Phạm Duy Nghĩa - Con đường công lý chông gai

Người ta bảo "con người nô lệ pháp luật là con người tự
do". Trong chế độ pháp quyền, nơi pháp luật minh bạch, dễ
tiên liệu, tạo nên những chuẩn mực đáng tin cậy, con người
sẽ đỡ run sợ trước cường quyền, thần thế và sức mạnh
tiền bạc. Công lý được đảm bảo cho bất kỳ ai có lẽ
vẫn chỉ là một giấc mơ, ở cả nước giàu lẫn nước
nghèo. Tuy vậy nếu không sớm đặt những nền móng kiến tạo
công lý thì mười năm sẽ trôi qua rất nhanh, hệ thống pháp
luật giúp Nhà nước cai quản xã hội có thể phình nhanh, song
dân tộc chúng ta không tiến xa trên con đường tiến tới chế
độ pháp quyền.

Nhà kinh tế học nổi danh Milton Friedman khi nhìn lại hơn một
thập kỷ chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường ở các nước XHCN trước kia đã
bộc bạch rằng: "lời khuyên của tôi cho các quốc gia này
chỉ gồm có ba chữ: tư nhân hóa, tư nhân hóa, tư nhân
hóa…nhưng tôi đã lầm. Hóa ra xây dựng một chế độ pháp
quyền xem ra là một nền tảng còn quan trọng hơn cả tư nhân
hóa" [1]. Những thế hệ công dân thời chuyển đổi ở Liên
Xô cũ và nhiều nước Đông Âu đã khó mà nhận ra quốc gia
của họ sau hơn một thập kỷ thực hiện liệu pháp sốc theo
lời khuyên của những người theo chủ nghĩa Tân tự do. Ông
chủ đã thay khuôn mặt mới, song trong hoang tàn của nền pháp
chế XHCN bị quên lãng, một trật tự của cường lực, tiền
bạc và những đặc quyền mới được thiết lập. Một nền
công lý đáng tin cậy với bất kỳ ai trở nên ngày càng xa
vời.

Nhận biết cải cách thể chế cần cho quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, thay vì hối thúc tư nhân hóa,
các nhà tài trợ chuyển sang hỗ trợ xây dựng Nhà nước, hỗ
trợ xây dựng các nền tảng của quản trị quốc gia và chế
độ pháp quyền. Và tại Việt Nam, sự giúp đỡ từ bên ngoài
đó cũng bắt gặp những nỗ lực nội tại nhằm xây dựng
một trật tự xã hội được quản lý bằng pháp luật.

Sửa Hiến pháp, ghi nhận định hướng xây dựng Việt Nam thành
một Nhà nước pháp quyền XHCN, thập kỷ đã qua chứng kiến
cuộc xây dựng pháp luật mạnh mẽ, có lẽ là mạnh mẽ nhất
trong lịch sử nước ta cho đến nay. Có thể so sánh phần nào
với thời Minh Trị canh tân ở Nhật Bản cuối thế kỷ XIX,
hơn 100 năm sau, Việt Nam cũng bắt tay vào xây dựng những nền
móng pháp luật quan trọng cho một xã hội công nghiệp bằng
việc ban hành kế tiếp những bộ luật đồ sộ chịu ảnh
hưởng từ phương Tây.

Ban hành văn bản pháp luật (VBPL) là một trong vô số những
nỗ lực lớn hơn nhằm xây dựng một chế độ pháp quyền,
nơi mà quyền tự do sở hữu, tự do cạnh tranh dựa trên những
chuẩn mực ứng xử đáng tin cậy, tự do khế ước và quyền
tiệm cận công lý của mọi người dân được đảm bảo là
sự khác biệt cơ bản giữa một quốc gia công nghiệp và
những nước nghèo. Luật pháp dày đặc, song nếu chúng chỉ
nhằm thay thế những ông chủ giữ độc quyền, thì danh tước
được đổi tên một cách tân thời nhưng nguồn lực trong
quốc gia vẫn bị kiểm soát bởi những nhóm lợi ích đặc
quyền. Khi ấy hệ thống luật pháp trở thành pháo đài chiến
lũy bảo vệ người có quyền và thế lực, ngăn cản quyền
tiệm cận nguồn lực và cơ hội thi thố tài năng của người
dân. Nếu điều ấy xảy ra, cũng tựa như vô số nước đang
phát triển khác, chúng ta có nhà máy lọc dầu và có thể có
đường sắt cao tốc, song chưa có nền pháp quyền cần cho một
xã hội công nghiệp. Vì lẽ ấy, từ lời tự vấn của M
Friedman, nên nhìn nhận quá trình xây dựng hệ thống pháp luật
ở Việt Nam với một tầm nhìn lớn hơn, tức là xây dựng
một chế độ pháp quyền, bảo đảm công lý cho bất kỳ ai.

Nếu chỉ giúp Nhà nước quản lý xã hội thì chưa đủ, hệ
thống pháp luật phải gắn với chế độ pháp quyền, đảm
bảo công lý cho bất kỳ ai, không phân biệt họ thuộc nhóm xã
hội nào. Nếu pháp luật là những chuẩn mực, thì trong chế
độ pháp quyền cần loại bỏ chuẩn mực kép, mọi người dân
trong xã hội đều có cơ hội được tiệm cận công lý.

Thập kỷ đã qua đánh dấu nhiều thành tựu lập pháp to lớn,
song việc xây dựng chế độ pháp quyền ở Việt Nam vẫn còn
là một mục đích xa vời.
<center>* * *</center>
Pháp luật không chỉ là công cụ của Nhà nước, luật thành
văn được ghi trong VBPL chỉ là một phần nổi của những gì
được gọi là luật cai trị trật tự con người. Điều mà con
người hiểu, nhận ra, thỏa thuận với nhau và ghi thành luật
(luật thế tục, do con người làm ra, positive law) chỉ là một
phần trong vô tận quy luật tất nhiên, ung dung tự tồn tại
trên đời này (luật tự nhiên, natural law). Trong cuộc ganh đua
trí tuệ khám phá ra luật ở đời, quy phạm cũ không hợp lý
bị loại bỏ thay thế bằng điều mới hơn, hệ thống pháp
luật vì thế không tĩnh, mà động, vô tận, không ngừng nghỉ,
đào thải cái cũ, nhận ra cái mới tiến dần đến những quy
luật này càng hợp với công lý của tự nhiên. Góp phần vào
hệ thống pháp luật, vì lẽ đó ngoài VBPL còn có học lý của
giới nghiên cứu luật học, lẽ công bằng mà người thẩm
phán cảm nhận được. Những nguồn pháp luật đa dạng này
tựa như lá cành thân rễ, tất cả tạo nên một hệ thống
pháp luật vững chãi khởi nguyên từ pháp luật tự nhiên.

Nếu hiểu pháp luật là một thể chế xã hội, thay cho con
người ghi nhớ lại những chuẩn mực ứng xử, khi ấy hệ
thống pháp luật còn bao gồm những thiết chế góp phần thực
thi pháp luật, ví dụ cơ quan chấp pháp bảo đảm thực thi
pháp luật, cơ quan bảo đảm và giữ gìn công lý trong thực
hiện quy phạm pháp luật. Khi ấy xây dựng hệ thống pháp
luật không thể tách rời xây dựng hệ thống tòa án, cơ quan
điều tra, công tố và các cơ quan bổ trợ tư pháp khác. Nếu
nhìn nhận như vậy, Việt Nam đã qua một thập kỷ xây dựng
văn bản pháp quy với tốc độ gia tăng một cách dày đặc
dần, song cuộc du nạp các tòa án độc lập và những thiết
chế thực thi pháp luật vẫn còn rất dang dở. Cuộc tranh luận
về án đụng trần, về quyền giám sát của Quốc hội đối
với các bản án của tòa án, thậm chí những cuộc tiến thoái
không rõ chủ đích trong tầm nhìn cải cách đối với Viện
kiểm sát nhân dân cho thấy một thái độ chưa thật dứt
khoát, chưa đủ quyết tâm xây dựng một hệ thống tư pháp
độc lập, đủ mạnh. Trong tương quan với sức mạnh của
Chính phủ, ngành tòa án của Việt Nam đang có một vị thế
khiêm tốn hơn rất nhiều.

<h2>Những cản trở từ văn hóa pháp luật và ý thức hệ tư
tưởng</h2>

Không thể xây dựng một chế độ pháp quyền ở một nước
nghèo như Việt Nam bằng cách thả dù một toán cố vấn từ
các nước giàu hoặc vay tiền nước ngoài để làm luật và du
nhập các thể chế thực thi pháp luật. Nhà nước và pháp
luật hiệu quả (rational Staat, rationales Recht) theo ngôn ngữ của
Max Weber cần cho một xứ công nghiệp là những thể chế khan
hiếm, chỉ xuất hiện và thành công ở một số nơi trên Trái
đất này dưới những điều kiện nhất định2. Quyền tư hữu
và mơ ước làm giàu có ở mọi nơi, mọi lúc, đúng với mọi
giống người, song điều gì đã làm cho chủ nghĩa tư bản đã
ra đời ở Hà Lan và Anh lan dần sang Bắc Mỹ và Tây Âu, giúp
họ sớm trở thành các quốc gia công nghiệp giàu có, trong khi
phần còn lại của Trái đất thuở đó vẫn chìm đắm trong
đói nghèo? Một chế độ pháp quyền cần tới những tiền
đề nhất định để xuất hiện và được duy trì một cách
bền vững. Những điều này liệu đã có ở Việt Nam trong
thập kỷ tới đây?

Trong truyền thống pháp luật phong kiến phương Đông cũng như
theo tư duy của nền pháp chế XHCN người ta đều quan niệm
pháp luật là công cụ của Nhà nước nhằm thiết lập kỷ
cương và trật tự xã hội theo ý chí của người cầm quyền.
Một thập kỷ qua, Việt Nam đã du nhập đáng kể các văn bản
pháp luật trên giấy cần cho Chính phủ để điều hành đất
nước. Tuy nhiên, nếu quan niệm "Nhà nước pháp quyền XHCN"
nặng về tư duy "pháp trị" với chữ "Nhà nước" viết
hoa còn chữ "nhân dân" thì viết thường có nghĩa là,
người Việt Nam vẫn thượng tôn Nhà nước. Chúng ta đã gắng
du nhập những công cụ quản lý mới, tiện và hợp thời cho
Nhà nước cai trị xã hội, song cái gọi là chế độ thượng
tôn pháp luật có thể vẫn còn xa vời.

Văn hóa pháp luật Việt Nam, một cuộc hôn nhân lịch sử giữa
tư tưởng pháp luật thời phong kiến bén duyên nhanh với quan
niệm pháp chế XHCN dùng pháp luật như một công cụ để
triển khai các đường lối của Đảng và giúp Nhà nước quản
lý được xã hội, có thể sẽ là một cản trở đáng kể
để du nhập chế độ pháp quyền, nơi mọi công dân, mọi nhóm
lợi ích đều bình đẳng về cơ hội tiệm cận các nguồn tài
nguyên và quyền lực trong quốc gia.

Từ quan niệm cần có pháp luật như công cụ để quản lý,
không ngạc nhiên Chính phủ nước ta đã là một động lực
mạnh mẽ thúc đẩy toàn bộ quy trình làm luật. Chính phủ đã
đứng sau tất cả những thành tựu lập pháp đồ sộ trong
một thập kỷ qua, bởi Chính phủ có nhu cầu cần pháp luật
để thể hiện các chính sách điều hành quốc gia. Chính phủ
đã trở nên mạnh mẽ, có trong tay nhiều quyền lực điều
hành quốc gia, tất cả các quyền lực ấy đều được hợp
pháp hóa bằng pháp luật. Đó là một mặt của tấm huy
chương. Song nếu không có sự gia tăng quyền lực một cách
hợp lý cho cơ quan dân cử và tòa án, sẽ không có lực lượng
nào đủ sức mạnh để giám sát và ép buộc được trách
nhiệm giải trình của Chính phủ. Sự thiếu vắng của trách
nhiệm giải trình là một trong những điểm yếu rõ rệt cho
thấy một hệ thống pháp luật ngày càng dày đặc tuy là cần,
song chưa hẳn đã đủ để tiến tới một chế độ thượng
tôn pháp luật.

Vì lẽ đó, một thập kỷ tới phải là san sẻ và phân bổ
quyền lực nhằm xác lập trách nhiệm giải trình của Chính
phủ. Không chỉ là công cụ quản lý quốc gia trong tay Chính
phủ, pháp luật phải trở thành công cụ trong tay người dân
để giám sát, ép buộc Chính phủ phải làm việc minh bạch
hơn, hiệu quả hơn. Vì lẽ ấy, kiểm soát Nhà nước, nâng cao
trách nhiệm giải trình của các thiết chế quản trị quốc
gia, đặc biệt là của Chính phủ và nền hành pháp, có thể
nên là một chủ đề cần nhấn mạnh gắn liền với xây dựng
hệ thống pháp luật ở Việt Nam trong thập kỷ tiếp theo.
________________________

[1] Milton Friedman (2002), in Economic Freedom of the World: 2002 Annual
Report, pp xvii-xxi

[2] Max Weber, Die protestantische Ethik und der Geist des Kapitalismus-
Đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (1920,
NXB Tri Thức 2008)

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9504), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét