Khuất Đẩu - Đã đến lúc, dù không đúng lúc, ông tôi chết!

Ông tôi đã chết!

Chết ở tuổi 99 nên sự tiếc thương được mọi người dành
cho ông chỉ là: Uổng quá há, còn năm nữa thôi, sao không ráng
sống cho đủ trăm? Làm như thể "đủ trăm" thì ông mọc
được cánh mà bay lên giời! Dĩ nhiên, vì chưa đủ trăm nên
đến tận cuối đời, ông vẫn cứ phải nằm trên chiếc
giường mà dù có thay chăn chiếu từng ngày, thì cái mùi của
người già, một cái mùi ngai ngái, khăm khẳm vẫn khiến cho
những cái mũi trẻ trung của khách đến thăm phải khó chịu.
Họ kính cẩn (hay giả vờ kính cẩn) đặt quà lên bàn, run
rẩy đưa cả hai bàn tay úm lấy tay ông. Bàn tay ông thì xương
xẩu lạnh lẽo. Bàn tay họ thì mum múp ấm áp. Chưa khi nào mà
sự tương phản của tuổi trẻ và tuổi già lại rõ rệt đến
thế.

Ông chết ngày 15 tháng 8. Lại tiếc!

Phải chi ráng thêm 4 ngày nữa thì trọn vẹn làm sao, vì đó là
ngày cách mạng thành công! Một ngày mà ông sung sướng, hãnh
diện, luôn nhắc tới, luôn nhớ tới. Ông thường nói, mẹ cha
chỉ sinh ra mỗi cái xác, chính cách mạng mới sinh ra ông cái
phần hồn. Không có cái ngày ấy thì ông cũng u mê tăm tối
như bao thế hệ trước mà thôi.
Ngày ấy ông 26 tuổi. Từ một anh chân quê, quanh năm bận bịu
với cái cày cây cuốc, ỗng bỗng dưng được mặc đồ đại
cán, đi dép cho dù là dép râu, đội mũ nan bọc vải, mang xách
cốt bằng da bò và cứ thế đi xuống xã chạy lên huyện vun
vút như con thoi. Có trời mới biết được ông làm đến chức
gì. Ngay như bà tôi, là người có một thời tâm phúc ruột rà
với ông, mà cũng chỉ biết ông có mỗi một việc là hết đi
lại về. Chuyện nhà cửa ruộng vườn, chuyện con cái ốm đau,
chuyện tết nhứt giỗ chạp… ông mặc nhiên trút cái gánh
hết sức nặng nề đó lên đôi vai mỏng mảnh của bà. Công
tác, lúc nào cũng công tác, bà nói. Mà có đưa về được
đồng xu cắc bạc nào đâu. Toàn là lấy của nhà. Nhưng nhà
đâu có của nả gì. Cũng chỉ toàn là mồ hôi, nước mắt
của vợ con thôi. Hỏi thì bảo cấm hỏi, làm cách mạng là
phải hy sinh. Đến xương máu còn chưa tiếc, huống hồ là bạc
tiền.

Vậy đó, bà nói, ông mày làm cách mạng như thể được mời
đi ăn cỗ. Chỉ có mỗi một việc là bỏ dép, phủi chân cho
sạch bụi lên ngồi xếp bằng trên phản. Trước mặt là cỗ
bàn ê hề. Hết chả lụa đến chả giò. Hết tim cật xào lăn
đến canh cá ám. Hết bún Song Thần đến bún Bồng Sơn. Mời
mọc nhau, mà thực ra là rình rập nhau, lựa riêng miếng nạc
cho mình mà đẩy miếng xương cho kẻ khác. Thi nhau nói, thi nhau
cười, vẫn không quên thi nhau gắp, thi nhau múc, thi nhau chan, thi
nhau húp, thi nhau lua… xì xoạp đến hả hê. No nê xong lại bày
ra bài bạc, đàn hát. Trong khi đám đàn bà con gái dưới bếp
thức dậy từ khuya, hết mổ gà lại cắt tiết vịt, hết
chiên lại xào, hết đưa những cái tô đầy ụ lên lại đem
những cái đĩa nhẵn bóng xuống, hết rượu đến trà, để
rồi khi cỗ tàn thì chỉ còn lại trong nồi chút nước có váng
mỡ, chan húp đại một chén cơm hay đĩa khoai rồi lại phải
mướt mồ hôi mà dọn rửa chén bát, kỳ cọ chảo nồi cho
đến tận nửa đêm… Ai là dân, ai là quan? Ai sướng, ai khổ?
Cháu biết rồi đấy, không cần phải nói!

Thưa rằng, sở dĩ bà có giọng cay đắng phản cách mạng như
thế là vì sau 9 năm, tức hơn 3000 ngày đi đi về về không
một chút nào ngơi, ông tôi bỏ bà ở lại trong tay giặc để
đi tập kết! Đi một mình thì nói làm chi, đằng này lại
được Đảng ưu ái cho đem hai bác tôi theo, một người lúc
đó lên 10, một người lên 8. Còn ông thì cũng không quên ưu
ái tặng thêm cho vợ một cái bụng bầu, để rồi sau đó bà
phải gạt nước mắt mà sinh con trong tù.

Cứ tưởng ông và các con đi 14 tháng lại về, không ngờ đến
những hơn 20 năm. Đó là quãng đời dài cơ cực nhất của bà.
Vì là vợ của cán bộ nên bà bị chính quyền mới hành tới
hành lui, kêu lên kêu xuống hạch hỏi đủ điều. Cái ô nhục
của một người đàn bà có chồng cán bộ không kể sao cho
xiết. Bọn nghĩa quân, bọn dân vệ đứa nào cũng tự cho mình
có cái quyền được chọc ghẹo, gạ gẫm, sờ mó, tán tỉnh
bất kể là ngày hay đêm. Có đứa đáng tuổi em út cũng lên
giọng cớt nhả: bỏ quách thằng cán bộ già đó đi, về với
anh, em Hai ơi!

Ruộng đồng bị bom đạn hai bên thi nhau cày xới, bà phải
bồng con lên chui rúc ở chợ súc vật Bình Định. Mùi phân heo
gà, mùi nước đái trâu bò nồng nặc trong suốt hai chục năm,
khiến cho cái đầu của cha mày trở nên khai ngấy, tối đen,
học mãi cũng không đậu nổi cái tú tài, đành phải đi trung
sĩ, bà nói một cách chán nản.

Đến tuổi lính thì phải đi thôi, không đi mà yên thân với
nó à? Nhưng ông mày lại nổi xung lên, cho đó là nỗi nhục!
Ở Bắc về, cha tôi kể thêm, câu đầu tiên ông mày hỏi bà
là, sao không đưa nó lên núi theo cách mạng?

Nghe hỏi thế, bà hứ một cái cốc, theo làm gì, theo chi ba cái
thứ mà ai cũng ghét!

Ông gầm lên, bà dám ăn dám nói như vậy hả? Nó theo ai, bà
để nó theo giặc à?

Ừ, bà ngẩng đầu lên, cái đầu giờ đã lốm đốm bạc,
thách thức, thì theo giặc đó, sao ha? Còn thằng Hùng và thằng
Cường theo ông thì giờ ở đâu, sao không thấy về?

Ông nói lấp mấp, tụi nó đang công tác.

Công tác gì, bà hỏi dồn, hòa bình thống nhất rồi thì cũng
phải về thăm mẹ chứ.

Rồi như linh cảm bởi cái sợi dây thiêng liêng giữa mẹ và
con, bà gào lên, con tôi đâu, con tôi đâu? Trả lại con cho tôi!

Đến lúc này, ông mày mới rón rén bước lại bên bà, nói
nhỏ đủ để bà nghe, hai đứa hy sinh hết rồi!

Hy sinh là sao? Bà khóc nức nở. Ai bắt chúng nó hy sinh? Ông
hả? Hay là cái Đảng chết tiệt của ông?

Tôi cấm bà nói thế, ông lại gầm lên.

Cấm mà được à, mất con mà không cho tôi nói sao? Tôi sẽ đi
ăn xin, sẽ gối đất nằm sương ra tận cái Trung ương Đảng
của ông để đòi lại con.

Để tôi nói cho bà nghe, ông trở nên nhũn nhặn, tụi nó lần
lượt hy sinh là hết sức vẻ vang cho gia đình mình đó. Một
đứa trên đường Chín Nam Lào, một đứa tại Quy Nhơn trong
Tết Mậu Thân, nghe đâu tại kho xăng ông Tề.

Vậy là các con tôi chết cả rồi, bà khóc quều quào, con ơi
là con ơi! Con chết bờ chết bụi, chết tức chết tối, chết
đói chết khát mà người ta bảo là vẻ vang, vẻ vang cái nỗi
gì hả trời! Đi, ngay bây giờ đây tôi đi ra Bắc đòi con, ông
có dám đi với tôi không?

Ai cho phép bà làm cái việc phản động đó, ông hốt hoảng,
tụi CIA xúi giục à, hay là cái thằng con theo giặc trời đánh
của bà? Phải chi không có nó thì bà đã được phong tặng bà
mẹ anh hùng rồi.

Ối trời ơi, anh hùng cái nỗi gì! Bà lại gào lên, con chết
mà mẹ lại anh hùng! Có người mẹ nào lại khốn nạn như
thế?

Cái buổi chiều đoàn viên không có tiếng cười ấy, tưởng
chừng sẽ chia cắt hai người mãi mãi, nhưng không hiểu sao họ
vẫn cứ sống chung một nhà. Có lẽ ngoài những điều khác
biệt như tối và sáng, ông tôi và bà tôi may ra hãy còn có
một điểm chung. Đó là, trong suốt 20 năm ở miền Bắc, ông
không dối Đảng để lấy vợ khác, còn bà, tuy chẳng tin gì
ở ông nhưng cũng không chịu lấy ai.

Sống chung dưới một mái nhà, nhưng bao nhiêu uất hận đã
được tuôn ra như một cái đập vỡ, nên bà chẳng hề mở
miệng với ông một lần nào nữa. Ngay lúc lâm chung, ông ú ớ
muốn giăng dối điều gì, bà cũng lặng câm như chưa từng
biết nói. Bà đi chùa gần như mọi ngày. Ở đó bà lầm rầm
cầu xin đức Phật giải oan cho các con. Bà cũng khóc mà xin các
con tha tội cho mẹ, vì đã sinh ra các con nhưng lại thua một con
gà mái, không dám xù lông ra trước con diều để bảo vệ
chúng.
Ông thì ngược lại, ngày nào cũng đến câu lạc bộ hưu trí,
đọc báo Nhân dân, đánh cờ và chê bai lớp cán bộ trẻ,
nhất là những kẻ a dua, đầu đội nón cối nhưng bụng thì
đầy bơ sữa của Mỹ Ngụy. Cha tôi, dù cố tránh mặt ông,
nhưng vẫn bị ông càm ràm bực bội. Ông bảo, trong nhà có mùi
của thằng giặc nên ăn không thấy ngon, ngủ không yên giấc!

Ngày 19 tháng Tám, ngày 30 tháng Tư, ngày 19 tháng Năm, ngày 2
tháng Chín và bao nhiêu ngày lễ khác nữa, ông sung sướng tự
hào được khoác áo đại cán, có dịp đeo huân chương đầy
ngực, hãnh diện được ngồi ở hàng ghế của cán bộ lão
thành. Huân chương của ông nhiều đến nỗi, nếu đeo hết
phải tràn ra cả sau lưng và chen nhau xuống tận rốn, lúc nào
cũng được ông chăm chút lau chùi trịnh trọng.
Ông có thể ngồi kể suốt ngày cho con cháu nghe (mà có đứa
nào chịu nghe đâu) lịch sử từng cái một, chiến công gì,
thành tích ra sao, được trao ngày tháng nào, và ai trao, có bao
nhiêu cái được chính tay Bác ký, bao nhiêu lần được gặp
Bác, ôi thôi, cả một trời những chuyện có thật và những
chuyện tưởng như có thật.

Đã có lần ông muốn viết hồi ký bằng cách kể lại cho tôi
ghi. Ông cũng tập tễnh làm thơ ca ngợi Đảng và Bác. Thơ ông
được in trên nội san của tỉnh ủy và đã có lần được
ngâm đọc trên đài phát thanh. Như mọi người cộng sản chân
chính, ông không hề biết khiêm nhường là gì, cứ đem cái vinh
quang trong thời bình ấy ra kể mãi.

Ông cũng không hề xót xa mà ngược lại cảm thấy sung sướng
khi ruộng đồng được san lấp để từ đó chạy dài những
con đường thẳng tắp, mọc lên những ngân hàng nhà nước,
cục thuế, đồn công an to đùng. Ông bảo, như thế mà không
tiến bộ à, đúng như Bác nói, giờ to đẹp gấp mười lần
xưa.

Vì là người cộng sản, nên ông cũng là một trong những
người lạc quan nhất nước. Sợ gì Pôn Pốt, Đặng Tiểu
Bình! Ông nói, mặc kệ cái lý thuyết mèo trắng mèo đen ngu
xuẩn và cái giấc mộng bá bành đáng ghét của nó, mọi việc
đã có Đảng lo. Vậy nên, so với bà lúc nào cũng ưu tư rầu
rĩ, ông sống rất hồn nhiên, vô tư. Ông như đứa bé còn nằm
trong nôi được Đảng đút từng muổng sữa, thay từng chiếc
tã. Chỉ có mỗi một việc là nằm mút tay rồi ngủ, chưa cần
biết tới những gì xảy ra ở bên ngoài.

Bà thường chua xót nói, ông mày chỉ biết ghét tao và căm thù
thằng cha mày chứ biết yêu ai. Nói vậy là bà có hơi thiếu
công bằng với ông. Đâu chỉ có ghét và căm thù không thôi,
ông yêu nhiều lắm chớ, yêu XHCN, yêu các nước anh em, nhất
là nước Lào anh dũng liền núi liền sông.

Có một phóng sự trên truyền hình khiến ông rất xúc động.
Phóng sự kể rằng, có hai đứa bé Lào lạc mất cha mẹ đã
được tình nguyện quân ViệtNam đem về nuôi. Đến nay hai
đứa bé ấy đã thành người già. May mắn làm sao, cả gia
đình nhà họ đã được đoàn tụ.

Chính cái lúc bốn mái đầu đã bạc chụm lại nhau trong ánh
hoàng hôn trên sông Mê Kông khiến ông xuýt xoa kêu lên: tình
đoàn kết Việt-Lào đẹp quá, vĩ đại quá! Và có lẽ vì quá
đẹp, quá vĩ đại nên những mạch máu già nua trong não của
ông không chịu nỗi, vỡ ra, khiến ông lịm dần rồi nằm im
một chỗ.

Đúng như ông nói, mọi việc đã có Đảng lo. Từ ngày ông bị
đột quỵ đến nay đã mười bốn năm. Mười bốn năm ông
được Đảng đưa từ viện này đến viện nọ, từ Tây y
đến Đông y. Đảng lo cho ông từng viên thuốc, ống kim tiêm
(qua bảo hiểm y tế), nhiều lần đút cho ông ăn, lau rửa cho
ông khi đái ỉa (qua hộ lý). Giờ ông chết, Đảng cũng lo hòm
xiểng, tẩm liệm, lo cáo phó trên truyền thanh truyền hình, lo
cả điếu văn… Và nhờ vậy con cháu mới biết được ông
đã kinh qua rất nhiều chức vụ. Từ quân sự đến chính trị,
từ văn hóa đến cả khoa học, nhiệm vụ nào ông cũng hoàn
thành, khó khăn nào ông cũng vượt qua.

Nói chung, một người có đến 70 năm tuổi Đảng như ông, tức
là được Đảng dạy dỗ trở thành người yêu nước yêu dân
mẫu mực (nhưng không yêu vợ con) thì những chức vụ kia,
những huân chương nọ là rất xứng đáng. Chỉ có một điều
ai cũng lấy làm ngờ nhưng không dám nói ra, ấy là cái chức
Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh X. bỗng dưng như từ
trên trời rơi xuống tỏa ánh hào quang rực rỡ suốt một cõi
(gần đủ) trăm năm của ông.

Nếu bảo rằng cái tin ông chết không khiến ai bất ngờ là
thiếu kính trọng. Mà bảo rằng ai cũng thấy nhẹ người là
thiếu nhân ái mà thừa tàn nhẫn. Còn bảo rằng rất đỗi vui
mừng là quá hỗn. Tiếc rằng đó là sự thật.

Còn như khi đọc cái truyện thiếu văn hóa này mà có người
mơ mộng: ước gì cái Đảng mà ông tôi và nhiều người đã
lỡ tin tưởng ngây ngô, cái Đảng đã làm cho triệu người vui
nhưng cũng rất, rất nhiều triệu người buồn này, cái Đảng
đó cũng già nua, ngờ nghệch đang đột quỵ như ông tôi từ
bao nhiêu năm nay, thì cũng nên chết quách cho rồi! Ước như
vậy thì cái tựa đề có thể sửa đôi chút mà làm câu kết.
Rằng: <strong>Đã đến lúc, dù không đúng lúc, Đảng
chết.</strong>

15/8/2013

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130822/khuat-dau-da-den-luc-du-khong-dung-luc-ong-toi-chet),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét