Vĩnh biệt nhà thơ Hữu Loan

<div class="special_quote"><h2>Đôi nét vê Hữu Loan:</h2>

Tên Hữu Loan cũng có tên đời là Nguyễn Văn Dao, Sắt Đỏ,
Tốt Đỏ, Binh Nhì… Tên chợ là Ông già Vườn Lồi (Phù Viên
Lỗi). Sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Vân Hoàn, Nga Sơn, Thanh
Hóa.

Từ 1936 đến 1942 làm cách mạng trong phong trào học sinh và nhà
trường.

Từ 1943 đến 1945 về đi cày và đánh cá, làm Việt Minh và làm
khởi nghĩa huyện nhà [1] . Cùng năm làm Ủy ban Lâm thời tỉnh
phụ trách 4 ty Giáo dục, Thông tin, Công chính và Thương chính.
Chán lại về đi cày và đánh cá nuôi bố mẹ già.

Từ nửa năm 1946 đến 1951, điện mời làm chủ bút báo Chiến
sĩ Quân khu IV ở Huế. Gặp Nguyễn Sơn, ủng hộ đường lối
ưu tiên với văn nghệ sĩ [2] .

Khi Nguyễn Sơn bị đình chỉ công tác, trả cho Trung Quốc,
đường lối Nguyễn Sơn bị Lê Chưởng và Hoàng Minh Thi phản
đối, Hữu Loan đề nghị giữ Phạm Duy ở lại không được,
lại về đi cày cho đến 1954 tiếp quản thủ đô lại có
điện mời ra làm biên tập cho báo Văn nghệ, được mời vào
làm hội viên Hội Nhà văn. Sau tham gia Nhân văn rồi bỏ về đi
cày, đi thồ, từ 1958 cho đến giờ (cuối 1987) [3] … </div>

<h2>Tự phỏng vấn</h2>

<em><strong>Phóng viên:</strong> Từ mấy chục năm nay trong dân gian
và trong văn học thường hay nói đến "Nhân văn-Giai phẩm",
đến "vụ án Nhân văn-Giai phẩm" như là một chuyện gì ghê
gớm lắm mà những người đã tham gia vụ ấy là những tên
đầu trộm đuôi cướp, lừa đảo không thể dung tha được,
những bọn cặn bã xấu xa nhất của xã hội ta. Nhưng trong
thực tế thì thơ, nhạc của họ đều được nhân dân truyền
tụng ngầm rồi đến công khai, cấm cũng không xong, càng ngày
càng lan tràn. Ngay cả đến nhà nước lại cũng đã tuyên bố
phục hồi cho họ, in lại thơ, lại nhạc. Như thế là trước
kia không phải họ sai mà nhà nước sai hay sao? Nếu nhà nước
sai thì làm gì còn có "vụ án Nhân văn"? Có sai mới có án, mà
đã không thì cái gọi là "vụ án Nhân văn" là một vụ oan.
Nhưng mới gần đây vẫn có người trịnh trọng tuyên bố "vụ
Nhân văn" là một vụ án. Chúng tôi là những người cầm bút
chuyên môn mà vẫn thấy mâu thuẫn khó hiểu, huống hồ người
dân thì lâu nay chỉ được thông tin một chiều… Họ thắc
mắc hỏi chúng tôi, chúng tôi rất lúng túng không giải thích
nổi. Vậy thì thưa ông Hữu Loan, ông đã là người trong cuộc,
xin ông giảng lại cho: Thế nào là "Nhân văn"? Thế nào là "Vụ
án Nhân văn"?</em>

<strong>Hữu Loan:</strong> Tất cả mọi cái này, tôi đã có ý
kiến đầy đủ trong bản kiểm điểm của tôi ở trại chỉnh
huấn Nhân văn. Các anh nên đến qua Công an Hà Nội tìm đọc
thì hơn.

<em><strong>Phóng viên:</strong> Bác ngại sao?</em>

<strong>Hữu Loan:</strong> Cũng ngại chứ!

<em><strong>Phóng viên:</strong> Vì sao vậy?</em>

<strong>Hữu Loan:</strong> Vì tuổi tác cũng có. Nhất là vì mới
đây thấy hưởng ứng lời kêu gọi tự do báo chí, Nguyên
Ngọc chỉ cho đăng số bài của các nơi gửi về mà đã bị
kết tội là sai phạm lệch lạc nghiêm trọng hơn nhiều, rồi
hết cuộc họp này đến cuộc họp khác, để kiểm điểm,
để bàn cách đối phó. Nhưng dù sao, khắp nơi các báo chí
đều dám lên tiếng ủng hộ Nguyên Ngọc.

Còn hồi tôi về thì không một người bạn nào dám đến đưa
chân ngay ở nhà chứ đừng nói ra ga, mặc dù có những bạn
tôi đã đấu tranh cho được vào biên chế, được vào Hội
Nhà văn mà mới cách đây vài năm đi công tác qua nhà tôi cũng
vẫn còn sợ liên quan không dám vào. Họ đều đổ cho là tại
chế độ, tại tình hình. Nhưng nếu chế độ là chế độ thì
người cũng phải là người chứ. Cái gì cũng có giới hạn
của nó. Đấy là bè bạn, là người ngoài. Ruột thịt đối
với tôi còn tàn nhẫn hơn nhiều.

Những năm 1943, 1944, 1945, Nhật đánh Pháp ở ta dữ dội,
trường tư tôi dạy phải đóng cửa, tôi về quê vừa làm
ruộng, đánh cá để nuôi bố mẹ và để hoạt động Việt
Minh bí mật. Mấy năm ấy đói to. Bố mẹ tôi vẫn phải nhịn
cháo rau cho cán bộ Việt Minh bí mật về ăn. Những người
cùng ở ban khởi nghĩa với tôi làm to cả, gia đình nào bố
mẹ cũng sung sướng, nguyên tôi lại về. Mẹ tôi buồn ốm
chết. Bố tôi chửi tôi:

"Mày làm Việt Minh chặt hết của tao một giặng tre để rào
làng, rào giếng."

Các cháu trong nhà trong họ không đứa nào không chửi:

"Ông về là đúng! Trời làm tội ông. Lúc ông phụ trách 4 ty
còn ai nhiều chức hơn ông mà con cháu chả đứa nào được
nhờ. Ông cho trong huyện hơn bốn mươi người ra làm giáo viên,
con cháu xin thì ông bảo: 'Chúng mày rồi hẵng…' Ông chỉ
toàn khuyên các cháu đi bộ đội. Nghe ông, bốn đứa xung phong
đi, giờ còn có một đứa về… Hồi Việt Minh còn đang bí
mật, ông đứng ra lãnh gạo, muối, diêm về phát cho dân. Ông
phát cho dân trước, đến lượt ông và con cháu ông lần nào
cũng hụt, có lần hết sạch. Bây giờ ông coi họ lãnh sữa
bột, dầu cải của quốc tế cho trẻ em, họ chia nhau trước,
đến lượt trẻ em thì hết. Không ai dại như ông. Khi ông có
tiêu chuẩn xe con, đi các huyện khác thì ông còn đi xe con chứ
khi nào về huyện ta ông toàn đi xe đạp, trong khi những người
không có tiêu chuẩn xe, họ mượn xe của ông để về vênh váo
với làng nước. Ông bảo ông làm cách mạng, để cho cả làng
được đi học. Khi cách mạng thành công thì thằng con ông thi
đại học đậu thừa điểm đi nước ngoài họ không cho đi
ngay cả trong nước và chúng đã thay vào chỗ con ông một tên
Cường không đậu, tên na ná với tên con ông là Cương."

Có đứa nó như phát điên và nó đã chửi tôi:

"Ông là loại ngu nhất. Ông bảo ông mẫu mực, cái mẫu mực
ấy đem mà vứt cho nó ăn. Chả đứa nào nó thương ông. Ông
tự làm khổ ông lại làm khổ lây đến con cháu…"

Mỗi lần như thế tôi phải đấu dịu với chúng:

"Thôi tao van chúng mày, nếu mẫu mực mà lại được ngay ô
tô nhà lầu thì chúng tranh chết nhau để làm mẫu mực chứ
chả đến phần tao. Ngay ngày 2/9, bên xã mổ thịt bán tự do
cho dân về ăn Quốc khánh, tao biết thân phải đến rất sớm
mà cũng chả đến phần. Những ông Đảng ủy, Ủy ban v.v…
được mua trước, đến mình thì hết phần…"

<em><strong>Phóng viên:</strong> Như vậy là bác chán không muốn
nói đến chuyện "Nhân văn-Giai phẩm" nữa?</em>

<strong>Hữu Loan:</strong> Ai mà chả phải chán. Mình đấu tranh
cho họ, bênh vực họ, khổ vì họ, họ lại đè mình họ
chửi, họ oán. Những kẻ gây tai họa cho họ, họ lại cho là
đúng, là gương để cho họ noi theo.

<em><strong>Phóng viên:</strong> Xưa nay bác vẫn là người nói
thẳng, nói thật, lúc trẻ bác còn dám nói, giờ già rồi không
lý nào bác lại sợ, lại hèn?</em>

<strong>Hữu Loan:</strong> Anh kích tôi đấy phỏng? Tôi là người
không bị động bao giờ.

<em><strong>Phóng viên:</strong> Cháu không dám hỗn thế đâu,
nhưng đây là một vấn đề của lịch sử, trước sau rồi
cũng phải đưa ra ánh sáng. Chỉ có bác là người trong cuộc,
bác giúp cho bọn cháu thì nó cụ thể hơn, sát hơn, để các
cháu có thể hiểu được những cái vô cùng rắc rối của giai
đoạn xã hội hiện nay…</em>

<strong>Hữu Loan:</strong> Thực ra nếu bên Liên Xô không có
Khrushchev lật Stalin, đưa ra phong trào chống sùng bái cá nhân
thì bên Tàu không làm gì Mao Trạch Đông đưa ra chuyện "Bách
gia tranh minh, bách hoa tề phóng" và bên ta hưởng ứng tức
thời bằng phong trào mang tên dịch lại nhãn hiệu Trung Quốc
"Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng". Tên nôm na của ta là
"Chống sùng bái cá nhân".

Trước đó thì ở ta có hiện tượng rất phổ biến này: Khi
gặp nhau, trước bất cứ câu đối đáp nào đều phải có
nhóm thành ngữ "ơn Đảng ơn Bác" đứng đầu. Thí dụ:

"Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?"

"Dạ, ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi, ơn Đảng ơn Bác
tôi mới xuất viện được 2 hôm nay."

"Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì…"

Sau hàng tháng phát động đấu tranh kiểm điểm ở từng cơ
quan để bỏ chữ Bác đi và thay thế bằng: "Ơn Đảng ơn
Chính phủ":

"Ơn Đảng ơn Chính phủ vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp
không?"

"Ơn Đảng ơn Chính phủ nhà em có con lợn mới độ 30 ký
đang lớn, thanh niên cờ đỏ vào bắt nợ rồi, được bao
nhiêu thóc đong hết sạch mà còn thiếu phải bù bằng
lợn…"

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc liên tiếp bị đô hộ, hết
Tàu đến Tây, đến Nhật, đến Mỹ… Cái khao khát, cái đói
cố hữu của dân tộc này là đói độc lập, tự do, cơm áo.
Khi thấy Đảng hứa đem lại những thứ ấy cho thì người dân
tin tuyệt đối vào Đảng. Đảng bảo gì họ theo nấy, bảo
phá nhà thì phá nhà, bảo bỏ ruộng thì bỏ ruộng, bảo bỏ
bố bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ Trời bỏ Phật, bỏ
được tất, còn dễ hơn từ bỏ đôi dép rách. Anh đội
trưởng cải cách chỉ là một sứ giả của Đảng mà dân cũng
đã tin hơn trời: "Nhất đội nhì trời".

Lòng dân tin vào Đảng không thước nào đo được, nên khi phát
động để phủ nhận một điều gì Đảng đã chủ trương
trước kia, thật là vô cùng khó khăn. Nguyên chỉ để thay
đổi câu "Ơn Bác ơn Đảng" và kiểm điểm những việc làm
trước kia có tính chất sùng bái cá nhân mà cũng mất hàng
tháng phát động ở mọi cơ quan.

Khẩu hiệu là "Nói thẳng, nói thật, nói hết để xây dựng
Đảng!" Không những nói mồm mà còn viết lên các báo. Không
những viết lên các báo nhà nước mà còn khuyến khích mở báo
tư nhân để viết. Vì thế mới có Nhân văn, Giai phẩm của
chúng tôi. Và Trăm hoa của Nguyễn Bính.

Bài thơ "Màu tím hoa sim" của tôi (từ trước vẫn do dân
tự tiện truyền tụng ngầm, bất chấp lệnh nghiêm cấm của
những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai lần
đầu tiên báo Trăm hoa. Nguyễn Bính còn cho thuê taxi có loa
phóng thanh đi quảng cáo khắp Hà Nội là Trăm hoa số này có
thơ "Màu tím hoa sim" của Hữu Loan. Mấy tháng sau tôi đi
cải cách ruộng đất, làm bài thơ "Hoa lúa", 22 anh em nhà
báo nhà văn đi cải cách truyền tay nhau chép. Chị Bạch Diệp
báo Nhân dân xin chép đầu tiên, nhưng ý trung nhân của chị là
anh Xuân Diệu ở báo Văn nghệ không đăng, bảo là thơ tình
cảm hữu khuynh, mất lập trường. Trần Lê Văn đến mách với
Nguyễn Bính, Bính đến xin ngày bài "Hoa lúa" về đăng Trăm
hoa. Anh Bính còn làm một cử chỉ rất hào hùng là đem đến
trả cho vợ tôi 15 đồng nhuận bút, trong khi đăng Văn nghệ
chỉ được 7 đồng.

Anh bảo với vợ tôi: "Hữu Loan ở nhà thì tôi xin (tôi vẫn
viết không lấy nhuận bút để giúp những tờ báo nghèo, mới
ra) nhưng Hữu Loan đi cải cách chị cũng cần tiêu (15đ bằng
150.000đ bây giờ). Một chỉ vàng lúc ấy mới 20 đ. Nói ra
điều này để thấy rằng mức sống của người cầm bút
hiện nay đã vô cùng xuống dốc. Nhuận bút của cả một
quyển sách hiện nay không bằng tiền của một bài thơ Nguyễn
Bính trả cho tôi. Nhà thơ Tố Hữu đã có dự báo thiên tài:
"Chào 61 đỉnh cao muôn trượng!" Từ ấy đến giờ xuống
dốc tuồn tuột không phanh, không thắng…

Chính sự xuống cấp thảm hại trong đời sống đã là nguyên
nhân chính trong việc lưu manh hóa một số nhà văn, họ đã
phải uốn cong ngòi bút, cũng như trong việc in sách đen sách
trắng vừa rồi.

<em><strong>Phóng viên:</strong> Xin bác cho biết lại về vụ "Nhân
văn".</em>

<strong>Hữu Loan:</strong> "Nói thẳng nói thật, nói hết, để
xây dựng Đảng". Không những chỉ có Nhân văn hay Trăm hoa
mới nói thật, mà cả nước nói thật. Cả nước kêu oan.
Những "Ban Giải oan" đã thành lập để vào trong các nhà tù
giải oan cho hàng vạn người bị cải cách quy oan….

Nhưng đã ăn thua gì. Đơn từ kêu oan từ các nơi gửi về tòa
soạn Nhân văn thật đã cao bằng đầu, như "đống xương vô
định". Nhân văn đã xếp thành văn kiện chuyển cho Trung
ương Đảng nghiên cứu để thay đổi chính sách. Thật ra Nhân
văn chỉ khái quát tình hình để đúc thành lý luận. Bài báo
bị cho là phản động, phản Đảng, phản dân nhất của Nhân
văn là bài "Vấn đề pháp trị" do Nguyễn Hữu Đang viết
[4] .

Trong bài ý nói: sở dĩ chỗ nào cũng có áp bức chà đạp lên
con người là vì chưa có pháp luật rõ ràng. Tòa án là một
tòa án tha hồ tùy tiện còn hơn Tôn giáo Pháp đình của giáo
hội La Mã hồi Trung Cổ. Muốn bắt ai thì bắt, muốn xử ai
thì xử, bịa ra luật nặng nhẹ tha hồ để xử… Bài báo kêu
gọi cần phải phân quyền thì người dân mới có bình đẳng
trước pháp luật… Sau hơn ba mươi năm do tình trạng pháp
luật tùy tiện mà xã hội xuống cấp một cách tệ hại như
hiện nay. Vấn đề hàng đầu đang đặt ra để giải quyết
cũng là mấy vấn đề pháp trị mà Nguyễn Hữu Đang đã đặt
ra cách đây hơn 30 năm (mà phải nói đây là vấn đề sống
còn của chế độ).

Không có một cộng đồng nào mà thành viên nào cũng chứa toàn
âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người
nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại
sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là chính, mới sống
được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng
lớn như một huyện mới có độ 5 – 6 tên trộm mà trộm
không được pháp luật bênh như thế, mà dân cũng còn lo ngay
ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ thì
chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công
khai, coi thường pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế
nào để lạc nghiệp được?

Một vấn đề nữa Nhân văn đặt ra là "Vấn đề Trần
Dần" đăng trong Nhân văn số 1, có chân dung Trần Dần to
tướng với một vết dao lam cứa cổ to tướng do danh họa
Nguyễn Sáng vẽ [5] .

Từ trước ai cũng một lòng tin Đảng, cả trong lĩnh vực văn
học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu
hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường đi lên trong
văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến
cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao
giờ mới có chứ không được nói đến những cảnh trộm
cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Rất hiếm
những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt,
phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn
học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những
người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: Không có ăn cắp
mới lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ
da của nhân vật khổng lồ, của một chế độ khổng lồ!

Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống,
một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không tim như
đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn. [6]

Đường lối đó ở ta đã được ông Trường Chinh tiếp thu và
bảo vệ, và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc.

Một người nhà báo hỏi ông:

"Như vậy là Cách mạng đã cấm tự do ngôn luận."

Ông Trương Chinh sửng sốt:

"Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc đó
thôi."

Như thế là đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa đã
cấm hẳn hiện thực phê phán là thứ vũ khí sắc bén nhất
của báo chí để cải tạo kịp thời xã hội. Lý luận hiện
thực XHCN này được học tập ráo riết trong quân đội, trung
tâm đào tạo những tông đồ để áp dụng và đi phổ thuyết
về "con đường đi lên" là Tổng cục Chính trị lúc bấy
giờ do ông Nguyễn Chí Thanh làm Tổng cục trưởng và ông Tố
Hữu làm Tổng cục phó. Trong số văn nghệ sĩ phản đối
đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa có Trần Dần, Lê
Đạt, Hoàng Cầm, Tử Phác… Có lẽ quyết liệt nhất là Trần
Dần, nên Trần Dần bị bắt giam và trong nhà giam Trần Dần
đã dùng dao lam cắt ven cổ nhưng chỉ toác da, chưa đứt đến
ven thì đã kịp thời chặn lại.

Vì thế mà có bài "Vấn đề Trần Dần" trong Nhân văn số 1
như đã nói trên. Đây là một vấn đề văn học, hoàn toàn
văn học. Đây là một cử chỉ khí tiết của nho sĩ Việt Nam
trước cường quyền không bao giờ là không có, dù cường
quyền có thiên la địa võng đến đâu thì cái truyền thống
đáng tự hào ấy, cái hồn thiêng của sông núi ấy không tà
khí nào làm mờ nổi. Trần Dần chỉ là hậu thân của những
người đã viết "Vạn ngôn thư", "Thất trảm sớ"…
Cũng như vấn đề pháp trị của Nguyễn Hữu Đang, vấn đề
văn học mà Trần Dần đòi xét lại cách đây hơn 30 năm hiện
giờ vẫn đang rất là thời sự. Cái tai họa lớn nhất hiện
giờ vẫn là do khuyến khích tô hồng, đề cao người giả,
việc giả, hàng giả… Những người thấy trước tai họa,
chân tình muốn ngăn chặn tệ nạn xã hội tô hồng thì bị
gán ngay cho cái tội bôi đen.

Đáng nhẽ những người như Nguyễn Hữu Đang và Trần Dần
phải được một giải thưởng quốc gia, một cái giải vinh
quang là đã đưa ra được giải pháp để cứu nguy cho dân
tộc.

Nhưng trái lại, lại vu oan giá họa, đặt lên đầu họ cái án
gọi là "án Nhân văn".

Thực ra Nhân văn hưởng ứng lời Đảng gọi: "Nói thật, nói
thẳng, nói hết để xây dựng Đảng", và chỉ đấu tranh cho
tự do báo chí, tự do ngôn luận mong thực hiện tự do bầu cử
vào quốc hội, vào chính phủ. Chỉ cần thực hiện thật sự
dân chủ nội dung của Hiến pháp là cũng đã lý tưởng rồi.

Hiện nay báo Văn nghệ cũng đang làm cái việc như Nhân văn
ngày xưa làm, cũng do được kêu gọi, được giao trách nhiệm
Nguyên Ngọc mới dám làm, và báo Văn nghệ cũng đang bị khép
tội là mắc những lệch lạc nghiêm trọng.

Có điều khác là: Nhân văn ngày xưa đơn độc, khi bị đánh
không ai dám bênh, ngậm cái miệng cúi đầu mà mang án. Còn bây
giờ thì hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đã khác. Không
thể đóng cửa mãi ở trong nhà và ngủ yên được mãi trên
những sai lầm vô định. Khi Nguyên Ngọc bị đánh, đã có báo
chí khắp nơi lên tiếng, những bản kiến nghị đang tiếp tục
gửi về…

Nếu phong trào tự do báo chí, phong trào ủng hộ Nguyên Ngọc
và báo Văn nghệ mà bị dập, tức là bọn quan liêu cơ hội
thắng thế, kết quả là xúc tiến sự sụp đổ toàn diện,
sự tổng khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị và uy tín
của Đảng sẽ bị mất hoàn toàn vì bọn chúng. Quần chúng
sẽ mất hết tin tưởng vào Đảng.

Từ trước tới giờ: làm sai cũng là bọn cơ hội, kêu gào
sửa sai cũng là chúng, rồi đàn áp sửa sai cũng lại là chúng.
Khi sai quá rồi không sửa thì dân không chịu nổi phải nổ.
Nhưng sửa đến triệt để thì cháy nhà lại ra mặt chuột,
nên cứ nửa chừng thì lại đàn áp sửa sai; chúng vu cho những
người đã từng làm theo chúng tội rất nặng, càng nặng thì
quần chúng càng dễ quên tội của chúng và cho rằng những
rối loạn trước kia là do âm mưu bọn sửa sai gây ra. Chúng
bàn nhau mưu kế dựng chuyện theo bài bản, những ông trên
không sát cũng phải tin như thật.

Chính Nguyễn Hữu Đang đã rơi vào trường hợp như vậy.

Đang là người giác ngộ cách mạng sớm. Anh là linh hồn của
Hội Truyền bá Quốc ngữ mà cụ Nguyễn Văn Tố là danh nghĩa.
Dựa vào Hội TBQN, Nguyễn Hữu Đang đã hoạt động cho mặt
trận Văn hóa Cứu quốc. Những nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng,
Nguyễn Đình Thi, đều do Đang tổ chức vào mặt trận. Khi
chính phủ vào Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang là trưởng ban tổ
chức lễ Tuyên ngôn Độc lập, sau làm Bộ trưởng Bộ Thanh
niên. Khi rút khỏi Hà Nội năm 1952-1953 vào Thanh Hóa, Nguyễn
Hữu Đang là Tổng thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1954 tiếp
quản thủ đô, Trung ương cho xe vào Thanh Hóa mời Đang ra, muốn
nhận bộ trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt Đảng, anh đều
khước từ. Tôi hỏi vì sao, anh bảo:

"Nội bộ thiếu dân chủ trầm trọng, mình bây giờ chỉ một
mình một Đảng."

Sau hỏi anh làm gì, anh xin về làm nhà in, trình bày cho báo Văn
nghệ.

Mãi đến gặp phong trào "Trăm hoa", Đảng phát động cho viết
báo tự do, lại cho mở báo riêng thì anh Đang mới ra làm Nhân
văn.

Anh Đang là một người rất có khả năng về chính trị cả
về lý luận lẫn tổ chức, lại là một người rất hay giúp
đỡ anh em và rất giữ lời hứa. Để một người có tài có
đức như vậy thì bọn cơ hội hết đường xoay xở nên phải
đánh. Một mặt phải phát động tố điêu dựng tội (như hồi
cải cách dựng địa chủ) để đưa Nguyễn Hữu Đang lên thành
phản động đầu sỏ. Một mặt sai điều động từ Thanh Hóa
ra, từ các nơi về, hàng 6 sư đoàn để về vây thủ đô đề
phòng bọn Nhân văn làm phản (trong khi Nhân văn chỉ mấy thằng
đi kháng chiến về, đói rách trói gà không nổi). Việc điều
động một lực lượng quân đội lớn như vậy mãi sau tôi về
quê gặp những người ở trong các đơn vị ấy nói lại tôi
mới biết.

Khi học tập, dựng tội cho Nguyễn Hữu Đang xong, cả lớp học
sát khí đằng đằng hò hét nào là tên Đang, nào là thằng
Đang phản động đầu sỏ. Mọi người ký vào kiến nghị lên
Trung ương Đảng đòi xử tội đích đáng Nguyễn Hữu Đang.
Tôi là người duy nhất đã ký như sau: "Khi Nguyễn Hữu Đang
hoạt động với tôi, tôi thấy Nguyễn Hữu Đang là người có
tài, có đức, tội trạng mới đây của Nguyễn Hữu Đang tôi
chỉ tai nghe, mắt không thấy, tôi không dám kết luận. Ký tên:
Hữu Loan"

Thế là Nguyễn Hữu Đang bị kết án 17 năm tù, mới đi được
7 năm thì nhờ đâu có sự can thiệp của Nhân quyền Quốc tế
nên anh được tha. Đáng nhẽ không thưởng, không giải oan cho
Nguyễn Hữu Đang thì im quách đi cho nó xong, đừng nay gào mai
gào "Vụ Nhân văn là một vụ án chính trị!". Gào như vậy
nhưng nếu có ai hỏi đến để tìm hiểu lịch sử thì lại
bảo "Đó là vụ án đã qua, bọn Nhân văn đã nhận tội
không nên nhắc đến nữa!".

Nếu không nhắc Nhân văn, sao người ta vẫn nhắc đến
phát-xít, Hitler, đến Stalin, đến Pol Pot? Thậm chí bọn vua
chúa hay Pháp Nhật Mỹ đã đi từ lâu rồi, mà bao nhiêu vụ ăn
cắp cũng là do phong kiến đế quốc, bao vụ cưỡng hiếp phụ
nữ trong cơ quan cũng là do phong kiến đế quốc, mặc dù những
người thực hiện các vụ ấy đều thuần túy xã hội chủ
nghĩa gốc Việt.

Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông có cấm nói đến mình được mãi
không, dù là những bạo chúa, những nhà độc tài cỡ quốc
tế?

Ngoài Nguyễn Hữu Đang còn có thêm những người này:

Phùng Cung, tác giả truyện ngắn "Con ngựa già của chúa
Trịnh" [7] : 7 năm tù giam. Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm, bị nghi
là cho Nguyễn Hữu Đang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7
năm mới tha.

Giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức: 17 năm như Đang.

Nhà nước xuất bản thì lúc nào cũng kêu lỗ, mặc dù in
nhiều hơn Minh Đức mà trả quyền tác giả lại rất rẻ mạt.
Nhà Minh Đức xuất bản Vũ Trọng Phụng, mời con gái của
Phụng lên lĩnh nhuận bút mà còn bỏ tiền về Hà Đông xây
mộ cho Vũ Trọng Phụng. Minh Đức định xuất bản Kiều để
vào xây mộ cho Nguyễn Du nhưng bị bắt. Ngoài ra từ 1954 đến
1956 Minh Đức còn mua được ½ nhà ưu giá 30.000đ (bằng 150 cây
vàng). Nhà Minh Đức làm ăn lời lãi như vậy mà ngoài anh ta ra
chỉ có thêm vài người giúp việc. Còn những nhà xuất bản
của nhà nước thì nhà nào cũng rất đông người làm mà chả
được bao nhiêu việc, nhà nào cũng kêu lỗ, nhưng vẫn cứ cố
bao nhiêu rơm cũng ôm.

Xưa nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có trách
nhiệm với công việc ấy, công việc càng khó khăn, lớn lao
trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện ngược
đời. Một lái xe chặn chết người muốn sửa sai không
được, anh phải đi tù, phải tước bằng. Anh bác sĩ chữa
bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và đi tù.
Đấy là những người làm chết ít người. Còn những người
cầm vận mệnh của cả nước đã làm cho đồng bạc mất giá
hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường xí nghiệp
phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu manh, cho 50% trẻ em
mất dinh dưỡng, còn giết oan bao nhiêu người có tài, có
đức, còn phá phách bao nhiêu công trình văn hóa lịch sử.
Những con giun bị đạp gào lên: "Sai rồi!" thì họ rất bình
tĩnh trả lời: "Sai thì sửa!" hoặc bất đắc dĩ phải sửa
thì không sửa chân thành.

Họ vẫn núp dưới cờ Đảng để đi từ sai lầm tày trời
này đến sai lầm tày trời khác. Họ đang làm cho dân không còn
tin vào Đảng. Họ xúc phạm vào anh linh những đảng viên ưu
tú đã nằm xuống. Họ coi thường những Đảng viên ưu tú
đang sống, đang không ngớt đấu tranh để thể hiện những
tính cách vô cùng cao quý của người cộng sản cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, khổ trước sướng sau v.v…

Hỡi những người Đảng viên quang vinh của Đảng Cộng sản
vô cùng quang vinh, người dân đau khổ lâu đời lúc nào cũng
đứng bên các bạn.


___________________________


<h2>Phụ lục: Hữu Loan - Giai thoại về một bài thơ</h2>

Hồi ấy vào đầu năm 1955. Tôi lúc ấy là cán bộ biên tập
báo Văn nghệ ở Hà Nội. Tôi được cử đi cải cách ruộng
đất ở xã Tứ Kỳ, Hải Dương. Cán bộ ai cũng "được"
đi cải cách. Đấy là một vinh dự vì "chưa qua cải cách thì
chưa thể làm người được".

Ngoài việc đi để làm người, tôi còn có nhiệm vụ viết bài
cho báo. Theo tinh thần trong những buổi học tập trước khi đi
thì nông dân được phát động vô cùng vui sướng phấn khởi.
Ngay cả giai cấp địa chủ là có tội mà cũng không oán Đảng
vì Đảng rất công minh. Nhưng thực tế thì khác nhiều. Địa
chủ không dám oán đã đành nhưng nông dân, chính nông dân thì
lại kêu ca rất nhiều về những hành động của anh em cốt
cán, nhất là những gia đình liệt sĩ lại càng bị sách nhiễu
hết mức như thu gian thuế, hay bắt phải làm cơm rượu cho
hàng chục người ăn thì mới cho người đem giúp đến kho độ
5 yến thóc… Họ đều kêu là bao nhiêu từng áp bức, kêu
trời, trời xa, kêu Bác Hồ còn cao hơn trời…

Tôi bèn làm một bài thơ gửi về tòa soạn.

Ngày hôm sau tôi nhận được điện khẩn của anh Xuân Diệu:
"Hữu Loan về tòa soạn ngay!". Chai lì như tôi mà vẫn thấy
lo lắng. Vừa về gặp anh Xuân Diệu tôi hỏi ngay:

"Cái gì đấy anh? Lành hay dữ?"

Xuân Diệu trấn an ngay:

"Bài thơ hay quá!"

Tôi không khỏi lạ. Hay sao lại phải điện khẩn về, ai mà
không khỏi hoảng.

"Nhưng phải sửa một câu thì mới đăng được."

Tôi vội hỏi:

"Câu nào?"

"Câu: Cụ Hồ như trời cao / Kêu làm sao cho thấu!"

Tôi hơi bực:

"Đăng thì đăng cả, bỏ bỏ cả, cả bài tôi chỉ thích có
câu ấy."

Một lúc rồi Xuân Diệu mới rủ rỉ như tâm sự:

"Để câu ấy thì ra Bác kính yêu của chúng mình lại xa quần
chúng à?"

Tôi khẳng định:

"Bác là thánh là trời thật, nhưng khi có những người cản
mắt Bác thì Bác thấy quần chúng làm sao được. Chính những
người như anh đang che mắt Bác đấy. Làm như tôi, lại không
che. Tôi đề nghị anh thỉnh thị Bác, tôi sẽ chịu hoàn toàn
trách nhiệm về bài thơ này."

Tôi không hiểu anh Xuân Diệu có dám thỉnh thị Bác không,
nhưng bài thơ của tôi không được đăng. Tôi chắc lý do không
đăng là vì Bác lúc nào cũng quan tâm đến quần chúng, khi
quần chúng khổ đã phải thét lên thành tiếng thì Bác không
thể nào bình tĩnh được.

© 2007 talawas

___________________________

[1] Ông gửi thư cho tên Bang tá ở huyện, vận động quan quân
ở huyện hàng Việt Minh, không mất một viên đạn (theo lời
kể của con trai út ông là Nguyễn Hữu Đán trước mặt ông).

[2] Ông cho biết là chính ông đi hỏi vợ cho tướng Nguyễn
Sơn.

[3] Bà Phạm Thị Nhu, vợ ông, kể trước mặt ông một số chi
tiết sau: "Khi ông nhà tôi quyết định bỏ về quê, gia đình
rất túng bấn, bản thân tôi phải may khâu kiếm thêm. Lúc ấy
ở quê lại đang chuẩn bị lên hợp tác xã, ông nhà tôi chỉ
băn khoăn là về quê vợ con sẽ khổ, song ông bảo tôi: 'Thôi
thì bà với các con chịu khổ để cho tôi được sống lương
thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu xe hơi sung sướng
đấy, nhưng tôi không làm được.' Ông ấy viết 4 lá đơn xin
về, trong vòng hai năm mới được giải quyết. Lần cuối còn
có hai anh cán bộ đến nhà vận động ông ở lại. Họ nói
từ sáng đến trưa, ông bèn cầm cây bút lên bẻ làm đôi,
bảo: 'Làm cán bộ, làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà
nước thì dân chửi cho, viết vừa lòng dân thì có thể đi tù
như chơi. Thôi tôi về đi cày.' Hai anh ấy lại nhờ tôi
khuyên ông. Tôi bảo: 'Nhà tôi đã quyết thì không ai nói
được đâu.' Chúng tôi nuôi 10 đứa con khôn lớn thật vô
cùng vất vả. Ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng,
lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về
một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một xoong to
toàn các thức rau, các con đi học về là nhào vào múc ăn thay
cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ 3 giờ sáng,
kéo 3 xe chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ
cách 2 cây số, bán cho các thuyền rồi mới ăn vội bát cơm
độn để chạy bộ 7 cây số đi học."

[4] Chú thích của talawas: Tên bài viết này của Nguyễn Hữu
Đang là "Cần phải chính quy hơn nữa", đăng trên Nhân văn
số 4, ở vị trí xã luận, trang 1 và trang 2, ngày 5.11.1956

[5] Chú thích của talawas: Tên bài hồi ký này của Hoàng Cầm
là: "Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người
Trần Dần", đăng trên Nhân văn số 1, trang 2 và trang 4, ngày
20.9.1956

[6] Chú thích của talawas: Truyện ngắn "Thi sĩ máy" của Châm
Văn Biếm, Nhân văn số 5, trang 3 và trang 4, ra ngày 20.11.1956

[7] Chú thích của talawas: Truyện ngắn này đăng trên Nhân văn
số 4, trang 3, ngày 05.11.1956

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4478), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét