thất hẹn với anh H. Đã hứa với anh H là sẽ viết ra vài
cảm nghĩ trong ngày lịch sử này, nhưng vẫn chưa thực hiện
được, cũng chỉ tại chuyện cơm áo gạo tiền. Một nghiên
cứu sinh của tôi đang nộp luận án, một công trình về tiểu
đường đang níu kéo, một dự án về béo phì trên bàn, một
dự án về gãy xương và tử vong, v.v. Đó là chưa kể việc
thường ngày. Và, những việc không tên nữa. Nhưng vẫn phải
viết ra đôi dòng gọi là… suy nghĩ.
Kí ức về ngày 30/4 của tôi vào thời điểm 35 năm trước
đây không có gì sâu sắc lắm. Vì sau những biến động ở
miền Trung, thiên hạ đoán rằng chế độ VNCH sẽ sụp đổ,
nên tôi về quê. Lúc đó anh Hai tôi chưa về nhà vì còn nấn
ná trên Sài Gòn. Tôi về quê đâu chỉ 1 tuần sau là đến ngày
30/4. Tôi còn nhớ cái tin chế độ VNCH sụp đổ chẳng làm ai
ngạc nhiên. Người dân vẫn nhóm chợ như mọi buổi sáng nhưng
câu chuyện chắc rơm rả hơn. Mấy người hàng xóm vẫn ra
đồng như mọi hôm.
Hừng sáng hôm 30/4, bác Ba Tể chèo xuồng từ kênh Thầy Cò
xuống nhà tôi báo tin "lật đổ". Bác Ba Tể là người gốc
Thái Bình, vào Nam cùng thời với Ba tôi, cùng đi kháng chiến
và hình như cùng đơn vị, nên hai người rất thân nhau. Sự
thật là tụi tôi xem các anh chị con bác Ba như người trong gia
đình. Bác Ba có đến 8 người con. Chị Quyết chết lúc còn
nhỏ vì bệnh, anh Chiến đi lính bị thương cụt chân, về làm
thợ may. Anh Sinh đi bộ đội và sau này hi sinh. Còn mấy người
khác thì chỉ làm thường dân. Lúc đó (1975) bác đã có 6
người con, mà bác đặt tên là "Quyết (gái), Chiến (trai),
Sinh (trai), Bình (gái), Tồn (trai), Tiến (trai)". Sau 1975 bác còn
có thêm 2 người con nữa, và chắc hơi bí câu chữ, nên bác
đặt là: "Yên (trai), Lành (gái)". Quyết Chiến Sinh Bình Tồn
Tiến Yên Lành. Chỉ với cách đặt tên của con của bác Ba tôi
cũng nói lên ý chí kháng chiến và mong ước hòa bình như thế
nào.
Sáng hôm đó, Ba tôi, bác Ba Tể, và tôi ngồi chung quanh bàn
dưới ánh đèn dầu bàn chuyện thế sự. Ai cũng vui mừng. Từ
nay sẽ không còn đánh nhau nữa, sẽ không còn những cuộc hành
quân với xe tăng thiết giáp mà bà con chạy trối chết, không
còn những đợt bồng bế nhau đi tản cư, không còn thù hận.
Tôi thấy một tương lai xán lạn …
Hồi đó còn trẻ, hăng lắm. Đi công tác ở đâu cũng ghi chép,
viết lách, thậm chí … làm thơ. Báo Nhân dân có đăng mấy
bài bút kí của tôi, Đài phát thanh cũng đọc bài tôi viết
về Phú Quốc, về Hà Nội. Nhưng thời đó chưa có chuyện trả
tiền nhuận bút, mà tôi cũng chưa bao giờ cần tiền nhuận
bút. Lần ra Bắc và Hà Nội tập huấn để lại trong tôi
nhiều ấn tượng mà có lẽ sẽ không bao giờ xóa được.
Miền Bắc nghèo quá. Tôi còn nhớ chiếc xe Ford Falcon (thu dụng
từ thời trước, nay dùng làm xe cho sếp đi) khi đến Thái
Bình, trẻ con trong làng cứ chạy theo sờ xe và … ngửi xăng!
Trước đó qua Thanh Hóa thấy Thành phố Vinh tan hoang, bưu điện
là một cái nhà lá còn nhỏ hơn nhà tôi dưới quê. Đến Hà
Nội thì ôi thôi tiêu điều làm sao. Lúc đó, tôi chưa biết
rằng chính XHCN làm cho kinh tế như vậy, mà chỉ nghĩ là do
chiến tranh gây ra. Tôi nghĩ rằng mấy chuyện nghèo nàn mình
thấy là chuyện nhỏ, và tin rằng mai mốt mình sẽ xây dựng
tốt hơn.
Thế nhưng những gì xảy ra sau đó cho thấy mình quá lạc quan
… tếu. Đúng là thanh niên ngây thơ. Khởi đâu là đổi tiền.
Rồi hợp tác xã. Gia đình mất đất. Nhìn chung quanh thấy trong
đại gia đình mình có người đi cải tạo mút mùa. Ở cơ quan
thì có chính sách gọi là "kiểm điểm". Rất lạ với chúng
tôi lúc đó. Có một chiếc xe Honda do anh Hai để lại cũng bị
hỏi "từ đâu". Điều này làm tôi rất bực. Bạn bè tụ
tập có năm ba mạng trong quán cà phê nói chuyện là bị "hỏi
thăm" ai đứng đầu nhóm. Người ta tranh nhau để mua từng
mét vải, từng kílô đường. Rồi bo bo, ăn độn. Rồi vượt
biên. Bây giờ nhìn lại thấy chỉ có 5 năm sau khi chiến tranh
chấm dứt là biết bao dao động xã hội và lịch sử. Tôi cũng
bị sự dao động lịch sử và trở thành "boat people".
Ba mươi năm trước, ghe chở tôi và 22 người khác, sau 3 ngày
đêm lênh đênh trên biển, tấp bến Budi, một làng chài ở
phía Nam Thái Lan, giáp ranh Mã Lai. Ở đó vài tuần, lên trại
tị nạn Songkhla. Ở Songkhla vài tháng mới thấy thảm cảnh
của dân mình. Nếu 100 người may mắn đến trại thì chắc có
20 người đã bỏ mạng trên biển cả. Bỏ mạng vì chìm ghe,
vì hải tặc sát hại, vì hải quân Thái Lan hay Mã Lai tàn sát,
v.v. Phải tận cảnh chứng kiến những khuôn mặt hớt hải
nhập trại mới cảm nhận được sự kinh hoàng của những
"thuyền nhân". Có biết bao em bé lên bờ thành mồ côi vì
cha mẹ và anh chị đều chết. Có nhiều chiếc ghe mà chỉ có
một người duy nhất đến bờ. Có vài phụ nữ cứ lẩm bẩm
chẳng biết nói gì, như bị ám ảnh bởi thảm cảnh vừa trải
qua. Có người lấm lét nhìn đàn ông như sợ hung thần sát
nhân. Tôi đọc đâu đó ước tính rằng có gần 300 ngàn
người Việt bỏ mạng trong thập niên 1980s và đầu 1990s. Có
lẽ chưa bao giờ mà lịch sử VN ghi nhận một sự mất mát to
lớn như thế. Cũng chưa bao giờ trong lịch sử chúng ta có một
làn sóng người bỏ quê ra đi đông đảo như thế. Lúc đó tôi
ghét Thái Lan lắm; tôi thậm chí thề có ngày sẽ … ăn thua
đủ với cái nước này để đền bù lại những gì dân VN
mất vào tay nước này. Nhưng ông bà mình nói đúng: "ghét
của nào, trời trao của đó". Sau này chính tôi lại là
người giúp Thái Lan nhiều hơn là giúp VN! Điều này dạy tôi
một bài học: không nên thù oán ai. Tôi thành đệ tử không
chính thức của Phật.
Điều đáng mừng là chỉ khoảng chục năm sau định cư,
người Việt đã lấy lại "thăng bằng" và tiến bước trong
xã hội mới. Cho đến nay, có thể nói rằng người Việt ở
nước ngoài là một cộng đồng lớn, và cũng có vài thành
công nhất định, nhất là khoa bảng. Sự hiếu học và thành
công trong học đường của người Việt được người bản
xứ nể trọng. Người Việt có mặt trong hầu hết những lĩnh
vực "mũi nhọn" trên thế giới. Người Việt kinh doanh cũng
khá, chúng ta đã có khá nhiều triệu phú. Một anh bạn người
Úc là kí giả, từng quan sát sự trưởng thành của cộng
đồng người Việt ở đây, nói với tôi rằng: Người Việt
có sức sống và thích nghi với môi trường mới tuyệt vời.
Nhưng tôi nghĩ anh ta chỉ khen cho có thôi, chứ trong thực tế
thì tôi thấy mình vẫn thua kém nhiều người khác. Thật vậy,
nếu chịu khó nhìn vào những kết quả census (điều tra dân
số) và nghiên cứu xã hội, chúng ta sẽ thấy rằng so với các
cộng đồng khác như người Nhật, Tàu, Hàn, Phi, v.v. thì cộng
đồng người Việt vẫn còn thấp kém: ít học nhất, nghèo
nhất, tỉ lệ phạm tội chắc cũng thuộc hàng nhất nhì, và
khả năng hội nhập thấp nhất. Do đó, tôi nghĩ đừng tự ru
ngủ rằng chúng ta tài giỏi hơn ai. Chúng ta chỉ "khôn nhà
dại chợ" mà thôi. Ở bình diện quốc tế thì chỉ thành
công một chút, nhưng về nhà thì la hét cứ như là thánh. Tôi
đã từng thất vọng khi biết một số "thần tượng" khoa
học của mình rất xoàng, không như báo chí bên nhà ca ngợi.
Tôi vẫn nghĩ chúng ta còn quá kém, và cần phải bỏ cái thói
"khôn nhà dại chợ" thì mới khá lên chút được.
Đất nước thống nhất nhưng lòng người không thống nhất.
Ở ngoài vẫn có và còn những người không quên những xáo
trộn và mất mát của gia đình họ sau 1975. Ở trong nước,
vẫn có và còn những người không thể quên những đau khổ
trong thời VNCH. Hai bên đều có lí do để thù oán nhau. Có lẽ
bạn sẽ hỏi còn tôi thì sao. Tôi có thể trả lời ngay rằng
tôi chẳng thù oán hay trách ai. Tôi, nói như anh Cao Huy Thuần,
trước hay sau 1975 vẫn là người Việt Nam.
Nhưng tôi không trách những người vẫn còn giận. Họ có lí do
để giận. Lần đầu tiên, cách đây một hay hai năm khi tôi
đọc câu nói của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt (đại khái ông
nói rằng sau cuộc chiến thì có triệu người vui nhưng cũng có
triệu người buồn), tôi nghĩ phải chi các lãnh đạo trong nhóm
"thắng trận" ai cũng nghĩ như vậy thì VN đâu đến nỗi
như bây giờ. Mới đây, nghe câu này của ông Nguyễn Dy Niên
(cựu Bộ trưởng Ngoại giao – ông này từng kí bằng khen cho
tôi thì phải): "Ngày ấy (năm 1975) chúng ta đã thực hiện
những chính sách mà… đáng lẽ nếu tỉnh táo hơn, được
một phần của Đổi Mới sau này thôi, thì Việt Nam bây giờ
đã mạnh lắm, cường thịnh lắm… Nhưng thay vì khoan dung và
khéo léo trong đối nội, chúng ta lại có những chính sách như
cải tạo công thương nghiệp. Những chính sách ấy từ khi áp
dụng ở miền Bắc đã thấy trục trặc rồi, vậy mà ta lại
tiếp tục áp dụng ở miền Nam. Hậu quả là làm nền sản
xuất không thể nào đứng vững được, người dân thì hoang
mang". Ôi, nếu lúc đó mà ông làm Thủ tướng hay Tổng bí
thư thì chắc đâu có "boat people". Nhưng những người có suy
nghĩ như ông Võ Văn Kiệt và ông Nguyễn Dy Niên không nhiều.
Năm nay, hình như các chính khách Việt Nam nói nhiều về hòa
giải và hòa hợp. Nhưng thật ra, họ đi sau một số người
Việt ở hải ngoại, những người đã nói đến cụm từ này
từ 10 năm trước. Chính khách Việt Nam hơi chậm. Chẳng những
giới chính khách chậm, mà còn nói một đường làm một nẻo.
Chẳng hạn như một đằng thì nói toàn những ý tưởng nặng
tình dân tộc, nhưng một mặt khác thì vẫn quen thói sỉ nhục
và xỉ vả người thất trận. Chẳng nói đâu xa, ông Đại sứ
Võ Văn Sung, miệng thì nói hòa hợp, nhưng miệng khác thì nói:
"Chúng ta biết rằng vào thời điểm cuối tháng 4/1975 nếu
Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ còn nắm quyền …". Khó tin đó
là ngôn ngữ của nhà ngoại giao. Ông Thiệu là Tổng thống;
tại sao không gọi như thế mà gọi tên người ta trỗng không
hàm ý khinh thị như thế. Lại còn những bài báo đây đó dùng
những từ như "ngụy", "bọn", "bè lũ", "tay sai" (ai
là tay sai?), v.v. Mộ của thân phụ và thân mẫu của ông Thiệu
bị bỏ hoang, trong khi thời trước 1975 mộ của cụ Nguyễn Sinh
Sắc (thân phụ ông cụ Hồ) ở Cao Lãnh thì được bảo vệ và
chăm sóc rất tốt, rất tình người.
Tôi có một anh bạn là Giáo sư có tiếng về xã hội học,
thường được mời về giảng ở trong nước. Trong khi đồng
nghiệp của anh chào đón thân tình, thì giới an ninh theo dõi anh
một cách công khai cứ như anh là… tội phạm. Mà, anh này
chẳng chống đối gì chính quyền; ngược lại, anh từng là
người hô hào chống VNCH và ủng hộ Mặt trận Miền Nam
trước đây. Anh nói có lẽ vì anh dạy về xã hội học, một
môn học khá "tế nhị" và "nhạy cảm" với Nhà nước
hiện nay, nên anh nằm trong tầm nhắm của giới an ninh. Khổ
thế!
Chỉ bao nhiêu đó cũng đủ để thấy rằng ý tưởng thể
hiện những mĩ từ "hòa hợp hòa giải" còn cách khá xa với
cách hành xử trong thực tế.
Một dân tộc không đồng lòng hay thiếu đồng thuận là một
dân tộc yếu. Nhìn sang Hàn Quốc mà thấy ngậm ngùi cho mình.
Trước đây, miền Nam Việt Nam cũng gần hay tương đương với
họ, mà nay thì ta đang nhìn họ như đứa trẻ mơ ước làm
người lớn. Tổng thống người ta biết tha thứ cho cựu Tổng
thống đã lầm lỡ, còn bên ta thì kẻ té ngựa bị đày đọa
cho chết, và nếu chưa chết thì thành thân tàn ma dại. Dã man.
Như vậy thì làm sao mà kêu gọi người ta quên quá khứ (thật
ra, không ai có thể quên quá khứ). Trong khi kêu người ta quên
quá khứ, còn mình thì khư khư ôm lấy thù hận, mà còn tỏ ra
miệt thị người ta!
Tôi nghĩ người Việt đã mệt mỏi với khẩu hiệu lắm rồi.
Xin đừng hô hào khẩu hiệu nữa! Nên thể hiện thiện chí
bằng hành động thực tế và có ý nghĩa thì mới thuyết phục
được người dân, và may ra đóng góp một phần nhỏ trong quá
trình thống nhất lòng người. Tôi nghĩ không nên thể hiện
theo kiểu "ăn mừng", vì ý nghĩa ăn mừng của 1 triệu
người bên này là ngày buồn của 1 triệu người bên kia (nói
theo ý của cựu TT Võ Văn Kiệt). Nên chăng biến ngày này thành
ngày hội thống nhất đất nước, và bỏ đi những thước phim
[tự] ca ngợi một chiều, bỏ đi những từ ngữ mang tính xúc
phạm người đang buồn.
N.V.T.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4857), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét