S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Sơn Nam & Cách Mạng Tháng Tám ở U Minh

<div class="boxright200"><img
src="http://danluan.org/files/u23/DANLUAN001003.jpg" /><div
class="textholder">Ảnh Duy Anh. Nguồn: Người Lao Động</div></div>


Mấy năm trước, sau khi ghé thăm giáo sư Lý Chánh Trung, <a
href="http://184.73.254.72/modules.php?name=News&file=print&sid=3662">giáo
sư Nguyễn Văn Lục</a> đã có nhận xét như sau về người bạn
đồng nghiệp cũ:

<em>"... sau 1975 ... có mấy mấy nhà văn, nhà báo trong Nam
được cầm bút lại như Lý Chánh Trung. Con số đếm chưa hết
một bàn tay… Trước 75, ông viết như thể một người nhập
cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn
thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông
viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay"</em>

Tôi có ngồi học với giáo sư Lý Chánh Trung đâu chừng cỡ...
nửa giờ, ở trường Văn Khoa Đà Lạt. <em>Nhất tự vi sư, bán
tự vi sư</em>. Tôi không dám bàn luận lôi thôi gì (thêm) về
chuyện viết lách của một người thầy học cũ.

Nhận xét dẫn thượng, chả hiểu sao, bỗng khiến tôi nhớ
đến nhà văn Sơn Nam. Ông cũng là một trong những người may
mắn hiếm hoi của miền Nam (trong "con số đếm chưa hết một
bàn tay") vẫn được phép cầm viết, sau 1975, và là một trong
những nhà văn mà tôi vô cùng mến mộ.

Tác phẩm (có lẽ) đắc ý nhất của Sơn Nam là cuốn <em>Hương
Rừng Cà Mau</em>, trong đó có truyện <a
href="http://www.vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=3346">"Tình
Nghĩa Giáo Khoa Thư"</a> Tác giả kể lại chuyện một người
dân ở U Minh Hạ, đặt mua báo dài hạn nhưng không trả tiền
nên nhà báo phải cử người đi đòi nợ. Xin trích vài đoạn
đọc chơi cho nó ... đã:

<em>- Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy
thầy?</em>

<div class="boxright200"><img
src="http://danluan.org/files/u23/DANLUAN001004.jpg" /><div
class="textholder">Ẩn bản 1972. Nhà xuất bản Trí Đăng: Sài
Gòn.</div></div>

Thầy xã trưởng đáp:

<em>- Ở xóm Cà Bây Ngọp lận! Để tôi ra lịnh cho phó hương
ấp đòi tên đó lên công sở... </em>

Thầy phái viên nhà báo "Chim Trời" giựt mình:

<em>- Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quí
vị độc giả thân mến gần xa.</em>

Thầy xã hỏi:

<em>-Phái viên là gì vậy thầy?</em>

- Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thu tiền."

[(Sơn Nam. "Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư." Hương Rừng Cà Mau,
tr.99) (*)]

Nhân vật chính trong truyện, ông Trần Văn Có, theo như lời dân
cùng xóm, là một người độc thân, làm nghề giăng câu, nuôi
heo, lấy tổ ong, và hơi ba hoa chút đỉnh: <em>"Anh ta công kích
tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công
sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít-le, chuyện nước Ý đánh
nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối
nói lảng qua chuyện Tầu..."</em>

Nghe nói vậy nhưng không phải vậy. Khi phái viên báo Chim Trời
giáp mặt độc giả Trần Văn Có, ngay tại nơi cư trú của
ông, cuộc hội kiến – rõ ràng – rất là trang trọng và (vô
cùng) thắm thiết:

<div class="special_quote">
 
"Buổi cơm chiều ngon lành làm sao! Ăn cá lóc nướng trui,
uống rượu... Tư Có kèm thầy phái viên ở lại ngủ một
đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở
mà đón tàu đi. Thếp đèn dầu cá kèo thêm một tim thứ nhì
nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên cuồn cuộn,
tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mành lưới tơ giăng bủa
khắp căn chòi nhỏ hẹp.

Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời:

<em>- Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài
muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong
thếp đèn dầu cá đó.</em>

Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón rén dở
mí mùng, chui lẹ vào ngồi kế bên:

<em>- Xứ gì lạ quá! Anh Tư ở đây hồi sanh bịnh chết.</em>

Tư Có đáp:

<em>- Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết. Hồi
đó nghe nói trâu "len" tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp
trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn... Bởi vậy
dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái
trường học.</em>

Thầy phái viên trố mắt:

<em>- Vậy à? Còn mấy làng khác?</em>

<em>- Ðông Thái, Ðông Hồ, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông... không
làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi...</em>

<em>- Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo
Chim Trời của chúng tôi... Báo có thích hợp không anh Tư?</em>

…...

<em>- Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm phải không thầy phái
viên? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm
thầy giáo cũng đặt thơ bát cú, tứ cứ. Cha tôi chết, má tôi
giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là sách Quốc Văn giáo
khoa thư, thầy còn nhớ không?</em>

Thầy phái viên cười:

<em>- Nhớ chớ. Làm sao mà quên được! Hồi nhỏ tôi hớt "ca
rê", tay xách toòng teng bình mực đi học ở trường làng. Hồi
đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi,
đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ
trường học, nhớ làng xưa.</em>

Tư Có nói:

<em>- Chắc là thầy muốn nói bài 'chốn quê hương đẹp hơn
cả' chớ gì?</em>

Rồi chú đọc một hơi:

<em>- Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ
quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm.
Một người bạn hỏi: ông đi du sơn du thủy...</em>

<em>- Ðó đa! Ðó đa! Anh Tư nhớ kỹ quá... Người du lịch mới
trả lời: ở chốn quê hương... từ cái bụi tre ở xó vườn
cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho
tôi những mối cảm tình chứa chan... Bài đó có hình ông già
mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đống
áo dài.</em>

<em>- Thì hình nào cũng khăn đống áo dài. Trừ ra cái hình
thằng nhỏ chăn trâu cầm roi: ai bảo chăn trâu là khổ...
Không, chăn trâu sướng lắm chứ.</em>

Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng:

<em>- Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi
ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong
chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ...</em>

Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim…

Giọng Tư Có nói nhỏ:

<em>- Ngủ chưa, thầy phái viên?</em>

<em>- Ngủ chưa anh Tư?</em>

<em>- Chưa!</em>

<em>- Tới nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà,
mà không thấy mệt.</em>

Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một
tiếng thở dài:

<em>- Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình
nghe coi... Chắc thầy tới đây thâu tiền.</em>

<em>- Ðâu có! Ðâu có! Mình là bạn đời với nhau...</em>

<em>- Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật
ong... nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho
nhà báo. Tôi "đăng" là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít
đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để dành về sau cho
đủ bộ.</em>

<em>- Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu
lâu dò nơi mục Thư tín không chừng có lời của tôi thăm hỏi
anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư
hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói
lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số
báo, hoài  hoài cho tới số chót.</em>

<em>Chú Tư Có vô cùng cảm động…</em>"

(sđd 111-116). </div>
 
Tôi đọc truyện <a
href="http://www.vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=3346">"Tình
Nghĩa Giáo Khoa Thư"</a> khi còn ở tuổi đôi mươi. Tuổi trẻ
bao giờ cũng nhiều lý tưởng. Tôi và bè bạn vẫn tâm nguyện
rằng, sau cuộc chiến, thế hệ của mình sẽ cố góp hết sức
để dựng xây những phần đất quê hương (bị lãng quên) như
vùng U Minh Hạ.

Hòa bình, tiếc thay, đã không mang lại cuộc sống an bình như
mọi người mong muốn. Không những thế, nó còn khiến cho hàng
triệu kẻ đã phải liều mạng rời bỏ quê hương, để mưu
cầu một cuộc sống khả kham hơn – nơi đất lạ quê người.

Tôi là một trong những kẻ đã (đành đoạn) bỏ đi như thế.
Vài chục năm sau, khi tóc đã điểm sương, ở một góc trời
xa, tình cờ đọc được bài báo (<a
href="http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=98561&ChannelID=89">"Tiếng
Kêu Giữa Rừng U Minh Hạ"</a>) của phóng viên Hoàng Trí Dũng
mà không khỏi băn khoăn nhớ về quê cũ:

<div class="special_quote">"Tôi đã đến nhiều miền quê nghèo
khó vùng sông nước ĐBSCL, nhưng có lẽ chưa lần nào tơi bị
'sốc' như chuyến đi lần này. Nơi tôi đến là một vùng
quê giáp ranh giữa hai tỉnh Kiên Giang - Cà Mau, cách không xa
trung tâm hai thành phố Rạch Giá và Cà Mau, vậy mà đã 30 năm
sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức
tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện,
đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất
sản xuất…"

"Trái ngược với hình ảnh ấy là cơ ngơi của các quan chức
địa phương - những người đang giành giật đất đai của
dân. Đó là chuyện thật ở ngay một góc Lâm trường U Minh 2,
ấp 4, xã Khánh Hịa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau."

"Cách đây hai năm một cháu bé tên Hằng, 10 tuổi, con của hai
vợ chồng trẻ không may bị bệnh viêm ruột thừa cấp tính,
nhưng ở giữa rừng không có trạm y tế, mà lòng kênh trơ đáy
khô queo, còn trên bờ thì không có đường đi rốt cuộc đành
ngồi nhìn con chết mà bất lực vì không cách nào chuyển đi
bệnh viện. .."

"Ông chủ nhà Nguyễn Trung Liệt - một lão nông có uy tín trong
vùng - vào chuyện: 'Trên 60 tuổi rồi, hơn chục năm, ba thế
hệ với hơn 30 người sinh ra và lớn lên tại khu rừng này,
nhưng ngặt một nỗi nhà tui không ai có được tấm hộ khẩu,
cũng chẳng hề có giấy chứng minh nhân dân. Người lớn còn
đỡ chứ tội nghiệp sắp nhỏ, năm đứa cháu nội ngoại ra
đời trong ruột rừng này hiện tại đều thất học như ông
cha nó…'

Chú Ba Vinh thì kêu:"Cả trăm gia đình bà con ở đây khổ
lắm, không thua gì thời kỳ Pháp thuộc…" </div>

Chú Ba Vinh (nào đó) tuổi đời – ngó bộ – còn hơi ít nên
không biết rõ cảnh sống của dân chúng ở U Minh Hạ vào thời
Pháp thuộc. Chớ hồi đó, cứ theo như lời kể của ông già
Nam Bộ Sơn Nam, nơi đây đã có người đặt mua dài hạn báo
<em>Chim Trời</em> ở tận Sài Gòn, có kẻ giữa bữa giỗ (dám)
bàn chuyện quốc sự và lớn tiếng chê bai tờ Lục Tỉnh Tân
Văn của nhà nước Lang sa.

Những chuyện "tầm ruồng" như thế, xem ra, có vẻ như một
giấc mơ (đã) xa xôi lắm đối với người dân ở U Minh Hạ
– bây giờ. Trong bài phóng sự (thượng dẫn) không nghe phóng
viên báo Tuổi Trẻ kể lại chuyện có bữa nhậu lai rai mấy
con cá lóc nướng trui với người dân địa phương, và dùng
chung với họ một bữa cơm chiều ("ngon làm sao") như đặc
phái viên của báo <em>Chim Trời</em> – hồi đó. Chuyện người
ta ăn ở cư xử tử tế với nhau, theo kiểu "Tình Nghĩa Giáo
Khoa Thư" (ngó bộ) cũng miễn có luôn.

Ở U Minh Hạ, ngày nay, theo như nguyên văn tường thuật nhà báo
Hoàng Trí Dũng:<em>"30 năm sau ngày đất nước thống nhất
vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi
bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không
hộ khẩu, không đất sản xuất."</em> Có chăng chỉ là tiếng
kêu gào ai oán, của những người dân khốn cùng và uất hận,
vì bị cướp bóc trắng trợn mà thôi.

Sơn Nam, có lẽ, vì tuổi đời đã cao nên không còn nghe và
thấy được những tiếng kêu thương và cảnh đời vô vọng
(đến thế) từ nơi sinh trưởng của ông. Ngày 18 tháng 8 năm
2008, trên <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=13980&rb=0103">diễn đàn
talawas</a>, tôi nghe nhà văn <a
href="http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=13980&rb=0103">Lê Phú
Khải</a> kể chuyện này:

<div class="special_quote">"Có lần tôi nhờ ông viết một bài cho
Đài Tiếng nói Việt Nam để kỷ niệm Cách mạng tháng Tám ở
Nam bộ. Mấy ngày sau, cũng tại quán café ở Gò Vấp, ông đưa
tôi bài: 'Nhớ ngày Cách mạng tháng Tám ở U Minh', đánh máy
bằng cái máy chữ, chữ nhỏ li ti như con kiến. Ðài phát xong
tôi thấy 'tiếc' quá! Vì chữ nghĩa phát lên trời rồi gió
bay đi... Tôi bèn gửi bài đó cho báo Cà Mau. Khi bài báo đó
được in trên giấy trắng mực đen ở Cà Mau thì bạn đọc,
cán bộ, đồng bào và các nhà nghiên cứu của vùng đất này
đều kinh ngạc về trí nhớ của Sơn Nam. Bài báo đó là một
tư liệu lịch sử sống động về Cách mạng tháng Tám ở U
Minh, chưa từng được ai ghi chép lại sinh động như thế. Thư
gửi về toà soạn tới tấp... Xin trích đăng lại đoạn cuối
của bài báo đó:

"Tại dinh chủ quận trước kia, cờ đỏ sao vàng bay phấp
phới. Từ những thôn xóm hẻo lánh, đồng bào đến dự ngày
lịch sử trọng đại. Ðã có ban trật tự sắp xếp chỗ đậu
xuồng ghe. Ðồng bào người Khmer cũng đến dự với các sãi
áo vàng. Xuồng ghe đậu dài hàng kilômét. Nhiều người trung
niên 'quần bao áo bố' cõng con trên vai để nó trông lên
khán đài. Tiếng loa phát ra vang vang, báo tin đại diện của
tỉnh bộ Việt Minh đã đến. Có múa lân. Vài ông lão tụ tập
lại, dạy võ thuật cho thanh niên. Loa lại vang lên, khuyên
đồng bào yên tâm, cứ chịu đói buổi sáng, sau đó sẽ có
phân phát bánh tét, ăn thay cơm. Trời chuyển mưa. Ðồng bào
vẫn đứng chịu mưa tại chỗ." </div>

  Câu chuyện này cũng lại khiến tôi liên tưởng đến nhận
xét của giáo sư Nguyễn Văn Lục về một vị thầy học cũ
của mình:

<em>"Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ
lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông
viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như
một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay."</em>

Sơn Nam qua đời vào ngày 13 tháng 8 năm 2008 nhưng ông đã chết
(trong tôi) hơi lâu, trước đó.

<strong>Tưởng Năng Tiến</strong>

_____________________________

 (*) Sách được in lại (và in "lậu") tại Hoa Kỳ, tuyệt
nhiên không có ghi một chi tiết nào về nhà xuất bản hay năm
tái bản.
 


 
 

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9539), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét