Khi ở Hà Nội, tôi thường lên Thư viện Quốc gia ở Tràng Thi
để làm việc. Nói là để làm việc cho oai, nhưng thực ra là
còn nhiều lý do khác nữa. Một trong những lý do đấy là để
nói chuyện với các bạn khác lên học ở thư viện. Từ thời
tôi còn đi học đại học đến nay cũng được vài năm rồi
nên so với các bạn sinh viên vẫn lên thư viện để học hành
chuẩn bị cho thi cử tôi bây giờ là thế hệ anh lớn. Anh lớn
mà lại có chút thành đạt thì hay được các em hỏi han về
kinh nghiệm học hành thi cử. Cả kinh nghiệm và thành đạt
của tôi, như nhiều người quen tôi đều biết, gắn liến với
việc thành công trong việc học tiếng Anh rồi sử dụng tiếng
Anh để đạt được các mục tiêu thiết thực khác.
Các bạn sinh viên bây giờ quan tâm đến việc chuẩn bị để
đi học ở nước ngoài nhiều hơn thời tôi còn đi học. Điều
này cũng dễ hiểu. Ngày xưa, xin được học bổng đi học
nước ngoài là một ý định mà thành công phụ thuộc nhiều
vào may rủi và hoàn cảnh. Ngày nay, vai trò của may rủi và
hoàn cảnh không còn nặng nề như thời trước. Có ý định,
bạn sinh viên sẽ cần có thêm ý chí, quyết tâm và đường đi
nước bước dần dần sẽ tự mở ra trước mặt. Việc có
được học bổng tuy thế lại mới chỉ là một nửa thành
công, nửa kia phụ thuộc vào việc bạn sẽ học như thế nào
khi ở nước ngoài. Điều này, các bạn đã đi học như tôi
đều hiểu là rất quan trọng. Việc học bằng ngoại ngữ trong
một môi trường học vấn khác cơ bản môi trường học ở
Việt Nam là một trong những trở ngại làm nhiều sinh viên
Việt Nam học giỏi chưa phát huy được hết trình độ và khả
năng của mình. Một vài lời khuyên từ những người đi
trước sẽ có ích cho bạn.
Tôi viết bài viết này với ý định cung cấp cho các bạn đi
sau một vài lời khuyên về việc học, đọc, viết bằng tiếng
Anh đúc kết từ kinh nghiệm thực tế của tôi. Tôi hạn chế
việc áp dụng những lời khuyên này trong môi trường đại
học ở Mỹ, là môi trường duy nhất ngoài Việt Nam mà tôi
biết đồng thời cũng là mục tiêu phấn đấu của phần lớn
các bạn. Những gì tôi viết ra tôi đã từng nói hay nghĩ
những lúc "trà đá, kẹo lạc" với các bạn ở Thư Viện Quốc
Gia Hà Nội. Tôi tổng kết lại ở đây để các bạn đọc và
chúc các bạn gặp nhiều may mắn trong con đường học tập
của mình.
<b>HỌC </b>
<strong>1. Học như thế nào?</strong>
Như nhiều bạn quen đều biết, hiện nay (9/2001) tôi đang làm
việc ở Bắc Kinh, Trung Quốc. Xem xét dưới góc độ những vui
buồn lịch sử, thì Bắc Kinh là một trong những địa điểm
có thể để lại cho một người Việt Nam nhiều suy nghĩ về
quá khứ và sự ràng buộc của nó với hiện tại.
Có thể nhiều bạn không đồng ý với tôi nhưng sau một thời
gian sống ở Bắc Kinh và làm bạn với nhiều người Trung
Quốc, ấn tượng của riêng tôi là Trung Quốc với Việt Nam
giống nhau nhiều quá. Khi người ta nói hai địa điểm, hai
quốc gia giống nhau, thông thường người ta chỉ so sánh những
điểm tương đồng địa lý, ví dụ như khi nói Li Băng là
Thụy Sỹ của Trung Đông là người ta so sánh đồi núi trập
trùng và băng tuyết. Điểm tương đồng của Việt Nam với
Trung Quốc tuy thế lại không hạn chế về mặt địa lý mà là
về tổng thể con người (human landscape).
Tôi sẽ bỏ qua không nói đến những nét tốt nét xấu trong
tương quan so sánh tưởng như dĩ nhiên này mà chỉ tập trung
nói về cách học của những người trẻ tuổi ở cả hai
nước. Bất kể việc quan hệ Việt-Trung có một thời gian gần
đây băng giá kéo dài, quan niệm về việc học (như thế nào,
cái gì, khi nào, ở đâu) của thanh niên hai nước gần như là
dập khuôn của nhau. Điều này, như các bạn có thể đã nghĩ
trước một bước và nhận ra trước khi tôi kịp nói, có
nguồn gốc từ những tương đồng văn hóa sâu sắc và lâu
dài.
Những điểm tương đồng này phần nhiều đều bắt nguồn từ
hệ tư tưởng và học vấn Nho Giáo mà hai nước chia xẻ. Đối
với Việt Nam, ban đầu là bị ép buộc phải chấp nhận nó,
về sau chúng ta đã yêu thương nó thái quá và biến nó thành
của mình. Tư tưởng Nho giáo Việt Nam tuy có những khác biệt
mang tính địa phương nhưng về tổng quan lại song hành từng
bước một với cái gốc của nó là Nho giáo Trung Quốc.
Ngày xưa khi thế giới quan của chúng ta chỉ có Việt Nam và
Trung Quốc là đáng kể, các cụ chúng ta làm thơ hay viết văn
vẫn dùng điển cố Trung Quốc; từ cách hành văn, chấm bài,
phạt phạm quy phạm húy đến cách mài mực, phạt học trò và
vô số các thứ khác nữa mà các bạn có thể tự tìm ra đều
trích ngang từ cách làm Trung Quốc. Do những tương đồng xã
hội và chính trị thủa xa xưa, động cơ và phương pháp học,
dù đặt ra bởi người dạy hay người học, ở Việt Nam hay
Trung Quốc cũng giống nhau nốt. Tôi liệt kê ra một vài điểm
thế này:
– Học tập là con đường tiến thân duy nhất (nếu không…
biết võ)
– Hành lễ quan trọng hơn kiến thức
– Văn chương quan trọng hơn toán pháp
– Chú trọng khả năng ghi nhớ
– Áp đặt trong khuôn khổ
Chí ít là khi còn ở trong nước, hậu quả của những đặc
điểm trên đối với việc học của chúng ta là:
– Chúng ta học để tiến thân hơn là để có kiến thức
– Chúng ta đặt hòa thuận lên trên tranh luận để tìm ra sự
thật
– Chúng ta coi trọng lý thuyết hơn là ứng dụng và thực
hành
– Mặc dù rất nhanh nhạy trong việc bắt lấy những thứ
mới, về bản tính chúng ta thích dùng những thứ có sẵn, quen
thuộc hơn là suy nghĩ tạo ra những thứ mới.
– Chúng ta xuất sắc trong việc làm theo và quy tắc hóa những
thứ có sẵn.
Tôi đã nghe nhiều bạn Trung Quốc và Việt Nam khoe rất mãn
nguyện là mấy năm sau khi học xong đại học họ chưa đọc
một quyển sách nào cả. Đây là ví dụ về việc học để
tiến thân. Kiến thức chỉ là phương tiện chứ không phải là
mục đích.
Trong các mailing list của người Việt, việc tranh cãi thường
bị phe quản trị diệt luôn khi nó vừa xuất hiện với lý do
làm mất đoàn kết. Tranh cãi tất nhiên có nhiều loại. Có
những thứ thật sự là vô ích, nhưng phần lớn đều để tìm
ra một câu trả lời đúng. Nếu chỉ vì đoàn kết mà không
chịu tìm ra câu trả lời đúng thì dắt tay nhau trong bóng tối
phỏng có lợi ích gì? Đây chính là lý do mà phương pháp học
theo kiểu thảo luận lớp chưa có được chỗ đứng trong học
đường cả ở Việt Nam cả ở Trung Quốc.
Nếu kiến thức chỉ là phương tiện thì miễn là nó đưa
được mình đến chỗ mình cần đến là xong bất kể nó là
kiến thức loại gì hay ai đặt ra. Nếu nhà trường đề ra 10
môn học cụ thể cho một năm học thì không cần biết mình có
cần những kiến thức đó không, cứ học và thi cho qua là
được. Đây là lý do mà nhiều bạn học đại học ở Việt
Nam và Trung Quốc hay quên kiến thức chuyên môn ngay khi khóa
học vừa xong. Cảm giác xúc động vì có thêm kiến thức chỉ
vì nó là kiến thức đối với chúng ta khá là xa lạ.
Đã quen sống trong khuôn khổ, chúng ta sợ những vùng đất
mới, sợ khám phá, sợ bị lên án là ngược đời, kiêu căng,
tập tọng đòi hơn người. Trí sáng tạo vì thế bị suy giảm,
sự ù lì nhờ đó tăng lên. Trong những bão táp của thế sự
xoay vần, một sinh viên mới tốt nghiệp đại học ở Việt Nam
hay Trung Quốc không khác mấy một ngọn nến lắt lay trong gió.
Đã biết là đại học không chuẩn bị cho họ để đứng
vững và có đủ tự tin nhưng nhiều người trong chúng ta vẫn
hy vọng là kinh nghiệm thực tế từ nay có thể thay cho kiến
thức. Nếu có học thêm cũng chỉ là để vượt vũ môn lần
nữa. Nếu có sáng tạo ra gì cũng chỉ để tiến thân cao hơn.
Người Trung Quốc rất giỏi trong việc sản xuất hàng loạt
nhưng không giỏi trong việc chế tác hoặc nếu có cũng là
những thứ không thực dụng. Ở Bắc Kinh, tôi có lần mua một
cái phone card. Cái đồ dùng vài lần rồi bỏ này rõ ràng là
không cần phải hoa mỹ làm gì, chỉ cần một mảnh giấy con
cũng là đủ thế mà tôi nhận được một thanh plastic dầy
khoảng 3mm, có một dãy đèn ở trên và hai nút bấm mà nếu
bấm vào thì sẽ có tiếng điện thoại kêu nhiều kiểu lạ
tai. Thử tính xem bao nhiêu nguồn lực vật chất (pin, đèn,
nhựa) và tâm lực đã bị phí phạm vào việc sản xuất thứ
đồ quái gở này.
Ví dụ về việc quy tắc hóa mọi thứ là về việc các bạn
Trung Quốc đi thi các bài thi tiêu chuẩn như TOEFL, GRE, GMAT, vv.
Như các bạn đều biết, sinh viên Trung Quốc luôn đứng hàng
đầu trong các kỳ thi này, vượt qua cả người Mỹ bản xứ
là nơi sản sinh ra loại hình thi cử này. Nhìn kết quả, ta
nghĩ ngay là người Trung Quốc phải giỏi toán, lý luận và cả
tiếng Anh hơn người Mỹ. Nếu không thế thì chẳng có lý nào
họ lại được điểm cao như thế?
Tôi đã gặp một người bạn của một người bạn Trung Quốc,
nổi tiếng vì thi TOEFL, GRE, GMAT đều đạt điểm gần tuyệt
đối. Tôi rất thất vọng vì anh này khi viết tiếng Anh trong
email thì trình độ chỉ như trẻ con lớp năm bên Mỹ, đến
lúc trực diện thì còn thất vọng hơn vì nói tiếng Anh chẳng
câu nào ra câu nào, văn phạm thì còn có thể chấp nhận
được nhưng cách sắp xếp lộn xộn các ý tưởng thì rất
khó bỏ qua. Kết luận của tôi là anh này trí nhớ và khả
năng tuân thủ và tạo mới quy tắc đều rất tốt nhưng ngoài
những thứ này ra thì chẳng còn gì hơn.
Sinh viên Trung Quốc có những người cả đời chưa đọc một
quyển sách tiếng Anh nào, chưa tiếp xúc với một người bản
xứ nào và chỉ học tiếng Anh theo kiểu các quy tắc từ sách
vở của người Trung Quốc soạn cho người Trung Quốc học, ví
dụ một quyển tên là "5.000 mẫu câu tiếng Anh." Cách học của
những sinh viên "xuất sắc" là nhớ cho kỳ hết 5.000 mẫu câu
trên, và mỗi câu lại được họ biến thành một quy tắc máy
móc riêng biệt phải có bằng đấy từ, bằng đấy dấu chấm
dấu phẩy. Lần sau khi nhìn thấy câu đấy hay tương tự thế
thì họ nhận ra ngay, nhưng bảo họ tự viết ra một câu kiểu
như thế thì họ thường rất lúng túng. Lúng túng cũng là
phải, bây giờ biết lấy quy tắc nào để ghép vào quy tắc
nào nếu các từ họ biết đều được biến thành những quy
tắc riêng biệt.
Vậy cách học nên phải thế nào để có hiệu quả nhất. Nếu
đã đọc qua phần trên và hiểu giống như tôi hiểu, tôi mong
các bạn nhớ giúp một vài điểm chính sau đây, sẽ có lợi
cho việc học ở Mỹ:
– <span class="underlined-text">Hãy học vì kiến thức.</span> Hãy
chọn những thứ mình muốn học, đừng chọn những thứ mình
nghĩ sẽ làm mình có giá hơn trong mắt mọi người về sau.
Nếu quan tâm đến ruồi trâu, cào cào, châu chấu, hãy cố
đọc và học cho thật giỏi về những thứ tưởng như vô ích
này. Nếu bạn thật giỏi, ở Mỹ sẽ có chỗ cho bạn học sâu
hơn.
– <span class="underlined-text">Đừng bao giờ bê trễ việc có
thêm kiến thức và hiểu biết.</span> Học tập phải là một
quá trình cả đời, không chỉ kết thúc khi học xong đại học
mà thục ra chỉ mới bắt đầu khi đó.
– <span class="underlined-text">Nếu không hài lòng với một vấn
đề kiến thức nào đó, hãy tìm chỗ để tham khảo và tìm ra
câu trả lời đúng.</span> Hãy tranh luận và tranh cãi, lục tìm
và gạt bỏ. Đừng sợ mất bạn bè, mất thể diện, mất sự
ưu ái của ai hết. Nếu bạn có trong tay sự thật, những thứ
bạn có được nhờ nó sẽ có ích cho bạn hơn những thứ bạn
phải mất để có nó.
– <span class="underlined-text">Đừng mất thời gian làm tốt hơn
những thứ đã sẵn có, hãy thử tạo ra những thứ mới.</span>
Kể cả nếu bạn thất bại, thất bại của bạn sẽ là mẹ
đẻ của một hay nhiều thành công khác. Công lao này cũng có
phần to lớn của bạn. Hãy thử nghĩ đã biết bao người uống
dấm thanh ăn lá ngón để chúng ta biết mấy thứ đó là độc.
Nhờ có thất bại của những người đi trước, chúng ta mới
có kiến thức của ngày hôm nay.
– <span class="underlined-text">Hãy nhìn mọi thứ bằng con mắt
động (Lời Lênin)</span>. Hãy luôn cố mở rộng hệ quy tắc
chuẩn của mình bằng cách thêm vào những quy tắc mới hay đưa
những hiện tượng mới vào làm giầu thêm các quy tắc cũ.
Luôn tìm cách áp dụng những quy tắc mình biết vào những
hiện tượng mới, nếu được hãy tạo ra những hiện tượng
mới nhờ những quy tắc đã có. Nói ngắn gọn là chú tâm vào
thực hành và ứng dụng.
– <span class="underlined-text">Nếu bạn coi kiến thức là quan
trọng nhất, hãy có được thật nhiều cho mình rồi chia sẻ
với người khác</span>. Hãy học cho cả những người khác
nữa.
<b>2. Học cái gì? </b>
Nếu đã hiểu cần phải học thế nào, thì việc học cái gì
không còn quan trọng lắm. Nói là thế nhưng có một vài môn
học ở ta hiện chưa có dạy hoặc chưa được học đúng cách
nhưng nếu các bạn có thể đọc, học, hiểu trước khi đến
học ở Mỹ cũng sẽ có lợi. Nói thế không có nghĩa bạn sẽ
không thành công nếu bạn không có hiểu biết về chúng.
– Triết học
– Logic học
– Lịch sử và đặc điểm xã hội Mỹ
– Lịch sử và các hình thái kinh tế xã hội thế giới
– Lịch sử và phát triển của các tôn giáo chính
Tuy mỗi bạn sẽ học một ngành khác nhau, hiểu biết về các
môn nói trên là những hiểu biết chung mà các sinh viên Mỹ
giỏi bất kỳ ngành nào ít nhiều cũng đều có biết. Nếu
bạn cũng hiểu, cũng biết và lại giỏi nữa thì vị trí của
bạn trong số bạn cùng học sẽ được đề cao tạo điều
kiện thuận lợi cho việc học tập môn chuyên môn của bạn.
Triết học: Triết học không phải là môn phổ biến ở Mỹ
nhưng là môn được đề cao đúng mức. Hiểu biết và năng
lực tư duy triết học cũng được trầm trồ như khả năng nói
đọc viết nhiều ngoại ngữ ở Việt Nam. Sự thán phục này
tuy vậy lại là một sự thán phục kín đáo và gián tiếp. Kín
đáo ở chỗ người ta sẽ không nhất thiết phải khen ngợi
bạn hẳn ra ngoài, và gián tiếp ở chỗ người ta sẽ không
khen bạn về kiến thức triết học cụ thể. Hiểu biết về
triết học, đặc biệt là triết học phương Tây của bạn
gợi ý cho người ta về khả năng tư duy tổng hợp, sự đọc
rộng và sâu của bạn. Lợi ích của việc những người xung
quanh thán phục năng lực cá nhân của bạn thiết tưởng không
cần phải diễn giải nhiều ở đây. Cố gắng đọc chút ít
về triết học Hy Lạp cổ, các trường phái Đức và Áo cận
hiện đại. Một cuốn sách có thể giúp bạn quen mặt biết
tên và nắm được những ý tưởng chính về triết học xưa
nay là cuốn <i>Sophie's World</i> của tác giả Na-uy Jostein Gaarder,
bạn có thể tìm dễ dàng trên các website bán sách.
Lý do triết học được coi trọng như đã nói ở trên là vì
nó gắn liền với khả năng tư biện của bạn. Muốn tư biện
giỏi chắc chắn phải có hiểu biết về logic. Nhiều bạn
Việt Nam đã học toán logic ở đại học nhưng lại không
được học cụ thể các cách áp dụng vào thực tế như thế
nào. Môi trường đại học và khoa học Mỹ đặt tầm quan
trọng lớn vào khả năng nghiên cứu độc lập của bạn mà
điều này đòi hỏi bạn phải hiểu và có thể tự sửa lỗi.
Các quy tắc logic được thiết lập từ lâu nay giúp bạn không
mắc những lỗi sai trong tư duy và nghiên cứu, đặc biệt trong
những ngành không sử dụng nhiều con số để có thể kiểm tra
bằng các phương pháp toán học thông thường. Logic còn giúp
bạn nhiều trong thảo luận trên lớp cũng như trong các quan hệ
xã hội và ra quyết định cuộc sống hàng ngày ở một môi
trường coi trọng cá nhân và tính độc lập tự chủ.
Ba môn về sau giúp bạn có hiểu biết về Mỹ nói riêng và
thế giới nói chung và cùng với môn chuyên ngành của bạn giúp
bạn có một vốn kiến thức rộng và đầy đủ. Như bạn
biết xã hội Mỹ được dựng lên trên những nguyên tắc cụ
thể và những nguyên tắc này đến bây giờ vẫn là những
nguyên tắc chi phối mọi mặt đời sống Mỹ. Hiểu biết lịch
sử và các đặc điểm xã hội của Mỹ giúp bạn né tránh
được những hậu quả của shock văn hóa và nhờ vậy bạn có
thể bình tĩnh để chú tâm vào học chuyên môn được tốt
hơn. Ngoài ra, trong một môi trường quốc tế, đa văn hóa, đa
tôn giáo như môi trường đại học Mỹ, có hiểu biết về các
nền văn hóa và các tôn giáo khác trên thế giới giúp bạn có
được sự rộng lượng, tự tin, cởi mở với người khác
cũng như tránh được tâm lý tự ti nhược tiểu của bản thân
mình. Tất cả những điều này đều có ích cho việc học,
học sâu và học cao hơn, của bạn.
Trước khi chuyển sang phần sau, tôi muốn nói một lần nữa
để bạn hiểu là các hiểu biết nêu trên không phải là bắt
buộc khi đến Mỹ học. Chúng chỉ giúp đặt bạn vào giữa
những thành viên xuất sắc nhất của trường học, giúp bạn
nhiều thuận lợi trong việc theo đuổi học vấn. Có được
kiến thức đòi hỏi phải có thời gian nhưng nếu ngay từ giờ
bạn có ý tìm tòi và nghiên cứu, đọc học thêm thì một vài
năm nữa khi đến Mỹ bạn sẽ nhận được ngay những lợi ích
mà tôi đề cập ở trên.
<b>ĐỌC </b>
Khả năng đọc là một trong những khả năng tuyệt vời của
con người, là phát kiến thần kỳ và quan trọng có lẽ chỉ
sau việc tìm ra lửa. Việc tìm ra lửa giúp biến thủy tổ của
chúng ta từ loài vật thành loài người, việc phát kiến ra
chữ viết và từ đó thiết lập nên một hoạt động mới
của con người là đọc giúp biến con người "vớ vẩn" thành
con người thông minh. Khác với suy nghĩ là một hoạt động có
sẵn, đọc là một hoạt động cố ý và phải được huấn
luyện, được đúc kết từ khả năng quan sát và nhận biết
thông tin. Nhờ có hoạt động đọc mà hiểu biết của chúng ta
tăng lên và nhờ đó mà suy nghĩ của chúng ta được đẩy lên
những tầm cao mới. Nói thế cũng có nghĩa là nếu không đọc
thì suy nghĩ của chúng ta chỉ đứng yên ở những tầm
cao…cũ.
Có lẽ chính vì đọc là một hoạt động phải được rèn
luyện và thực hành một cách cố tình nên nó cũng là một
hoạt động mang tính lựa chọn. Người ta không trốn tránh
được việc suy nghĩ nhưng có thể lựa chọn đọc hay không
đọc. Người ta có thể không đọc vì không biết chữ hay
không có gì để đọc nhưng phần nhiều những người còn lại
không đọc chỉ vì không thích đọc, nói ngắn gọn là vì
lười hoặc vì không nhìn thấy lợi ích thiết thực trong việc
đọc. Nếu vì đọc làm ảnh hưởng đến việc mưu cầu sự
sống thì có thể tha thứ được nhưng nếu không đọc chỉ vì
lười thì là một điều rất đáng trách. Nếu bạn là một
người như vậy thì khả năng suy nghĩ của bạn chắc chắn là
sút kém và bạn đang tiến hóa lùi.
Khi có một cái ô tô thì bạn đã có phương tiện để đi xa.
Nếu thay vì dùng ô tô để đi những khoảng cách hàng ngàn km
bạn lại quyết định đi bộ thì bạn đang để phí những
nguồn lực quan trọng. Khả năng đọc cũng là một phương
tiện tương tự như ô tô có thể đưa bạn đến những nơi
bạn chưa đến, làm những việc thú vị mà bạn chưa làm, gặp
gỡ những người có thể làm thay đổi lộ trình của cuộc
đời bạn. Không có lý do nào có thể biện minh cho việc bạn
không sử dụng phương tiện này cả. Như hoạt động nhìn,
hoạt động nghe, hoạt động đọc phải được coi là một
hoạt động quan trọng mà bạn thực hiện đều đặn mỗi
ngày.
Tại sao việc đọc lại quan trọng đến như vậy? Bạn thử
hình dung lại khi chưa có chữ viết thì thông tin được truyền
đạt từ đời này sang đời khác như thế nào. Thuần túy là
bằng trí nhớ kiểu cha truyền con nối. Không chỉ nói đến
văn học dân gian hay những thần thoại mang tính sử thi, những
kiến thức mang tính sống còn với con người ví như loại quả
loại cây nào ăn được cũng chỉ được truyền đạt lại cho
người sau bằng cách này. Lời nói gió bay, độ chính xác của
những thông tin truyền lại thường bị sai lệch đi nhiều.
Chữ viết đã ra đời để giúp nâng cao độ tin cậy của
thông tin đồng thời trở thành một phương tiện lưu trữ hết
sức hiệu quả các thành tựu bất kể lớn bé của con người.
Đa phần những kiến thức quan trọng ngày hôm nay đều đã
được ghi chép lại dưói một dạng chữ viết này hay chữ
viết khác. Thay vào việc tìm tòi và nghiên cứu lại từ đầu,
người đời sau có thể sử dụng kiến thức của đời trước
để phát triển hơn nữa. Để có thể làm được như vậy
chỉ có một cách duy nhất là đọc.
Đọc vì thế có các chức năng thông tin và học. Đọc cũng có
chức năng giải trí nhưng với bạn là người theo đuổi học
vấn có mục đích thì chức năng này phải được coi như chức
năng phụ. Việc bạn sử dụng chức năng nào của đọc phụ
thuộc vào hai điềm sau: thứ nhất, bạn đọc như thế nào; và
thứ hai, bạn đọc cái gì.
<b>1. Đọc như thế nào? </b>
Khi mới bắt đầu học đọc tôi thường chỉ đọc mà không
ghi chép. Lúc còn trẻ con và sau này nữa trí nhớ còn tốt,
đọc mà không ghi chép tôi vẫn có thể nhớ được nhiều và
nhiều năm về sau vẫn có thể nhớ lại những thông tin đã
đọc. Nhưng những thông tin quan trọng mà không nhớ được
cũng rất nhiều. Chính vì để khỏi mất mát những thông tin
quan trọng đã đọc được, tôi bây giờ ủng hộ việc đọc
có ghi chép. Tuổi càng cao lên, trí nhớ của bạn càng sút
giảm và lợi ích của việc ghi chép sẽ ngày càng tăng. Lời
khuyên đầu tiên của tôi về việc đọc là nên ghi chép lại
ngắn gọn những thứ bạn đọc. Cũng nên ghi chép chi tiết
những thứ mà vào thời điểm đọc bạn coi là quan trọng.
Như vậy đọc để học và đọc để giải trí khác nhau ở
một điểm đầu tiên này là tầm quan trọng của thông tin thu
thập được. Khi đọc với chủ định học và ghi nhớ, bạn
nên ghi chép; nếu đọc chỉ để chơi cho vui, đỡ buồn thì
thôi.
Đọc bằng ngoại ngữ tuy thế lại có chức năng học kép,
bạn vừa học ngoại ngữ lại vừa học kiến thức. Kể cả
khi mà tài liệu bạn đọc không có gì quan trọng về nội dung,
bạn vẫn có thể học được ngoại ngữ. Chính vì thế, nên
ghi chép bất kỳ khi nào bạn đọc bằng ngoại ngữ.
Trái với quan niệm cổ truyền lạc hậu của chúng ta là đọc
nhiều quá làm cho người ta bị bệnh về tinh thần, tôi đảm
bảo với bạn là tôi đã gặp nhiều người cả đời chỉ có
đọc và học mà trí tuệ hoàn toàn minh mẫn. Việc đọc và suy
nghĩ không làm người ta lao lực mà ngược lại làm phát triển
khả năng tư duy và góp nhặt tài sản tri thức. Chính hai thứ
sau này khiến dân gian không được vừa lòng lắm với những
tay "mọt sách." Để tránh bị phê bình là odd-ball hay bookworm
bạn chỉ cần để ý chút ít về các kỹ năng giao tiếp xã
hội thông thường, nên tránh việc phô bày kiến thức ở
những nơi mà bạn nghĩ nó sẽ không được đề cao lắm. Khiêm
tốn bao giờ cũng là một đức tính đáng quý. Nếu bạn chưa
là bạn của mọi người nhờ kiến thức thì lý do đầu tiên
là kiến thức của bạn chưa đủ.
Chính vì đọc để học không có hại cho sức khỏe tinh thần
của bạn như dân gian vẫn quan niệm, tôi khuyên bạn nên đọc
bất kỳ khi nào có thể và bất kỳ cái gì có thể phục vụ
cho mục đích học của bạn. Hãy đọc để học và đọc cả
để nghỉ ngơi.
Rèn luyện được thói quen đọc nhiều, mọi nơi và đọc có
ghi chép là tất cả những gì bạn cần để đọc thành công
trong môi trường học ở Mỹ. Khác với học ở Việt Nam, việc
đọc không được chú trọng lắm, một hai quyển sách giáo khoa
đã là đủ thì ở Mỹ mỗi buổi học giáo sư có thể giao cho
bạn đọc từ vài chục đến hàng trăm trang sách. Sự khác
biệt này là hệ quả của một trong những nhược điểm của
việc học ở Việt Nam và Trung Quốc tôi đã nói ở phần trên.
Ở Việt Nam, quan niệm cho rằng kiến thức trong quyển sách
giáo khoa kia đã là sự thật không thể thật hơn được nữa
và để giỏi bạn chỉ cần biết đến thế. Ở Mỹ, cho sinh
viên tiếp thụ thông tin trái ngược nhau là để sinh viên tự
tìm lấy câu trả lời cho riêng mình đồng thời rèn luyện cho
sinh viên khả năng tư duy chọn lọc (không tin ngay những gì
bạn đọc, luôn đặt câu hỏi với thông tin, không hài lòng
với những kiến thức có sẵn.) Học ở ta như thế sẽ khó
tránh được việc phát triển cái cũ hay chỉ đơn thuần là
hạn chế tư duy phá lệ thì ở Mỹ, sự va chạm của các
nguồn thông tin trái ngược nhau hay sản sinh ra những cái mới,
mở ra những chân trời học vấn mới.
Với lượng thông tin lớn như vậy phải nắm kịp trong một
thời gian ngắn trước bài giảng, bạn sẽ cần những kỹ năng
phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Phải thú thực là ít có
người, kể cả và đặc biệt là sinh viên Mỹ, có thể đọc
hết tất cả những thứ thầy giao cho đọc trước. Sinh viên
nước ngoài thông thường do đọc tiếng Anh như ngoại ngữ nên
lại đọc càng ít hơn. Nói thế không có nghĩa là bạn cũng
sẽ như vậy. Có nhiều lợi ích trong việc đọc hết được
các assigned readings. Nếu bạn làm được thì bạn sẽ học
được rất nhiều nhưng để làm được thế bạn cần phải
làm gì.
Muốn đọc được nhiều trong thời gian ngắn, bạn cần phải
đọc nhanh. Đọc nhanh tuy thế chỉ có tác dụng khi bạn nhớ
được nội dung của những gì bạn đọc. Nếu không nhớ
được thì đọc nhanh mấy cũng chỉ là vô ích.
Trong thời đại bùng nổ thông tin thế này, việc đọc nhanh
lại càng trở nên có ích. Các chương trình dậy đọc nhanh ở
Mỹ khoe là có thể huấn luyện cho người ta đọc nhanh đến
10.000 từ mỗi phút (khoảng 20 trang A4) với độ ghi nhớ
(retention) đến 80%. Tôi e rằng các con số này chỉ là quảng
cáo. Theo tôi hiểu người thường có thể đọc bản ngữ đến
khoảng 200 từ mỗi phút với độ ghi nhớ cao khoảng 60% tức
là mỗi phút đọc tiếng Việt bạn sẽ may mắn nếu nhớ
được thông tin chứa trong 120 từ. Cứ cho như bạn đọc tiếng
Anh với tốc độ của người bản ngữ thì để đọc 100 trang
(~40-50.000 từ) cho một môn học thì bạn sẽ mất khoảng 3-4
tiếng. Bạn có làm được thế không?
Nếu bạn trả lời là Không thì tôi khuyên bạn nên khởi
động ngay từ bây giờ và chuyển sang đọc tiếng Anh càng
nhiều càng tốt. Không phải là người bản ngữ, để đọc
nhanh hơn, trước tiên bạn cần phải vượt qua những rào cản
ngữ pháp và từ vựng. Ngữ pháp thì dễ dàng hơn, từ vựng
thì là việc học cả đời "chỉ nói là nhiều hay ít chứ
không biết thế nào cho đủ."
Không thể nói về việc đọc mà không đề cập đến tầm quan
trọng của từ vựng. Từ, đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất, là
phương tiện quan trọng nhất chuyển tải ý tưởng (vehicles for
ideas.) Để nắm bắt được nhiều ý tưởng hơn trong thời gian
ngắn, bạn nhất thiết phải biết nhiều từ hơn mà không chỉ
biết sơ qua, phải thật sự thân thiết. Từ vựng phải được
coi như bạn thân để giữ cả đời (good friends to keep for life.)
Đọc câu trên, có lẽ bạn hơi nhăn mặt nghĩ rằng tôi đang
hoa mỹ không cần thiết. Có thể là thế nhưng để tôi giải
thích và bạn sẽ nghĩ lại là không phải thế. Do mỗi từ, ở
đây tôi nói tiếng Anh, chuyển tải một ý tưởng riêng
biệt-kể cả các từ đồng nghĩa cũng không hoàn toàn giống
nhau-nên mỗi từ bạn biết thêm cho bạn khả năng diễn đạt
một ý tưởng mới mà trước đây bạn có thế hoàn toàn không
biết đến hay có biết thì để diễn đạt phải dùng cả câu
dài. Nói không ngoa, mỗi từ lại thêm một chút ý nghĩa vào
cuộc đời của bạn. Đây cũng đồng thời là định nghĩa cho
những người bạn tốt. Như vậy, từ vựng và bạn tốt đúng
thực là giống nhau.
Để đọc nhiều bạn cần đọc nhanh, để đọc nhanh bạn cần
biết nhiều từ, việc bạn biết nhiều hay ít từ phụ thuộc
vào việc bạn đọc cái gì.
<b>2. Đọc cái gì? </b>
<u>Lúc khởi đầu, hãy đọc cái gì bạn thích. Đừng đọc
những gì bạn bị bắt phải đọc. </u>
Làm gì cũng vậy và đọc không phải là ngoại lệ, chúng ta
làm tốt hơn nếu ham thích công việc đang làm. Đừng lo nếu
ở lớp ngoại ngữ thầy cô giáo bắt bạn phải đọc một tài
liệu do họ chọn, hãy cố tự chọn cho mình những tài liệu
mà mình có quan tâm. Hãy đọc bầt kỳ cái gì bạn thích.
Đừng ngại ngần nếu cái bạn đọc không có liên quan gì
đến cái bạn học. Kiến thức có những cách kết hợp kỳ
lạ ngoài tầm kiểm soát hay mong muốn của bạn.
<u>Một quyển sách tiếng Anh hay đọc trong một tuần có giá
trị hơn sáu tháng học ngoại ngữ trên lớp. </u>
Khó tin nhưng là việc có thật. Một quyển sách hay vài trăm
trang về bất kỳ vấn đề gì bạn thích là một bài học
tổng hợp tốt nhất bạn có thể có. Sách sẽ dạy cho bạn
cách hành văn, ngữ pháp, từ vựng, văn hóa, lịch sử, xã
hội, đạo đức, triết học, tình yêu, vv. Xin thử cho tôi một
ví dụ về sáu tháng học tiếng Anh trên lớp có thể mang lại
cho bạn bằng đấy kiến thức.
Xin nhớ đừng quên ghi chép và đừng quên biến việc đọc
thành một quá trình. Việc đọc sách nhiều trong thời gian
đầu học tiếng Anh sẽ giúp bạn có thể thi TOEFL được
điểm cao về ngữ pháp, từ vựng và đọc hiểu mà không cần
phải học. Hãy đọc nhiều truyện hay, lãng mạn hay công an
bắt gián điệp đều được cả miễn là bạn thấy thích.
Ngày xưa tôi cứ đọc vài quyển sách là thấy tiếng Anh của
mình đã lên cao hẳn lên một bậc.
Ở đây có hai điểm tôi muốn nói. Thứ nhất là khái niệm
subliminal learning. Khái niệm này nói về việc học không có
chủ ý. Đọc tiểu thuyết bằng ngoại ngữ là ví dụ như
vậy, bạn học mà không biết là mình đang học. Khi tôi khuyên
mọi người nên đọc bất kỳ cái gì, thông thường tôi thấy
mọi người có vẻ đều nghi ngờ hoặc nếu có đồng tình thì
chỉ để đó chứ không thực hiện. Về kỹ thuật mà nói,
bất kỳ cái gì bạn đã nhìn thấy bạn đều nhớ. Việc bạn
có biết là mình đã nhớ những gì hay có gọi lại những thứ
bạn đã nhớ hay không lại là những việc khác. Học tiếng Anh
bằng công thức trên lớp chỉ là một cách, thông thường
hiệu quả kém nếu bạn không thích người dậy, thời tiết
nóng bức, tài liệu học, người ngồi bên cạnh, vv. Đọc sách
giúp bạn học thếm nhiều điều bạn cố ý học và song song
là thu thập mọi thứ bạn nhìn thấy trong sách rồi lưu trữ
lại trong đầu bạn khi nào ý thức yêu cầu bạn có ý kiến
về một vấn đề có thể bạn hoàn toàn không biết nhưng đã
trót nhìn thấy ở đâu đó trong một quyển sách bạn đã
đọc, bạn sẽ thấy ngạc nhiên về hiệu quả truy cập thông
tin trong tiềm thức. Bạn sẽ có ý kiến của mình mà đôi lúc
không hiểu từ đâu ra.
Đây là một cách cực kỳ hiệu quả để học ngữ pháp tiếng
Anh nếu ngữ pháp là thứ bạn sợ. Hãy đọc nhiều và bạn
sẽ tự nhiên biết được ngữ pháp thế nào là đúng. Hãy
đọc thật nhiều và bạn sẽ biết được ngữ pháp thế nào
là sai. Bạn sẽ phát triển được con mắt thứ ba về các quy
tắc ngữ pháp và hành văn tiếng Anh gần như chính xác tuyệt
đối mà không bị mất nhiều công sức.
Điều thứ hai tôi muốn nói là về từ vựng. Ở đây tôi xin
ghi lại nguyên văn 5 quy tắc học từ của tác giả Norman Lewis,
một chuyên gia về huấn luyện từ vựng tiếng Anh cho người
Mỹ. Xin gợi ý lại cho các bạn đang học thi GRE hay GMAT là
người bản ngữ cũng thấy khó học từ hệt như bạn.
– <u>Phải cởi mở với từ mới một cách chủ động </u>:
Từ mới sẽ không đuổi theo để bạn nhớ, hãy đi tìm chúng
– <u>Hãy đọc thật nhiều</u>: Cố đọc một quyển sách và
vài tạp chí mỗi tuần, không chỉ tuần này và tuần sau mà
suốt cả đời.
– <u>Hãy thêm từ mới đọc được vào vốn từ vựng của
mình</u>: Lần đầu nhìn thấy từ mới, hãy dừng một chút
để suy nghĩ đến ý nghĩa của từ trong văn cảnh cũng như
"chiêm ngưỡng dung nhan của nó". Bạn chưa chắc đã nhớ ngay
nhưng sẽ nhận ra nó lần sau, vài lần như thế thì bạn không
chỉ nhớ mà còn biết các nghĩa khác nhau của từ nữa.
– <u>Phải để tư tưởng cởi mở với các ý tưởng
mới.</u>: Từ là ý, nếu không muốn nhớ ý thì sẽ khó nhớ
từ
– <u>Phải đặt mục tiêu cụ thể</u>: Nếu không có mục
tiêu thì trong vòng một năm tới may lắm bạn học được thêm
vài chục từ mới. Nếu có mục tiêu bạn có thể học được
vài chục từ mới trong vòng một tuần hay vài ngàn từ trong
cả năm. Đừng sợ học hết từ, tiếng Anh hiện đại có ít
nhất 500.000 từ và mỗi ngày đều có thêm những từ mới.
© 2003 talawas
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130821/pham-tuan-anh-hoc-va-doc), một số
đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời độc
giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận
có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng
dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét