nhất là từ năm 1997 tôi bắt đầu hình dung ra việc viết
cuốn <em>Cải cách và sự Phát triển</em>. Tôi đến rất nhiều
nước để nghiên cứu cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997,
đặc biệt ở Châu Á. Tôi có dẫn anh Bùi Xuân Khu, bây giờ là
Thứ trưởng Bộ công thương, lúc bấy giờ là Tổng giám đốc
của Vinatex. Tôi nói rằng "<em>tôi có một chuyến đi đến
Hàn Quốc do lời mời của sứ quán Hàn Quốc, ông có đi với
tôi không?</em>". Ông ấy đồng ý. Tôi hỏi: "<em>Thế ông
đã đi Hàn Quốc bao giờ chưa?</em>". Ông ấy bảo "<em>Tôi
đi ba lần rồi</em>". "<em>Thế ông có gặp gỡ ai
không?</em>". "<em>Không, chỉ lang thang thôi</em>". Do chúng
tôi được tổ chức một cách cẩn thận nên dịp đó chúng
tôi gặp rất nhiều người, trong đó có Thứ trưởng thường
trực Bộ ngoại giao, Bộ thương mại, Thứ trưởng thường
trực của Bộ kinh tế, Chủ tịch Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu,
và Chủ tịch hãng thông tấn Yonhap, nơi cung cấp hầu hết các
phát ngôn, quan điểm của chính phủ Hàn Quốc. Đến đó, tôi
nghiên cứu tại sao nền kinh tế của họ khủng hoảng.
Tôi nhớ hồi đó, tôi có lên ti vi tham gia toạ đàm bàn tròn
cho mục Xây dựng Đảng do anh Đậu Ngọc Đảm làm, chúng tôi
thảo luận về cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong cuộc toạ đàm
ấy có rất nhiều anh em, trong đó có cả anh Đào Xuân Sâm. Anh
Sâm nói rằng: "<em>Các đồng chí ơi! Tại sao xung quanh người
ta sốt lên cả rồi mà mình lại không sốt lên được?</em>".
Vào thời điểm ấy rất nhiều nhà nghiên cứu của chúng ta
rất thắc mắc rằng tại sao một đất nước như thế này mà
không có khả năng sốt lên được, tức là không có khả năng
khủng hoảng. Nhiều khi chúng ta tự hào rằng chúng ta không
chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng mà không phát hiện ra
rằng đáng lẽ chúng ta phải đau khổ khi thấy nền kinh tế
của chúng ta vô cảm với sự phát triển của thế giới. Bằng
những ấn tượng như vậy, tôi viết quyển <em>Cải cách và
sự Phát triển</em>. Trong quyển sách này, tôi có nói đến các
cuộc cải cách cần thiết và cơ bản, đó là cải cách kinh
tế, chính trị, văn hoá và giáo dục. Trong đó tôi xem cuộc
cải cách giáo dục là cuộc cải cách tổng hợp thể hiện
toàn bộ sự đổi mới về các quan điểm chính trị, kinh tế,
văn hoá. Phải nói rằng chỉ riêng nghiên cứu cuộc cải cách
giáo dục thôi, nếu có thời gian viết về nó thì nó trở
thành một công trình lớn. Trong quyển sách này, ngoài việc
liệt kê những cuộc cải cách cơ bản mà bất kỳ một thể
chế nào cũng phải làm, chúng tôi còn nghiên cứu những điều
kiện cơ bản của từng cuộc cải cách và nghiên cứu cả
việc phải kết hợp một cách đồng bộ các cuộc cải cách
như thế nào. Trong đó chúng tôi đưa ra một khái niệm là
"độ thấm của các chính sách vĩ mô". Chính việc chúng ta
không làm rõ khái niệm độ thấm của các chính sách vĩ mô
vào đời sống xã hội cho nên nhiều chính sách của chúng ta
khi ban hành thiếu tính nhân dân. Ví dụ, cấm hàng rong là
thiếu tính nhân dân. Anh đưa ra cái anh muốn nhưng anh không
hiểu cuộc sống đã muốn cái anh muốn chưa. Cho nên phải nói
rằng, một loạt các chính sách của chúng ta trong giai đoạn
gần đây là thiếu tính nhân dân, thiếu sự chiếu cố thoả
đáng đến các trạng thái thực của đời sống. Tôi có đưa
ra một số bài báo là cần phải có một quy trình bắt buộc
đối với việc hoạch định chính sách. Ví dụ chính sách ảnh
hưởng đến 5 người thì người ra chính sách có thể làm mà
không cần hỏi ý kiến. Nhưng nếu ảnh hưởng đến 500 người
tức là nó bắt đầu tác động đến xã hội một cách thật
sự, và đến 5 triệu người thì buộc phải thẩm định ở
mức cao nhất của đời sống chính trị. Nhưng hình như chúng
ta không có những nguyên tắc như thế. Ví dụ chuyện xe ba
bánh, xe tự chế, với tư cách là một người vẫn còn tiếp
tục sống trong đời sống thông thường, tôi rùng mình về sự
phiêu lưu chính trị như vậy. Các anh nghiên cứu, học tập
gương Bác Hồ vĩ đại để duy trì, dùng lịch sử để duy trì
mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nhưng những chính sách
như vậy đi ngược lại hoàn toàn, gây những phản ứng ngược
lại hoàn toàn với mong muốn như vậy. Phải nói rằng sự coi
thường nhân dân, sự không đếm xỉa đến chất lượng nhân
dân của luật pháp và chính sách đã bắt đầu trở thành một
tai hoạ của đời sống chính trị. Rất đáng tiếc không ai
nhận thức được chuyện này. Có nhiều nhà lãnh đạo cấp cao
vẫn nói rằng chúng ta phải nuôi dân, chúng ta phải lo cho
dân… Tôi đã nói với Đài truyền hình Việt Nam là tôi đề
nghị các anh đưa ra một yêu cầu là không nói chữ "dân".
Nhân dân không phải là cấp dưới của Nhà nước. Bản chất
của nền dân chủ là người dân làm chủ thể chế của mình
chứ không phải thể chế cai quản người dân. Hay nói về quân
đội của chúng ta chẳng hạn, tôi có nói với một số anh
cựu chiến binh là quân đội nhân dân Việt Nam là thành phẩm
của quá trình liên doanh giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và
nhân dân. Nếu quân đội chỉ bảo vệ Đảng (rất nhiều
đồng chí vô tình nói như thế mặc dù trong đầu có thể
không nghĩ thế), thì tự nhiên khi xem, khi nghe, người ta sẽ
hiểu là hoá ra các ông ấy làm như thế là vì các ông ấy.
Trong cuốn Văn hoá và Con người của tôi có phần văn hoá
chính trị, đấy là tôi muốn nói rằng cần phải chấn chỉnh
lại hệ thống ngôn ngữ, không được để nó diễn ra một
cách ngẫu nhiên, nó tạo ra một quá trình tuyên truyền ngược
lại với các nguyên lý căn bản nhất của đời sống chính
trị mà chúng ta tôn thời. Trong tất cả những cuốn sách này
tôi có nói về chuyện ấy. Chuyện ấy có thể không phù hợp
lắm với thẩm mỹ chính trị của nhiều đồng chí hiện nay
nhưng tôi nói rằng những giá trị như vậy, những khẳng
định như vậy không thể chối bỏ được. Sớm hay muộn gì
thì các nhà lãnh đạo của chúng ta cũng phải tiếp cận với
kỷ luật của đời sống, mà kỷ luật quan trọng nhất của
đời sống là sự đến gần các chân lý của nó.
Đây là lần đầu tiên gặp các anh các chị, nên tôi dành
thời gian mở đầu câu chuỵên bằng cách tự giới thiệu
mình. Anh Quang có đề nghị tôi nói sâu về cải cách chính
trị. Tôi thưa với các anh các chị là sách đã có rồi, nếu
mọi người chưa có thì tôi xin biếu, hoặc là đã đọc rồi
thì các anh hỏi, tôi trả lời. Tôi không thích sự độc
thoại. Tôi sẵn sàng trả lời những chất vấn của các anh
các chị, những cũng phải nói trước là tôi là người không
tranh luận. Nếu các anh các chị bảo tôi sai thì tôi sẽ im, lý
do rất đơn giản là tôi là người tôn trọng tính đa dạng
của đời sống. Nguyên lý tư tưởng của tôi là tôn trọng
sự đa dạng tự nhiên, bởi vì nó là bản chất của cuộc
sống. Cũng như lúc đầu tôi nói là không thể ghép đa nguyên
và đa đảng được. Chúng ta có thể ngăn chặn sự đa đảng
nhưng chúng ta không tiêu diệt sự đa nguyên được bởi vì đa
nguyên là bản chất của cuộc sống. Về mặt chính trị chúng
ta không cho phép đa đảng, hay chúng ta chưa được thành lập
đảng chính trị vào giai đoạn thế kỷ thứ XXIII chẳng hạn,
đó là quyền của những người cầm quyền. Khi anh vẫn cầm
quyền tức là anh vẫn có quyền. Nhưng anh không thể nói rằng:
vườn nhà các cậu chỉ trồng xà lách không thôi, trồng rau
muống không thôi, không được trồng rau nào khác. Trong bài
viết của tôi gửi giáo sư Phạm Ngọc Quang theo yêu cầu của
giáo sư, tôi đã nói rõ điều ấy. Tôi dừng lại ở đây.
Rất muốn các anh các chị có gì thắc mắc cần phải hỏi
thêm tôi, tôi sẽ trả lời. Sức mạnh của tôi là trả lời
nhanh câu hỏi của các anh các chị. Chỗ nào tôi không biết
thì tôi sẽ nói là tôi không biết. Tôi không phải là một nhà
hàn lâm chuyên nghiệp, tôi cũng không định trở thành một nhà
hàn lâm chuyên nghiệp, nhưng tôi muốn trở thành một con
người biết mọi thứ cần thiết cho cuộc sống. Rất có thể
quan đểm của tôi không làm vừa lòng một số anh chị ngồi
đây, hoặc là làm bất tiện chính trị cho một số anh chị
ngồi đây. Với tư cách là vệ sỹ lý luận của Đảng, nghe
thấy tôi nói ngang ngang như thế mà không chất vấn thì bất
tiện cho các anh các chị. Cũng có thể có một số anh chị
đồng ý với tôi mà không nói ra được. Hoặc cũng có anh cho
rằng anh này không được, phải đấu tranh với nó. Cho nên,
tôi phải nói trước là tôi không tranh luận, vì tôi là người
tôn trọng tính đa dạng của đời sống tinh thần. Trong bài
viết gửi giáo sư Phạm Ngọc Quang, đoạn hay nhất là đoạn
tôi nói về trí thức. Tôi xin đọc lại để các anh các chị
hiểu rõ quan điểm của tôi và để dễ chất vấn tôi hơn:
"<em>… Hiện nay, bằng rất nhiều hoạt động, Đảng luôn
thể hiện sự quan tâm đến đội ngũ trí thức, muốn xây
dựng đội ngũ trí thức, đó là dấu hiệu tốt. Tuy nhiên,
phương pháp hay động cơ của việc này cần phải được xem
xét và cân nhắc một cách rất cẩn thận. Vấn đề đặt ra
là Đảng muốn gì ở trí thức. Nếu Đảng muốn có một đội
ngũ trí trức của mình, phục vụ cho mình thì chỉ cần xây
dựng đội ngũ trí thức theo cách thức hiện nay là đủ, còn
nếu Đảng muốn có một đội ngũ trí thức để lý giải
những hiện tượng chính trị, xã hội để có thể hoạch
định những chính sách tốt thì cần phải có một đội ngũ
trí thức theo cách khác. Bộ chính trị vừa qua có ra quyết
định xây dựng một nghị quyết về vấn đề xây dựng đội
ngũ trí thức. Trong quá khứ, hầu hết các Đảng Cộng Sản
trên thế giới, đều đã từng làm việc này. Họ xây dựng
nền văn hoá để kiểm soát xã hội về mặt thái độ chính
trị, xây dựng đội ngũ công nhân để làm chỗ dựa, làm lực
lượng chính trị, xây dựng đội ngũ trí thức làm trí khôn
chính trị, tức là những người cầm quyền luôn muốn biến
xã hội trở thành lực lượng của mình, công cụ của mình mà
quên mất rằng làm như vậy sẽ khiến cho xã hội không còn
tự do nữa. Để xây dựng đội ngũ trí thức thì vấn đề
đầu tiên đặt ra cho những người thực hiện là phải xây
dựng tiêu chuẩn để nhận diện trí thức, nhưng đặt ra vấn
đề xây dựng tiêu chuẩn để nhận diện trí thức là rất
chủ quan, bởi vì, trong một xã hội cơ hội thì trí thức là
kẻ nhạy cảm nhất và đủ năng lực để biến hình, biến
màu trở thành kẻ cơ hội sớm nhất và giỏi nhất. Những
người cầm quyền nếu không đủ tinh khôn, không đủ kinh
nghiệm thì sẽ rất dễ mắc phải sai lầm là nhận dạng trí
thức dưới hình thức của những kẻ cơ hội. Vậy thì nhận
dạng để làm gì? Có những lúc chúng ta nói rằng trí thức
đã bắt đầu trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
thông qua lý thuyết về nền kinh tế trí thức là lập tức
chúng ta có những sự biến hình rất vĩ đại xảy ra trên quy
mô xã hội, đó là sự xuất hiện của hàng chục nghìn tiến
sỹ giáo sư kém chất lượng. Như thế tức là trí thức là
những kẻ biến hình. Nhà cầm quyền càng xây dựng hệ tiêu
chuẩn và càng công bố, càng tuyên truyền về nó thì xã hội
càng bị lôi kéo theo những tiêu chuẩn phiến diện, vì nó chỉ
được xác nhận bởi những người có quyền lực. Nếu làm
như vậy thì xã hội sẽ không những có thêm trí thức mà
những trí thức sẵn có cũng trở nên biến dạng. Đấy là
một nguy cơ.</em>
<em>Vậy chúng ta phải làm gì để nhận dạng những tri thức
đích thực? Tôi cho rằng vấn đề này thực ra không khó. Trí
thức chân chính luôn luôn đối lập một cách tự nhiên đối
với nhà cầm quyền, cho nên, thay vì xây dựng các tiêu chuẩn
nhận diện thì chúng ta chỉ cần nhận diện trí thức bằng
thuộc tính tự nhiên cơ bản của lực lượng này, đó là
"tính đối lập". Những ai không có năng lực đối lập thì
dường như rất khó để trở thành trí thức. Những ai không
có phản ứng về sự vô lý, về sự thiếu nhân đạo, về sự
thiêú hiểu biết thì kẻ đó dứt khoát không phải là trí
thức. Trí thức là người có năng lực phản xạ một cách tự
nhiên trước những sự vô lý của xã hội mà đặc trưng là
nhà cầm quyền. Cho nên, tiêu chuẩn để phát hiện một cách
chính xác và nhanh nhất người trí thức chính là tính đối
lập và các phản ứng của họ đối với nhà cầm quyền. Và
tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các cá thể trí
thức, giữa các nhóm trí thức là mức độ đối lập của nó
đối với nhà cầm quyền. Trạng thái đối lập cực đoan là
trạng thái đối kháng. Trạng thái đối lập khôn ngoan, phải
chăng và tích cực là trạng thái không đối kháng. Ở mọi
thời đại, tất cả những trí thức vĩ đại đều là những
người đối lập tích cực. Nghiên cứu tính đối lập của
trí thức, tôi thấy rằng có 4 điểm cơ bản: Thứ nhất, trí
thức đối lập với nhau để hình thành một trong những sinh
hoạt phổ biến tạo ra sự sáng tạo và lựa chọn, đó là
tranh luận. Thứ hai, trí thức đối lập với nhà cầm quyền
để tạo ra một sinh hoạt rất phổ biến, đó là sinh hoạt
phản biện. Thứ ba, tri thức đối lập với những yếu tố
văn hoá xâm nhập từ bên ngoài để tạo ra năng lực chọn
lọc của xã hội. Và cuối cùng, trí thức phải đối lập
với quá khứ để tạo ra động lực của sự phát triển và
năng lực phỏng đoán tương lai…</em>"
Liên quan đến vấn đề trí thức, anh Hiên có đến làm việc
với tôi để góp ý cho nghị quyết về trí thức. Tôi đã
thảo luận với anh Hiên về vấn đề này một cách khá gay
gắt. Tôi nói rằng không có tiêu chuẩn nhận diện, nếu có
đặt ra tiêu chuẩn nhận diện thì lực lượng đi nhận diện
cũng rất khó thực hiện. Rất nhiều nỗi oan ức ngay cả trong
những trí thức quan trọng của Đảng, ngay trong tâm lý các anh
cũng có điều ấy. Tôi cho rằng trí thức là những người có
trách nhiệm, người có trách nhiệm bao giờ cũng đối lập
với mọi sự sai trái của cuộc sống, mà sự sai trái dễ
nhận thấy nhất là sự sai trái của nhà cầm quyền, cho nên
nhà chính trị phải rèn luyện để đủ năng lực đối thoại
với kẻ đối lập với mình. Trong một xã hội mà nhà chính
trị không đủ năng lực để đối thoại với người đối
lập với mình về mặt hiểu biết thì rất khó để xã hội
ấy trở thành một xã hội phát triển. Đấy là những luận
điểm cơ bản của tôi nằm trong quyển sách này và nằm trong
bài viết mà tôi gửi cho giáo sư Phạm Ngọc Quang.
<strong>Ông Phạm Ngọc Quang:</strong> <em>Thay mặt cho anh em ở
đây, cảm ơn anh Bạt đã có một số ý kiến tâm huyết và
trao đổi với anh em. Thực ra tôi được quen anh Bạt cách đây
có một tuần thôi, nhân dịp tôi mời anh Bạt đến để trao
đổi với chúng ta, nhưng anh Bạt đề nghị tôi ra ngoài này
gặp anh để trao đổi. Tôi biết anh Bạt trước đó là qua
sách,cuốn Cải cách và phát triển, xuất bản quý 4 năm 2005
thì tháng 12 tôi mua quyển sách này. Sau đó quyển Văn hoá tôi
mua năm 2006 và quen anh Bạt qua môt số bài viết trên mạng
internet. Trong quá trình làm ở Hội đồng Lý luận Trung ương,
tôi được giao chuẩn bị một công trình lớn của Hội đồng
mà đã xuất bản dày trên 500 trang, đầu đề cuốn sách ấy
là "Đổi mới và phát triển Việt Nam, một số lý luận
thực tiễn". Khi hình thành bản thảo ấy, tôi đã đọc cuốn
sách này của anh và nói thật với anh là tôi đã đưa một số
vấn đề của anh vào trong tác phẩm ấy để phê phán. Sau đó,
khi đưa ra một hội đồng để xem xét thì thấy những ý đó
cần phải được nhgiên cứu tiếp. Do vậy tôi đã rút những
ý đó ra khỏi cuốn sách đó. Cuốn sách ấy được xuất bản
từ 2006 mà không có đoạn phê phán về một số ý của anh.
Phải nói thực là tôi cũng không hẳn là hoàn toàn chia sẻ
với anh tất cả các ý mà anh viết. Anh nói là bản thân không
tranh luận và tôn trọng tính đa dạng. Theo tôi việc tôn trọng
tính đa dạng và không tranh luận, hai việc đó không mâu thuẫn
với nhau. Nếu tranh luận để đi tới áp đặt chân lý là sai
lầm. Nếu tranh luận để hiểu rõ nhau, để hiểu quan điểm
này có cơ sở gì là cần thiết. Bên cạnh đó tôi nghĩ rằng
đề nghị anh trong buổi hôm nay phá vỡ cái lệ ấy, cần trao
đổi một số ý mà anh em đặt ra để hiểu rõ thêm về quan
điểm của anh chứ không phải tranh luận để áp đăt chân
lý.</em>
<strong>Ông Nguyễn Trần Bạt:</strong> Tôi thấy cần phải nói
rõ hơn là tôi không viết quyển sách này cho các giáo sư của
học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Bởi vì
tôi chờ đợi ở các anh những thứ như thế này chứ không
phải là tôi viết cho các anh. Phải nói là tôi viết những
cuốn sách này là để giữ lại khán giả trong rạp trong khi
chờ đợi các tiết mục chính từ các anh. Những quyển sách
của tôi giống như một rổ khoai luộc để chờ cơm chín. Tranh
luận với các anh tức là tranh luận với một đối tượng
chuyên nghiệp, tôi không phải là một nhà hàn lâm chuyên
nghiệp và do đó tôi không tự xếp mình ngang các anh để tranh
luận. Cho nên các anh chất vấn và tôi trả lời, tôi làm rõ
quan điểm của tôi để các anh thấy. Còn để kết luận là
tôi sai ở chỗ này, các anh đúng ở chỗ kia thì tôi sẽ không
theo đuổi câu chuyện như vậy.
<strong>Ông Phạm Ngọc Quang:</strong> <em>Tôi đã đọc một số
tác phẩm của anh, có những điểm mà tôi có một số hiểu
biết nhất định, cũng có những điểm mà theo tôi cần phải
hiểu rõ hơn. Tôi tạm thời nêu một vài ý sơ bộ thế
này:</em>
<em>- Xung quanh cuốn Cải cách và sự Phát triển, một điểm
lớn trở thành tuyên ngôn của anh là "Lý luận Phi Cách
mạng", nghĩa là anh không tán thành việc tiếp tục xuất
hiện các cuộc cách mạng, và từ đó anh nêu quan điểm của
anh Cách mạng là gì. Quan điểm của anh về Cách mạng là
đúng. Đấy là việc thay đổi trật tự xã hội cũ để tạo
ra sự nối tiếp ngẫu hứng. Theo tôi quan điểm ấy không có
gì phải tranh luận. Nhưng từ đó anh cho rằng cách mạng như
vậy phải trả giá quá đắt, và hậu thế phải trả giá không
biết bao giờ mới xong. Và từ đó, theo anh cách mạng ở thời
kỳ trước kia thì được, bây gìơ càng phát triển bao nhiêu
thì cách mạng ấy càng ít giá trị bấy nhiêu. Do vậy cần
phải thay đổi cách mạng bằng cải cách. Tôi muốn đề nghị
anh làm rõ ý này.</em>
<em>- Thứ hai, anh cho rằng tự do với chính trị là giải phóng
con người ra khỏi chính trị. Tôi chưa rõ là như thế nào. Có
phải tự do với chính trị là giải thoát con người ra khỏi
chính trị hay không? Trong xã hội luôn có chính trị. Vậy con
người có bao giờ hoàn toàn thoát khỏi chính trị hay không, và
trên thực tế có điều đó không?</em>
<em>- Ý thứ ba là anh nói cần phải có một hệ tiêu chuẩn về
cải cách, trong đó tiêu chuẩn cơ bản về cải cách kinh tế,
chính trị, văn hoá xã hội là cái gì, và tinh thần chung là
gì? Và theo anh hệ tiêu chuẩn mang tính toàn cầu về chính trị
bây giờ là gì? Nêú người ta nói rằng toàn cầu hoá hiện nay
là toàn cầu hoá dưới sự chi phối của tư bản,thậm chí
một số người cho rằng toàn cầu hoá hiện nay là toàn cầu
hoá tư bản chính trị. Vậy giữa quan điểm đó với quan
điểm của anh là hội nhập chính trị toàn cầu với tiêu chí
toàn cầu ấy có gì giống hay khác nhau?</em>
<em>- Ý thứ tư là vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc. Tôi đọc một số tài liệu thấy người ta nói rằng ngay
một số quan chức của Pháp cũng lý giải rằng thất bại
của họ ở Việt Nam là do không hiểu văn hoá Việt Nam. Một
số quan chức Mỹ cũng nói như vậy. Vậy bây giờ anh lại
đặt ra vấn đề là không nên giữ bản sắc văn hoá. Anh cho ý
kiến thêm về vấn đề này.</em>
<em>- Ý cuối cùng là anh rằng cần phải phi chính trị hoá nhà
trường. Trong xã hội hiện nay, liệu có thể phi chính trị hoá
nhà trường ở mức nào thì có thể chấp nhận được? Ở
mức nào thì không thể có được cái đó? Ta đặt ra cái đó
liệu có ảo tưởng hay không, có mang tính thực tế hay
không?</em>
<strong>Ông Nguyễn Trần Bạt:</strong> Đúng là nguyên lý căn
bản của tôi trong quyển sách này là nguyên lý phi cách mạng.
Tại sao lại như vậy? Chúng ta cứ nói cách mạng ở trên
giấy, nói cách mạng ở trên sách, chúng ta làm thơ về cách
mạng, nhưng chúng ta không biết rằng mọi cuộc cách mạng
đều để lại những di chứng khổng lồ, kể cả cuộc cách
mạng không có bạo lực. Tôi có nói trong quyển sách này là
cái di chứng của cách mạng không phải là chết chóc mà là
sự sợ hãi. Và sự sợ hãi các di chứng của cách mạng không
chỉ có trong người dân mà có ngay trong cả những người lãnh
đạo, những người cầm quyền. Tôi có tranh luận với đại
sứ Ukraine. Tôi bảo tôi sẵn lòng. Các ông ấy tự ca ngợi các
ông ấy đã thành công với cách mạng Cam, Cách mạng Nhung,
nhưng bây giờ các anh chị thấy rằng thực tế cách mạng ở
Ukraine không hề Cam, không hề Nhung, mà người ta vẫn tiếp
tục khuếch trương tất cả những thắng thua của từng giai
đoạn và nó kéo dài tình trạng cả dân tộc quấn theo những
thứ không gắn với sự phát triển tự nhiên của cuộc sống.
Ở Việt Nam chẳng hạn, các anh thấy rằng cuộc tranh luận
giữa nhà cầm quyền Việt Nam với ông linh mục trong sự cố
liên quan đến nhà thờ công giáo gần đây là tranh luận về
quyền sở hữu đất đai. Sự thay đổi quyền sở hữu đất
đai là kết quả của cuộc Cách mạng. Người Việt Nam chúng ta
còn phải tham gia vào giải quyết những hậu quả cách mạng
ấy trong 50-70 năm nữa chứ không phải bây giờ. Cách mạng
buộc phải thay đổi một cách quyết liệt, ngay lập tức,
nhưng bây giờ chúng ta làm chủ xã hội thì chúng ta phải có ý
thức về sự hợp lý hoá hằng ngày của toàn bộ các tiến
trình phát triển. Cho nên tôi nói rằng cần phải thay thế cách
mạng bằng cải cách chứ tôi không phủ nhận cái việc cần
phải làm biến mất những điều bất hợp lý và thay thế nó
bằng những điều hợp lý. Tức là ở đây tôi muốn nói là
quy trình tạo ra sự thay đổi, sự phát triển như thế nào thì
phù hợp. Nguồn năng lượng mà nhân loại có không đủ để
tiến hành các cuộc cách mạng. Người ta đưa ra những dự báo
là vào những năm 40 của thế kỷ này, các năng lượng cacbon
sẽ hết, và người ta buộc phải nghiên cứu các dạng năng
lượng khác. Trên thế giới người ta đã nghiên cứu sử dụng
năng lượng nhiệt trong lòng trái đất, rồi nghiên cứu năng
lượng sóng, năng lượng gió… Nhưng tất cả những nghiên
cứu ấy chỉ ra rằng nhân loại vẫn chưa đủ tiền để đầu
tư và bây giờ người ta vẫn tiếp tục dùng nguồn năng
lượng sẵn có, vẫn tiếp tục thay thế nó bằng năng lượng
hạt nhân, và cái đấy ẩn chứa một nguy cơ khổng lồ. Các
cuộc cách mạng luôn kéo theo sự sợ hãi, sự bất ổn định
tinh thần, làm con người dừng lại không sáng tạo. Nếu như
chúng ta tạo ra một trạng thái yên ổn thì mọi người đều
có thể là tư tưởng của riêng mình, mọi người đều có
thể trở thành nhà khoa học của riêng mình. Do đó, tỷ lệ con
người có năng lực sáng tạo sẽ lớn hơn, phổ biến hơn và
điều đó làm cho nhân loại trở nên tiết kiệm hơn. Cho nên,
luận điểm của tôi là luận điểm nhân loại không còn đủ
sức chịu đựng các cuộc cách mạng. Nói cho cùng, các cuộc
cách mạng diễn ra trong thực tế đời sống của lịch sử
nhân loại cũng không nhiều lắm, mà hậu quả của nó đã ghê
gớm như vậy. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết là kết
quả của cách mạng. Nhân cái đà đấy, người ta đã tạo ra
một quốc gia là kết quả của sự cưỡng bức rất nhiều
thứ. Và nói rằng cách mạng là một cơ hội lớn cho rất
nhiều kẻ cơ hội. Có thể ở chúng ta không có, nhưng trên
thế giới những kẻ cơ hội như vậy rất nhiều. Những kẻ
cơ hội nhân dịp cách mạng bằng một số trò láu cá chính
trị mà trở thành kẻ cầm quyền thì tại họa của nhân loại
là không thể tưởng tượng được. Cho nên, các nhà chính trị
mọi thời đại, ở mọi quốc gia cần phải tỉnh táo tạo ra
một lộ trình hoàn toàn chủ động để xây dựng sự hợp lý
của đời sống. Đấy là tư tưởng cơ bản của tôi.
Về ý thứ hai mà anh nói là tự do chính trị. Tự do về chính
trị là giải phóng con người ra khỏi chính trị. Tôi có thể
hoàn toàn làm rõ quan điểm này. Giải phóng con người ra khỏi
chính trị là giải phóng con người ra khỏi những động cơ
chính trị cụ thể, những áp đặt chính trị cụ thể. Chính
trị là một mặt của đời sống, không ai ra khỏi chính trị
hoàn toàn được, nhưng cái chính trị mà con người có một
cách tự nhiên với cái chính trị ép buộc phải có là hai cái
khác nhau. Khi con người bị ép buộc về chính trị thì con
người mất cảm hứng sống và mất cảm hứng phát triển.
Trong tác phẩm " Bàn về lý luận không có con người" mà
ông Trần Đức Thảo viết, ông ta có nói đến khía cạnh này.
Bằng những lập luận như vậy, tôi muốn nói rằng cần phải
trả cho con người cuộc sống, mà nói đến cuộc sống là
phải yên ổn, nó phải bình dị, phải tự nhiên. Khuyến khích
nó thì được nhưng ép nó thì không được. Đôi lúc chúng ta
cố ép, chúng ta ép đến mức ngay cả những người đứng
đầu một hệ thống chính trị cũng trở nên mất tự do. Tôi
nhìn hình ảnh các nhà lãnh đạo cầm tờ giấy khi nói chuyện
với các nguyên thủ nước ngoài là tôi thấy đau khổ. Tại sao
lại có một không khí, một tiêu chuẩn để ngay cả các nhà
lãnh đạo ở cương vị cao nhất cũng không cảm thấy mình tự
do? Tôi là một kẻ vô danh tiểu tốt, tôi trốn vào một ngõ
hẻm như thế này, tôi tự do hay không tự do, tôi chịu sức ép
hay không, không ai biết, nhưng với những người giữ địa vị
quan trọng và luôn xuất hiện trước mặt thiên hạ thì khác.
Bây giờ các anh thấy rằng đi ra ngoài đối thoại mà không có
tự do thì không được người ta tôn trọng. Năm 1990 tôi có
một cuộc nói chuyện ở Washington DC với khoảng 700 doanh
nghiệp, người lái ô tô đưa tôi đến hội trường là giáo
sư Leonardo Unger, nguyên thứ trưởng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ mà
tôi quen ở Việt Nam. Tôi nói với giáo sư là đưa tôi đến
chỗ bức tường kỷ niệm người Mỹ chết trận ở Việt Nam
và lái về chỗ hội trường chậm 1 phút, ông ấy không hiểu
ý tôi, nhưng tôi nhờ nên ông ấy làm đúng như vậy. Đến
chỗ bức tường ấy tôi mua một bó hoa đặt vào đấy, khi tôi
đến hội trường muộn 1 phút thì tất nhiên người ta đặt
câu hỏi: tại sao ông đến muộn. Tôi giải thích là tôi đến
để đặt bó hoa lên bức tường kỷ niệm. Có một anh giám
đốc Việt Kiều 70 tuổi hỏi tôi ngay: tại sao anh làm như
thế? Tôi trả lời, loài người chúng mình được cho là động
vật thông minh mà đã là thông minh thì nó không mang khái niệm
hộ chiếu lên thiên đường. Nếu không có các động thái như
vậy thì tôi không đủ tự tin để nói chuyện với các vị ở
đây. Các anh, các chị mà thấy các nhà ngoại giao của chúng ta
đi ra nước ngoài thì đau khổ lắm, không một ai tự nhiên,
không một ai tự do. Và phải nói thật là họ ít sợ địch
hơn là sợ đồng nghiệp ở nhà. Những hiện tượng như vậy
bóp chết cảm hứng sống, cảm hứng sáng tạo của con người.
Về ý thứ ba, tôi hoàn toàn không đồng ý với anh Quang rằng
toàn cầu hóa và toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa, đấy là
một quan điểm sai trái và lạc hậu về mặt chính trị hay
lạc hậu về mặt khoa học. Toàn cầu hóa không có ai lãnh
đạo, những kẻ nhiều tiền có khuynh hướng thắng thế trong
quá trình toàn cầu hóa, nhưng khi nó thất bại thì nó trả giá
rất đau. Người Mỹ đang trả giá cho việc toàn cầu hóa một
cách thái quá đến mức mất khả năng kiểm soát, bởi vì toàn
cầu hóa có mặt trái của nó. Toàn cầu hóa là một quá trình
tự nhiên và những kẻ chiếm ưu thế là những kẻ nhiều
tiền. Tuy nhiên không phải cứ có tiền là có ưu thế. Trong
thời đại hiện nay, trí tuệ bắt đầu trở thành quyền lực,
trở thành sức mạnh, mà những kẻ có tiền chưa chắc là
những kẻ có trí tuệ. Vì thế, với một nước nghèo như
chúng ta thì giới trí thức của chúng ta buộc phải có trí
tuệ, buộc phải khôn ngoan. Khi thị trường chứng khoán Việt
Nam bùng nổ, tôi có ra lệnh trong công ty của tôi là ai mà dính
đến chứng khoán là tôi buộc thôi việc. Và tôi cũng đã nói
khi trả lời phỏng vấn của báo chí là thị trường chứng
khoán này sẽ phá vỡ toàn bộ thành tựu 20 năm xóa đói giảm
nghèo của đất nước chúng ta. Có thể còn nhiều người chưa
đồng ý với kết luận của tôi, nhưng tôi chắc chắn rằng
giờ này Quốc hội Mỹ đã đồng ý với kết luận của tôi
khi xem xét vấn đề khủng hoảng tài chính. Tất cả các quỹ
này, quỹ kia mà người Việt Nam chào đón là những kẻ môi
giới sự thất thoát quyền lực không chỉ về kinh tế mà còn
là sự thất thoát quyền lực chính trị. Chúng ta đón chào
những kẻ địch tương lai mà chúng ta không biết. Chúng ta
không biết bởi chúng ta không đủ trí khôn. Nếu chúng ta không
đủ trí tuệ để tạo ra sự khôn ngoan của dân tộc thì chúng
ta vẫn là nước bé. Chúng ta ở bên cạnh Trung Quốc khổng
lồ, đấy là một bất lợi lớn cho chúng ta. Tôi gọi nền
sản xuất của nước CHND Trung Hoa là một chiến dịch phá
hoại vĩ đại đối với toàn bộ năng lượng sống và phát
triển của thế giới. Điều này tôi không chỉ nói với các
anh, tôi đã từng nói với anh Trần Nguyên là con trai của Phó
chủ tịch Đảng cộng sản Trung Quốc Trần Vân tại Bắc Kinh,
trong khi chúng tôi ăn cơm với nhau tại Bắc Kinh. Với việc
biến tất cả các nguyên liệu được sản xuất một cách
nghiêm túc như thế này trở thành các phế phẩm, trở thành
những bộ quần áo chỉ mặc vài ngày là vứt thì tôi không
hiểu người Trung Quốc sẽ đi đến đâu. Tôi nói với bà
đại sứ Mỹ Barshefsky trước đây là đại diện thương mại
của chính phủ Hoa Kỳ rằng, với tình trạng sản xuất như
thế và cung ứng hàng hóa như thế, nước CHND Trung Hoa đã làm
cho nền văn hóa tiêu dùng của thế giới bị biến dạng và
bị hạ lưu hóa như thế nào. Tôi cảnh báo điều này từ năm
năm trước chứ không phải bây giờ.
(còn tiếp)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4565), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét