... [Tuy nhiên] một lực lượng quân
sự thường trực là một hiểm họa và cũng là một điều
cần thiết. Ở tầm mức nhỏ nhất, thì [lực lượng quân sự]
cũng có những bất tiện, nhưng ở tầm mức lớn thì lực
lượng đó có thể dẫn tới các hậu quả có tính cách sinh
tử. Nhưng dù ở tầm mức nào đi chăng nữa thì nó cũng là
một đối tượng vừa đáng hoan nghênh vừa phải thận trọng
canh chừng. Một quốc gia khôn ngoan cần phải phối hợp tất
cả các quan điểm đó để một mặt không hấp tấp loại bỏ
những điều cần thiết cho an ninh quốc gia và mặt khác cũng
cần phải thận trọng để giảm bớt vai trò thiết yếu cũng
như mối đe dọa của cái lực lượng có thể bất lợi cho tự
do đó.</em>
<em>Dấu hiệu rõ rệt nhất về sự thận trọng này được
ghi rõ trong Hiến pháp được đề nghị. Chính cái Liên hiệp,
mà Hiến pháp xây dựng và duy trì, phải bác bỏ mọi lý lẽ
[viện vào đó] để lập một tập đoàn quân sự mà có thể
trở thành nguy hiểm.</em></div>
Do đó Hiến pháp trao cho Quốc hội quyền thành lập và duy trì
- tức là tài trợ - lực lượng quân sự để ngăn ngừa tổng
thống có quá quyền lực quá mạnh. Hơn nữa Quốc hội, chứ
không phải hành pháp, mới có quyền chính thức tuyên chiến
để ngăn ngừa việc quyết định nông nổi không thể đổi
được. Tuy nhiên đồng thời, Hiến pháp cũng cho tổng thống
quyền tổng tư lệnh các lực lượng lục quân, hải quân và
dân quân của tiểu bang. Do đó khiến cho tổng thống có đủ
quyền lực để chống lại sự tấn công từ bên ngoài và bảo
vệ quốc gia khi còn trứng nước.
Tuy nhiên, cũng như nhiều nguyên tắc khác của Hiến pháp, các
chi tiết về việc kiểm soát của [chính quyền] dân sự chưa
bao giờ được mô tả rõ trong Hiến pháp. Cách dân sự kiểm
soát quân sự năm 1789 khác rất nhiều với cách kiểm soát
hiện tại. Thực vậy, các nhà lập quốc không bao giờ trù
liệu việc thiết lập một giai cấp quân sự chuyên nghiệp và
do đó không thể nào tiên đoán trước được bản chất của
sự kiểm soát dân sự như ta thấy hiện nay. Do đó, việc dân
sự kiểm soát quân sự tại Hoa kỳ đã tiến hoá vừa theo tập
quán và truyền thống và vừa theo tính cách pháp lý của Hiến
pháp.
<h3>Truyền thống dân là chiến sĩ</h3>
Chính hiến pháp cũng không bàn tới vấn đề thiết lập một
lực lượng quân sự thường trực. Các nhà lập quốc không
quen với quan niệm quân dịch chuyên nghiệp. Các vị đó coi
nghĩa vụ quân sự như là một nghĩa vụ đương nhiên của mọi
công dân trong thời chiến. Ai cũng biết George Washington vừa là
một chính khách mà lại vừa là một chiến sĩ, nhưng có có
nhiều đại biểu trong Đại hội Hiến pháp cũng là người
trong quân đội trong cuộc Cách mạng Hoa kỳ. Thực vậy, không
bao giờ lại có tư tưởng phân biệt giữa giai cấp dân sự và
giai cấp quân sự.
Quan điểm của các nhà lập quốc có thể được suy ra từ
Điều I, Đoạn 6 của Hiến pháp:
<div class="special_quote"><em>Không một Nghị sĩ hay Dân biểu nào,
trong thời gian được bầu, lại có thể được bổ nhiệm vào
bất cứ chức vụ dân sự nào sẽ được lập ra hay tiền thù
lao của chức vụ đó sẽ được gia tăng trong chính quyền Hoa
kỳ; ngược lại không một người nào giữ chức vụ trong
chính quyền Hoa kỳ lại có thể là đại biểu trong hai Viện
trong thời kỳ tại chức.</em></div>
Điều khoản này bác bỏ ý tưởng là dân biểu Quốc hội có
thể giữ chức vụ trong ngành hành pháp hay tư pháp. Nó phản
ánh nguyên tắc căn bản phân quyền và phản ánh chủ trương
là mỗi một ngành trong chính quyền phải phân lập và tách ra
khỏi các ngành kia. Tuy nhiên, trong điều khoản này không thấy
chỗ nào ngăn cấm nghị sĩ hay dân biểu được bổ nhiệm vào
các chức vụ quân sự. Vì các nhà lập quốc tin rằng các
đại biểu dân cử là các người có khả năng nhất trong xã
hội Mỹ, nên các vị đó cho rằng đương nhiên là họ phải ra
làm các người chỉ huy quân sự khi quốc biến. Thực vậy,
việc đưa điều khoản này vào Hiến pháp được biện minh
với lý do là các chức vụ quân sự là những trường hợp
biệt lệ. Các nhà lập quốc coi quân sự không phải là một
ngành chuyên nghiệp mà chủ yếu là gồm một đội quân hay dân
quân, và đội quân này chỉ hiện hữu trong thời chiến. Như
Elbridge Gerry, một đại biểu trong Đại hội Hiến pháp, giải
thích: "[Sự hiện diện] thường trực của một lực lượng
quân sự trong thời bình là không phù hợp với các nguyên tắc
của một chính quyền cộng hoà, là một mối đe dọa cho quyền
tự do của một dân tộc tự do và thường biến thành những
cơ năng phá hoại làm nẩy sinh ra chế độ chuyên chế."
Như vậy nguyên tắc dân sự kiểm soát [quân sự] thể hiện
cái tư tưởng là mọi người công dân có đủ điều kiện
đều phải có trách nhiệm bảo vệ quốc gia cũng như gìn giữ
tự do, và phải tham gia chiến đấu nếu cần. Đối với các
vị lập quốc chỉ có dân quân - trong đó ít có sự ngăn cách
giữa cấp chỉ huy và quân lính - mới là lực lượng quân
đội thích hợp và là lực lượng có thể phối hợp ý tưởng
quân đội phải thể hiện nguyên tắc dân chủ và khuyến khích
mọi công dân gia nhập. Suốt trong thế kỷ 19 và cho tới đầu
thế kỷ 20, mối lo sợ này đã in sâu vào chính trị và xã
hội Mỹ. Truyền thống văn hóa sâu xa úy kỵ quân đội của
Hoa kỳ cùng với vị trí địa dư biệt lập đã tạo ra cái di
sản dành cho dân sự quyền kiểm soát quân sự.
Do đó sau cuộc chiến tranh cách mạng, các vị lập quốc đã
giảm quân đội chính quy và dùng dân quân của tiểu bang để
bảo vệ biên giới phía tây. Sự giảm quân đó phản ánh mối
lo ngại của nền dân chủ Hoa kỳ đối với các định chế
quân sự và các chức năng quân sự, một phần nỗi e ngại đó
bắt nguồn từ chế độ cai trị bằng quân sự của Anh trong
thời thuộc địa.
Truyền thống văn hóa Anglo-Saxon thịnh hành trong thời kỳ lập
quốc cũng là một lý do tổng quát hơn cho tinh thần úy kị
quân đội và các định chế quân sự, nhất là trong thời
bình. Phản ứng của dân Anh đối với thời kỳ Cromwell trong
những năm 1640, khi quân đội Anh được dùng để đàn áp đối
lập chính trị, hãy còn in rõ trong ký ức mọi người vào thế
kỷ 18. Thêm vào đó, một trong những mâu thuẫn dẫn tới cuộc
Cách mạng Hoa kỳ là việc đồn trú của quân đội Anh trên
lãnh thổ Mỹ sau cuộc chiến với Pháp và dân Bản xứ Bắc
Mỹ (1754-63). Dựa trên quan niệm quyền của họ như là một
dân nước Anh, các người dân thuộc địa bác bỏ sự xâm lấn
đó với lý do là hành động như vậy không thể nào được
chấp nhận ngay trên đất nước Anh. Thái độ dè dặt đó vẫn
còn được phản ánh suốt trong thời kỳ Cách mạng. Khi muốn
xin Quốc hội cho phép và cấp ngân khoản nuôi dưỡng quân
đội, tướng Washington đã phải đoan chắc với Quốc hội là
sẽ không dùng quân đội để tiếm quyền Quốc hội. Do đó,
ngay cả trong thời chinh chiến, dân Mỹ đã e ngại quyền lực
quân sự.
Vị trí địa dư cũng giữ một vai trò quan trọng trong thái
độ của dân Mỹ đối với giới quân sự. Suốt trong thế kỷ
19, những đại dương rộng lớn đã làm vùng trái độn cho
lục địa Bắc Mỹ còn các nước lân bang thì không phải là
mối đe dọa đáng ngại. Với vị trí biệt lập, Hoa kỳ hầu
như là không có một sự đe dọa quân sự nào từ Âu châu và
Á châu. Tài nguyên thiên nhiên phong phú lại càng khiến cho Mỹ
hầu như không lệ thuộc vào những nơi khác trên thế giới.
Do đó, khi nền Cộng hòa mới được thành lập, quan điểm dân
sự kiểm soát quân sự của Mỹ được chi phối bởi 4 tiền
đề chính sau đây. Thứ nhất, xuất phát từ kinh nghiệm lịch
sử của nước Anh và việc thuộc địa đã từng bị quân
đội chiếm đóng, [người Mỹ] cho rằng lực lượng quân sự
lớn là một sự đe dọa cho tự do. Thứ hai, lực lượng quân
sự lớn là một sự đe dọa cho nền dân chủ của Hoa kỳ. Quan
niệm này gắn liền với lý tưởng mỗi người dân là một
chiến sĩ cùng với mối lo ngại không muốn tạo ra một giai
cấp quân sự quý tộc hay chuyên quyền. Thứ ba, lực lượng
quân sự lớn là một sự đe dọa cho phồn vinh kinh tế. Và sau
hết, lực lượng quân sự lớn đe dọa hòa bình. Các vị Lập
quốc chấp nhận quan điểm phóng khoáng cho rằng chạy đua võ
trang sẽ dẫn tới chiến tranh. Do đó, việc dân sự kiểm soát
quân sự đã xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử và cùng với
thời gian đã in sâu vào tư tưởng chính trị của Mỹ qua
truyền thống, tập quán và niềm tin [của dân Mỹ].
<h3>Các vị tổng thống đầu tiên trong vai trò tư lệnh quân
đội</h3>
Điều khoản tổng tư lệnh trong Hiến pháp nói rằng, ngoài các
nhiệm vụ khác, "tổng thống cũng là tổng tư lệnh của Lục
quân và Hải quân Hoa kỳ và dân quân của các tiểu bang, khi
các lực lượng này đuợc điều động để phục vụ Hoa kỳ"
[phần in nghiêng là phần nhấn mạnh của HVCD][1].Điều khoản
này đã là cơ bản suốt trong lịch sử Hoa kỳ, và là căn bản
thường trực cho việc dân sự kiểm soát quân sự. Chính cái
nguyên tắc cho phép các vị Lập quốc trù liệu cho các thượng
nghị sĩ có thể làm tướng trong thời chiến cũng đã cho phép
các vị đó chấp nhận một tổng thống dân sự làm tổng tư
lệnh quân đội. Điểm then chốt ở đây là chính tổng thống
Hoa kỳ, trong khi hành sử tất cả các chức năng của mình,
lại bị giới hạn bởi thể chế dân chủ và do đó không có
khả năng là sẽ dùng quyền lực quân sự của mình để tăng
thêm quyền hành pháp.
Tầm mức mà các vị Lập quốc muốn quy định việc tổng
thống hành sử chức năng quân sự của mình được thấy rõ
khi các vị đó không ngăn cản được việc tổng thống đích
thân chỉ huy quân đội ngoài mặt trận. Lúc bấy giờ người
ta trông đợi và muốn là tổng thống có thể, và phải, nắm
quyền đích thân chỉ huy quân đội trên chiến trường. Điều
này đã được các tổng thống không ngần ngại thực hiện
suốt trong thế kỷ 19. George Washington, với tư cách là tổng
thống đầu tiên, đã tạo ra tiền lệ này khi ông dẹp cuộc
Nổi loạn Whiskey (Whiskey Rebellion), một cuộc nổi loạn bạo
động của nông dân [miền tây] Pennsylvania chống thâu thuế
của chính quyền liên bang đánh vào [rượu Whiskey] năm 1799. Tuy
cuộc nổi loạn này nhỏ và giới hạn trong một vùng, nhưng
Washington cho rằng bạo động như vậy là chẳng khác gì phá
hoại chính quyền. Washington tuyên bố rằng nếu không dẹp
được các người nổi loạn thì "chính quyền nước này coi
như là đã cáo chung." Để biểu dương quyền lực của liên
bang, Washington đã huy động một lực lượng quân đội không
thua gì lực lượng của toàn thể quân đội trong thời kỳ
Cách mạng, và đích thân mang quân sang Pennsylvania.
Các tổng thống khác cũng theo gót tổng thống Washington. Tuy
không có hiệu quả, nhưng tổng thống James Madison cũng tổ
chức và đặt kế hoạch phòng thủ thủ đô chống lại quân
Anh năm 1814. Trong thời kỳ chiến tranh giữa Mỹ và Mê-hi-cô
vào những năm 1840, tổng thống James K. Polk đã hành sử quyền
tổng tư lệnh của mình, đích thân chỉ huy quân đội chống
lại quân Mễ. Tuy Polk không ra mặt trận nhưng các chiến lược
của ông đã là căn bản cho các hoạt động quân sự. Suốt
trong thế kỷ 19, các tổng thống tiếp tục chỉ huy quân đội,
đích thân lập chiến lược quân sự và tham gia vào các hoạt
động thuần túy quân sự. Người sử dụng quyền được giao
phó này nhiều nhất là Abraham Lincoln.
Lincoln là người phải trực diện với những đe dọa gay go và
trầm trọng nhất đối với nền dân chủ Hoa kỳ. Đối đầu
với sự ly khai của các tiểu bang miền Nam và sự tan rã của
Liên hiệp [Hoa kỳ], Lincoln đã sử dụng toàn bộ quyền hành
pháp của mình để duy trì quốc gia. Ông hoãn phiên họp Quốc
hội từ tháng Tư tới tháng Bảy năm 1861. Sau đó, sử dụng
quyền tổng tư lệnh Lincoln đã tập họp dân quân, gia tăng
quân đội và hải quân mà không xin phép Quốc hội, kêu gọi
quân tình nguyện, sử dụng công quỹ mà không có Quốc hội
chuẩn chi, tạm ngưng luật giam giữ phải có lệnh của tòa, và
ra lệnh phong tỏa đường biển [vào vùng của] Tiểu bang Ly khai
(the Confederacy). Tới tháng 7, tổng thống nói với Quốc hội
như sau:
Không còn sự lựa chọn nào khác là sử dụng quyền ứng
chiến của [ngành hành pháp] của chính quyền để dùng võ lực
bảo vệ chính quyền chống lại chính cái võ lực đang phá
hoại chính quyền...Những biện pháp này, dù có hợp pháp hay
không hợp pháp, đã được mạnh dạn thi hành thuận theo yêu
cầu của hầu như đa số; và lúc đó, cũng như bây giờ,
[chúng ta] mong rằng sẽ được Quốc hội sẵn sàng phê chuẩn.
Bây giờ [lại có người] nhất định chủ trương rằng Quốc
hội, chứ không phải hành pháp, mới có quyền này. Nhưng chính
Hiến pháp cũng đâu có nói rõ ai hay cơ quan nào có quyền hành
sử quyền đó. Hơn nữa hiển nhiên là điều quy định này
nhắm vào tình trạng khẩn trương nguy biến, ta không thể tin
được rằng các vị các vị lập quốc, khi ấn định quyền
lực này, lại muốn là trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cứ
để cho tình trạng nguy biến tiếp diễn cho tới khi triệu tập
được Quốc hội. Trong trường hợp này, chính việc triệu
tập Quốc hội lại bị phe phản loạn muốn ngăn cản. Ngành
hành pháp rất tiếc đã thấy là đã phải bắt buộc sử dụng
quyền ứng chiến để bảo vệ chính quyền.
Nhưng Lincoln không chỉ giới hạn việc hành sử quyền hành ở
mức đó. Mùa xuân 1982, ông đã tham gia chỉ huy lực lượng
của Liên hiệp. Ông đích thân ấn định kế hoạch hành quân
và dùng quân lệnh để điều động quân đội. Tuy nhiên,
Lincoln cũng là tổng thống cuối cùng trực tiếp tham gia vào
công việc ấn định chi tiết các chính sách quân sự.
Việc hành sử quyền tổng tư lệnh của Lincoln đã xác định
thẩm quyền của tổng thống làm cấp chỉ huy cao nhất các
lực lượng quân sự. Thực vậy, suốt trong thế kỷ 19, cũng
như trong thế kỷ 18, không có sự phân biệt rõ rệt giữa
thẩm quyền chính trị và thẩm quyền quân sự. Phần lớn các
nhà chính trị cũng lại là các nhà quân sự có tài. Việc
tổng thống hành sử chức năng quân sự không gây khó khăn gì
có lẽ là vì, mặc dầu Lincoln có nhiều quyền như vậy, nhưng
các tổng thống vẫn tiếp tục tôn trọng các giới hạn quyền
quy định trong Hiến pháp. Trong thời kỳ đó, một hệ thống
quân giai đã hình thành rõ rệt như sau: tổng thống, cùng vói
bộ trưởng lục quân và hải quân, là cấp cao nhất trực
tiếp ra lệnh cho các cấp chỉ huy quân đội tại chiến
trường. Nhiệm vụ chính trị và quân sự do đó vẫn còn lẫn
lộn với nhau. Tổng thống thường là người đã có kinh
nghiệm chiến trường còn các tướng cũng hay tham gia chính
trị. Tới cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20 thì quan niệm
phối hợp vai trò tổng tư lệnh với vai trò tổng thống đã
trở nên khó duy trì. Tuy nhiên nguyên tắc mạnh mẽ chấp nhận
sự kiểm soát dân sự đối với quân sự được thành lập
từ thế kỷ 19 vẫn tiếp tục củng cố cho truyền thống này
trong thế kỷ 20, tuy có khác đôi chút về hình thức.
<h3>Thế quân bằng thay đổi trong thế kỷ 20</h3>
Sang thế kỷ 20 là bắt đầu sắp có đại chiến. Khi Woodrow
Wilson được bầu làm tổng thống vào năm 1912 thì mục tiêu
của Hoa kỳ chủ yếu là có tính cách đối nội. Khi chiến
tranh xẩy ra tại châu Âu năm 1914, Wilson đã cho Hoa kỳ giữ tư
thế trung lập. Tuy nhiên, việc xâm phạm các quyền lợi của
Hoa kỳ và quyền của các nước trung lập của phe gây chiến
đã khiến cho Wilson phải yêu cầu Quốc hội tuyên chiến với
Đức.
Sau thế chiến I, Wilson không vận động được Quốc hội phê
chuẩn hiệp định Quốc liên, và do đó Hoa kỳ lại rơi vào
tình trạng bế quan tỏa cảng. Các tổng thống kế nhiệm cũng
phải đương đầu với một Quốc hội không muốn tham gia vào
việc quốc tế. Năm 1929-1930, Quốc hội lại thông qua một
loạt thuế quan cao, mà cao điểm là Luật Thuế Quan Smoot-Hawley
(Smoot-Hawley Tariff Act). Các thuế quan này nhằm bảo vệ nền kinh
tế Mỹ chống lại sự can thiệp từ bên ngoài và lại càng
đưa Hoa kỳ sâu vào thế tự cô lập. Vào các năm 1935, 1936, và
1937 Quốc hội thông qua một số Luật trung lập để bảo đảm
là Hoa kỳ sẽ không bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tranh
khác tại châu Âu.
Chính sách bế quan tỏa cảng lên tới tột đỉnh trong nhiệm
kỳ của tổng thống Franklin Roosevelt. Trực diện với cuộc
Khủng hoảng Kinh tế, ngay từ năm 1935 Roosevelt đã chủ trương
trung lập và đặt ưu tiên cho các vấn đề đối nội cao hơn
các vấn đề đối ngoại. Mãi tới cuối thập niên 1930
Roosevelt mới bắt đầu thấy tầm quan trọng của việc Hoa kỳ
tham dự vào các vấn đề của châu Âu.
Điều trớ trêu là chính cái toà Tối cao bảo thủ đã giới
hạn các chính sách cải cách kinh tế " Vận hội Mới" (New Deal)
trong chính sách đối nội của Roosevelt sau này lại là tòa đã
thiết lập cơ sở cho quyền tổng thống giữ một vai trò chủ
chốt trong ngoại giao và củng cố vai trò chỉ huy và kiểm soát
của tổng thống đối với việc quân sự. Năm 1936, trong vụ
kiện giữa Hoa kỳ và Curtiss-Wright Corporation,tòa đã phân định
rõ rệt quyền lực của tổng thống về đối nội và đối
ngoại. Tòa nói rằng chức vụ tổng thống là "cơ quan duy nhất
của chính quyền liên bang [có thẩm quyền] về quan hệ quốc
tế - và việc hành sử thẩm quyền đó không cần dựa trên cơ
sở một hành động của Quốc hội." Tòa lập luận rằng,
thẩm quyền về ngoại giao của tổng thống đã được đương
nhiên cho phép trong Hiến pháp, qua lịch sử và yêu cầu hiện
tại.
Khi chính quyền của tổng thống Roosevelt quan tâm tới các vấn
đề quốc tế và cũng là lúc không khí chiến tranh đang bao
trùm khắp châu Âu thì thế giới đã thay đổi rất nhiều.
Thứ nhất là cuộc cách mạng kỹ thuật đã khiến cho không
một tổng thống nào có thể hoàn toàn thông thạo về mọi
chiến lược chiến tranh. Thứ nhì là cuộc Đệ nhị Thế
chiến là một cuộc chiến tranh toàn cầu. Các yếu tố đó
khiến cho không thể nào mà chính quyền dân sự lại có thể
điều khiển hoạt động quân sự hàng ngày trong chiến tranh
cũng như sau chiến tranh. Tuy nhiên, các nhà cầm quyền dân sự
hiện nay, phần lớn là tổng thống và các nhân viên của tổng
thống - cùng với bộ trưởng quốc phòng - vẫn còn nắm quyền
kiểm soát rất chặt các định chế quân sự trong nước. Cũng
còn phải ghi nhận rằng quyền kiểm soát tài trợ ấn định
trong Hiến pháp - cho phép Quốc hội có quyền chấp thuận tất
cả các ngân khoản chi tiêu quân sự - cũng khiến cho các nghị
sĩ và dân biểu nào muốn chuyên tâm về vấn đề này có thể
có quyền kiểm soát và ảnh hưởng.
Sự xuất hiện của cuộc Chiến tranh Lạnh năm 1945 cũng hoàn
toàn chấm dứt truyền thống tự cô lập của Mỹ và đẩy Hoa
kỳ vào một vai trò lãnh đạo trong các vấn đề quốc tế. Khi
các cựu chiến binh trở về sau Thế chiến 2, có rất nhiều
người giữ các vai trò dân sự trong chính quyền, trong các
trường đại học và trong doanh nghiệp và do đó cũng bắt
đầu có nhiều mối quan hệ giữa giới quân sự với các công
ty Mỹ và các lãnh vực khác trong xã hội. Lực lượng quân
sự, trước kia hầu như ít có liên hệ với xã hội Mỹ, bây
giờ lại tham gia hoạt động vào xã hội hơn trước nhiều.
Sự thay đổi đó tạo ra một sự biến chuyển quan trọng trong
thái độ của dân chúng cũng như của giới lãnh đạo đối
với quân đội. Lòng e ngại đối với quân đội trong thế kỷ
19 đã được thay thế trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh bằng
sự thông hiểu và trân trọng vai trò của lực lượng quân sự
trong chính sách đối ngoại của Hoa kỳ.
Các tiến bộ kỹ thuật cùng với sự tham gia của Hoa kỳ vào
các vấn đề thế giới đòi hỏi cần phải có những định
chế chính quyền mới để kiểm soát, tổ chức và theo dõi các
hoạt động cũng như các định chế quân sự. Các đạo luật
về An ninh Quốc gia năm 1947 và 1949, thiết lập ban Tham mưu Liên
quân và bộ Quốc phòng, đặt cơ sở cho việc kiểm soát tập
trung hơn. Chức vụ bộ trưởng quốc phòng, với tư thế là
thành viên của nội các và báo cáo trực tiếp cho tổng thống,
đã nhanh chóng trở thành đầu mối liên lạc giữa giới quân
sự và bộ phận chỉ huy dân sự. Đạo luật Cải tổ quốc
phòng năm 1958 lại tăng cường quyền lực của bộ trưởng
quốc phòng; ảnh hưởng mạnh của Robert McNamara trong khi làm
bộ trưởng quốc phòng vào những năm 1960 lại càng củng cố
quyền lực và thẩm quyền của văn phòng bộ trưởng quốc
phòng. Các sự thay đổi này giúp duy trì quyền lực của tổng
thống đối với hoạt động quân sự trong các hoàn cảnh mới.
Suốt trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, trung tâm thẩm quyền
chiến lược đều đặt dưới quyền tổng thống. Ngành hành
pháp, qua Hội đồng An ninh Quốc gia trong Nhà Trắng và bộ
trưởng quốc phòng, đã nắm quyền chủ chốt về các vấn
đề như quân số, mua và triển khai vũ khí cũng như sử dụng
võ lực.
Sự thất bại của quân lực Hoa kỳ trong việc thực hiện các
mục tiêu chiến tranh trực tiếp trong chiến tranh Việt Nam lại
càng làm giảm quyền lực và thẩm quyền của giới quân sự
chuyên nghiệp so với quyền lực của chính quyền dân sự. Một
lần nữa, nhiều người Mỹ lại không tin tưởng vào các giải
pháp quân sự và các đường lối quân sự. Ngay cả giới quân
đội cũng bắt đầu thận trọng hơn trong vấn đề tham gia
quân sự. Từ những năm 1970, nhiều nhà lãnh đạo quân sự đã
ít muốn dùng võ lực vì họ cho rằng việc sử dụng quân
đội có giới hạn vào những chủ đích chính trị mà không có
mục đích rõ rệt sẽ đưa đến thất bại.
Sự do dự này có hai lý do. Lý do thứ nhất, sự thất bại
tại Việt Nam đã phát sinh ra "hội chứng sau Việt Nam." Các
tổng thống, các nhà chỉ huy quân sự, Quốc hội cũng như dân
chúng đều hoài nghi việc dùng võ lực để thực hiện các
mục tiêu của nước Mỹ. Lý do thứ hai, Quốc hội đã khẳng
định quyền lực của mình trong nỗ lực kiểm soát quyền sử
dụng võ lực của tổng thống vì chính cái quyền này đã
quyết định vai trò của Hoa kỳ tại Việt Nam. Năm 1973, mặc
dầu tổng thống Nixon phủ quyết, Quốc hội đã thông qua đạo
luật Quyền Tham chiến. Đạo luật này nhằm giới hạn quyền
của tổng thống gửi quân tham chiến tại ngoại quốc mà không
có sự chấp thuận của Quốc hội. Theo đạo luật, mục đích
của đạo luật là để "thực hiện ý muốn của các nhà soạn
thảo Hiến pháp và để bảo đảm là phải có sự suy xét tập
thể gồm cả Quốc hội lẫn tổng thống trong việc đưa quân
đội Hoa kỳ" tham gia vào các vụ xung đột tại ngoại quốc.
Đạo luật muốn chấn chỉnh lại quyền lực tham chiến của
tổng thống bằng cách bắt buộc tổng thống phải tham khảo
và báo cáo cho [Quốc hội], và đạo luật cũng phác họa những
biện pháp Quốc hội có thể áp dụng để ngăn chặn quyền
tổng thống sử dụng võ lực.
Tuy có ý định như vậy nhưng đạo luật Quyền Tham chiến vẫn
chỉ có tính cách tượng trưng vì Quốc hội ngần ngại chưa
muốn áp dụng và vì tổng thống cho là không hợp hiến. Trên
thực tế có lẽ đạo luật lại củng cố quyền tổng thống
sử dụng võ lực vì nó cho phép tổng thống sử dụng võ lực
trước khi được Quốc hội chấp thuận.
Nói chung, suốt trong thế kỷ 20, sự kiểm soát của dân sự
đối với quân sự, dù qua tổng thống hay Quốc hội, đã
được củng cố hơn và định chế hóa hơn trong chế độ cai
trị và trong xã hội Hoa kỳ. Sức tàn phá càng ngày càng gia
tăng của các võ khí lại càng cho thấy cần thiết phải thúc
đẩy nhanh hơn xu hướng kiểm soát chặt chẽ hơn của dân sự
đối với các lực lượng và định chế quân sự.
<h3>Giới hạn của các lời cố vấn quân sự</h3>
Khi Hoa kỳ bước sang thế kỷ mới, điều trở ngại không
phải là các nhà quân sự chuyên nghiệp sẽ không đếm xỉa
đến hay chống đối sự kiểm soát của dân sự. Trái lại,
vấn đề là các nhà lãnh đạo dân sự có thể không có đủ
kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn để đáp ứng với các
vấn đề phức tạp và nguy hiểm của thế kỷ 21. Sự thách
thức là làm sao thành phần lãnh đạo dân sự có thể làm
việc với các nhà quân sự chuyên nghiệp để đảm bảo cho
tổng thống và các nhân viên của mình có thể tiếp cận
được với các thông tin và kiến thức chuyên môn kỹ thuật
cần thiết để có thể quyết định thích đáng.
Bản chất và mức độ của ảnh hưởng của giới quân sự
trong chính sách đối ngoại và quốc phòng của Mỹ đã khi tăng
khi giảm trong lịch sử Hoa kỳ. Ảnh hưởng giới quân sự tùy
thuộc vào một số yếu tố như nhận định của dân chúng về
các mối đe dọa và cơ cấu và vai trò của quân sự như
được ấn định bởi pháp luật và truyền thống. Chính giới
quân sự tại Mỹ cũng không phải là một khối thuần nhất,
mà cho tới bây giờ vai trò của các nhà lãnh đạo quân sự
trong nền dân chủ Hoa kỳ có thể được mô tả đúng nhất là
vai trò của các chuyên gia cố vấn. Như tướng Matthew Ridgway,
vị chỉ huy cao cấp nhất trong Thế chiến2 và trong cuộc chiến
tranh Triều tiên, giải thích
<div class="special_quote"><em>Cố vấn quân sự phải cung cấp ý
kiến chuyên môn của mình căn cứ vào các khía cạnh quân sự
của vấn đề được đưa tới cho mình, dựa trên sự đánh
giá khách quan, thành thật và quả cảm về quyền lợi của
quốc gia, bất kể là chính sách của chính quyền lúc đó là
như thế nào. Vị cố vấn đó phải giới hạn lời khuyên của
mình vào các khía cạnh quân sự chính yếu.</em></div>
Nói tóm lại, một sĩ quan chuyên nghiệp phải là một chuyên gia
đưa ra những nhận định về cách sử dụng quân đội sao cho
hữu hiệu nhất còn những vấn đề khác thì để cho dân sự
phụ trách. Do đó Hiến pháp và truyền thống Hoa kỳ đã giới
hạn quân đội trong vai trò hành chánh và là công cụ thi hành
trong diễn trình ấn định chính sách.
Khi Hoa kỳ bước sang thế kỷ 21, các cấp chỉ huy quân sự
không được tham khảo ý kiến về các vấn đề như tham chiến
ở đâu và vào lúc nào. Câu hỏi đặt ra cho họ rất thu hẹp:
Làm cách nào để sử dụng quân đội một cách hữu hiệu
nhất vào một thời điểm nhất định để thực hiện một
mục đích chiến lược đã định sẵn? Năm 1983, Ronald Reagan
không hỏi giới quân sự là quân đội có nên vào Grenada để
ổn định một tình trạng đe dọa hay không mà chỉ hỏi là
làm sao hoàn tất được sứ mạng đó. Tổng thống Bush hoặc
Clinton cũng không hỏi các cấp chỉ huy có nên đánh đuổi Iraq
ra khỏi Kuwait hay không, hay có nên bảo vệ những người
An-ba-ni ở Kosovar chống lại người Serbs hay không. Các tổng
thống đó chỉ hỏi làm sao thực hiện được các mục tiêu
đó một cách nhanh chóng và ít thương vong nhất. Như vậy tập
quán, truyền thống và pháp lý đã phối hợp để thiết lập
vững vàng chế độ dân sự kiểm soát quân sự trong hệ thống
chính trị và xã hội Mỹ.
Kinh nghiệm của Hoa kỳ có thể cung cấp những bài học đáng
giá cho các quốc gia đang phấn đấu vượt qua các thử thách
để xây dựng một nền dân chủ trứng nước. Có lẽ một
trong những thử thách hiển nhiên nhất là mối đe dọa cấp
chỉ huy quân đội cướp chính quyền. Có hai nguyên tắc quan
trọng để tăng cường sự kiểm soát của dân sự. Thứ nhất,
một nền dân chủ mới hình thành cần thiết lập những nền
tảng hiến pháp vững chắc để làm cơ sở cho việc dân sự
kiểm soát quân sự. Tuy cũng có nhiều điều không rõ rệt
nhưng Hiến pháp Hoa kỳ đã chia quyền lực quân sự giữa hành
pháp và lập pháp để ngăn ngừa việc lạm dụng quyền lực.
Hiến pháp cũng qui định rõ rệt là tổng thống, người lãnh
đạo dân sự do dân bầu ra, là tổng tư lệnh quân đội.
Điểm cốt yếu ở đây là quyền lực của tổng thống được
quy định và được giới hạn một cách toàn diện; mặt khác
Quốc hội, các toà liên bang, và cử tri có quyền lực rất
lớn. Do đó vai trò chỉ huy quân đội của tổng thống không
đưa tới việc chỉ huy các lãnh vực khác. Vai trò dân sự chủ
yếu của tổng thống đã xuất phát từ lịch sử Hoa kỳ. Chỉ
có 4 tổng thống - Washington, Jackson, Grant, và Eisenhower - là đã
có sự nghiệp quân sự đáng kể trước khi làm tổng thống.
Vị nào cũng hiểu rõ cần phải phân biệt và tách rời chức
năng quân sự với chức năng chính trị. Tướng Dwight Eisenhower
lại còn tôn trọng nguyên tắc này kỹ đến nỗi khi đang chỉ
huy quân đội Đồng minh tại châu Âu ông không đi bỏ phiếu.
Nguyên tắc thứ hai đòi hỏi là quân đội chỉ giữ vai trò
thực hiện chính sách chứ không phải vai trò ấn định chính
sách. Việc Eisenhower từ chối không đi bầu trong khi ở trong
quân đội biểu lộ điều ông tin là các quyết định quân sự
không thể bị che khuất bởi các quyết định chính trị.
Tướng không nên tham gia vào việc quyết định chính sách mà
chỉ nên cho các lời cố vấn liên hệ tới việc dùng quân
đội để đạt được các mục tiêu chính sách và tới khả
năng thành công của việc dùng quân sự. Phải để cho các nhà
lãnh đạo chính trị quyết định có nên sử dụng võ lực hay
không.
Nguyên tắc thứ hai này còn khó thực hiện hơn nguyên tắc bảo
vệ bằng hiến pháp. Tuy việc hiến pháp xác định rõ rệt sự
phân chia quyền hành giữa các nhà lãnh đạo quân sự và lãnh
đạo chính trị đã là một bước đầu rất tốt nhưng điều
thử thách là làm sao thuyết phục giới quân đội rằng vai trò
của họ là một vai trò phụ trợ. Trở ngại chính cho việc
dân sự kiểm soát dân sự thường là tư duy của xã hội vẫn
tán dương quân đội. Thay đổi tư duy này là một công việc
khó nhưng cần thiết để giữ quân sự dưới quyền kiểm soát
của dân sự. Điều này đòi hỏi thời gian và nâng cao dân
trí. Những lãnh tụ cũ không tin tưởng vào giới lãnh đạo
dân sự cần phải được thay thế bằng các lãnh tụ mới sẵn
sàng hợp tác và phục vụ thể chế lãnh đạo dân sự. Lẽ dĩ
nhiên nếu lãnh đạo dân sự do dân chúng bầu lên thì tư thế
chính danh của họ đối với nhân dân cũng giúp họ kiểm soát
được giới quân sự. Nhiệm vụ này quả thực khó nhưng cũng
không khó hơn là nhiệm vụ xây dựng một chính quyền dân chủ
lành mạnh. Cũng cần phải nói rõ là một quân đội tự coi
mình chỉ là một thành phần của một xã hội dân chủ thì
cũng nhờ đó mà trở nên mạnh hơn chứ không phải yếu hơn
bởi vì các hành động của quân đội lúc đó là phản ánh
nguyện vọng tối cao của nhân dân mà quân đội phục vụ.
© Học Viện Công Dân 2006
<h3>Tài liệu đọc thêm</h3>
Kenneth C. Allard, Chỉ huy, Kiểm soát và công cuộc Bảo vệ chung
[Command, Control, and the Common Defense]. (Yale University Press, 1990)
Peter Douglas Feaver, Canh chừng những người Canh gác: Việc dân
sự kiểm soát võ khí hạt nhân tại Hoa kỳ [Guarding the
Guardians: Civilian Control of Nuclear Weapons in the United States].
(Cornell University Press, 1992)
Andrew J. Goodpaster, and Samuel P. Huntington, eds. Quan hệ giữa dân
sự và quân sự [Civil-Military Relations]. (American Enterprise
Institute for Public Policy Research, 1977)
Samuel P. Huntington, Người Lính và Nhà nước: Lý thuyết và
chính trị về quan hệ giữa quân đội và dân sự [The Soldier
and the State: The Theory and Politics of Civil-Military Relations]. (Vintage
Books, 1964)
Morris Janowitz, Người lính chuyên nghiệp [The Professional Soldier].
(Free Press, 1980)
Burton M. Sapin and Richard C. Snyder. Vai trò của giới quân sự trong
chính sách đối ngoại của Hoa kỳ [The Role of the Military in
American Foreign Policy].(Doubleday, 1954)
Adam Yarmolinsky, Tập đoàn quân sự [The Military Establishment].
(Perennial Library, 1973)
Sơ lược về tác giả: Michael F. Cairo đậu Tiến sĩ tại
trường Đại học University of Virginia năm 1999. Ông từng dậy
tại các trường đại học Virginia Commonwealth University, Southern
Illinois University và hiện nay đang dậy tại trường đại học
University of Wisconsin-Stevens Point. Ông chú trọng và nghiên cứu
về chính sách đối ngoại của Hoa kỳ và diễn trình ấn
định chính sách đối ngoại.
<h3>Ghi Chú</h3>
[1] Garry Wills, một sử gia cận đại về lịch sử Mỹ, nhấn
mạnh qua Hiến pháp là tổng thống Mỹ chỉ là Tổng tư lệnh
quân đội và vệ binh quốc gia (thuộc tiểu bang) chỉ khi các
lực lượng này được triệu tập để thực sự phục vụ
quốc gia, chứ không phải là tổng tư lệnh của dân..
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6034), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét