Anatoly Tille - Liên Xô - Nhà nước phong kiến trá hình (Kì 2)

<h2>Chương 2. Luật học </h2>

Phân tích một cách cụ thể khoa học "xã hội chủ nghĩa"
về nhà nước và pháp luật, trong đó khoa học đóng vai trò
chủ đạo trong một cuốn sách giành cho đông đảo độc giả
là một việc làm không cần thiết, hơn nữa đối với việc
ban hành luật và thực tiễn pháp lí, nó cũng không có vai trò
đáng kể gì.

Thế thì tại sao lại phải nói về nó? Có hai lí do: thứ
nhất, trong điều kiện hiện nay, luật pháp của tất cả các
nước đều bị chính trị hóa, sự kiện này ai cũng rõ từ
lâu; trong các nước "xã hội chủ nghĩa", hệ tư tưởng
mác-xít lê-nin-nit lại là cơ sở nhận thức pháp lí của các
luật sư [1]. Thứ hai, kiến thức pháp luật là một phần không
thể thiếu trong công tác tuyên truyền một cách có hệ thống
và có định hướng của Đảng, có ảnh hưởng đến nhận
thức pháp lí của nhân dân, của chính các nhà lãnh đạo, các
viên chức Đảng, nhà nước và của cả bộ máy tư pháp nữa.

Đặc điểm chủ yếu của nền luật học "xã hội chủ
nghĩa" là tính vô nguyên tắc. Điều này xuất phát từ nguyên
tắc "tính Đảng của khoa học", một nguyên tắc được
tuyên truyền và bảo vệ mọi lúc mọi nơi, nghĩa là người ta
phải tuân theo "đường lối của Đảng" dù nó có biến hóa
thế nào cũng mặc.

Vì vậy mà tất cả các nhà khoa học, không trừ một ai, đều
phải thay đổi quan điểm của mình mỗi khi có lệnh, nếu họ
còn muốn giữ ghế trong khoa học. Sự thay đổi một cách đột
ngột "đức tin" đã thành hiện tượng thường nhật đến
nỗi không ai ngạc nhiên, cũng không ai phản đối nữa. Người
không phải là bò, người có thể thay đổi quan điểm. Nhưng
nếu ngày hôm qua một nhà khoa học còn đang tận tuỵ "phân
tích những đặc thù của chủ nghĩa xã hội phát triển" mà
hôm nay có lệnh từ Ban chấp hành trung ương: "Để chủ nghĩa
xã hội phát triển lại!", phải phê bình "luận điểm"
này một cách quyết liệt nhất, thì đấy rõ ràng là bồi bút
rồi.

Ở nước ta chân lí không sinh ra từ các cuộc tranh luận vì
"đường lối của Đảng" là bất khả tư nghị. Sau khi
được sự ủng hộ của Ban Chấp hành Trung ương, một kẻ
xảo trá là Lysenko không cần tranh luận với nhà bác học thiên
tài Vavilov và các nhà di truyền học khác. Hắn đã dùng KGB đè
bẹp họ về mặt tinh thần rồi thủ tiêu về mặt thể xác là
xong.

Đấy là các môn khoa học tự nhiên, nơi dường như kết quả
các cuộc thí nghiệm tự nó đã có thể chứng minh đâu là
chân lí, còn các gien di truyền thì nhìn thấy được dưới
kính hiển vi… Nhưng nếu Ban chấp hành trung ương bảo rằng di
truyền học và điều khiển học là khoa học tư sản thì không
ai còn được có ý kiến gì nữa. Nói gì đến triết học, kinh
tế học và luật học?

Trong tất cả các tác phẩm người ta đều nhấn mạnh nguyên
tắc Đảng là nguyên tắc chủ yếu của nền khoa học của
chúng ta. "Đây là nguyên tắc chung (!) của nền luật học
mác-xít lê-nin-nit, là phẩm chất không thể tách rời của nó
[2]". Nguyên tắc Đảng đòi hỏi người ta phải ủng hộ vô
điều kiện kiện ý chí đã trở thành luật pháp của Đảng,
dù trên thực tế nó có là phản dân cũng mặc. Chưa bao giờ
các luật sư Liên Xô lại ca ngợi tính pháp lí xã hội chủ
nghĩa và nền dân chủ "đã đâm hoa kết trái dưới ánh sáng
của hiến pháp Stalin" như trong các năm 1937-1938, khi mà chỉ
ở Moskva đã có 800 người bị bắn mỗi ngày (tư liệu của
nhà báo A. Miltrakov).

Lòng trung thành, khi đã được đưa đến mức cuồng tín, thì
dù có phi đạo đức vẫn có thể được thông cảm. Nhưng
đằng này lại là "đường lối của Đảng", giống như
mọi đường lối, nó luôn luôn thay đổi mà lại thay đổi
một cách bất ngờ nhất, đôi khi theo hướng hoàn toàn ngược
lại (thí dụ chuyển từ "chủ nghĩa cộng sản thời chiến"
sang "chính sách kinh tế mới"; hay trong giai đoạn "đổi
mới": chuyển từ việc hợp nhất tất cả các hình thức sở
hữu xã hội chủ nghĩa thành hình thức duy nhất, hình thức
sở hữu toàn dân thành "phi nhà nước hóa", thành tư hữu).
Có một câu chuyện tiếu lâm: anh ta là một người cộng sản
kiên định, nếu có dao động thì cũng dao động cùng với
đường lối của Đảng!

Sự bốc thơm luật pháp và chính sách pháp luật hiện hành đã
vượt mọi biên giới của sự xấu hổ. Luật pháp Liên Xô là
"hiện thân của lí tưởng và quan niệm của nhân dân lao
động về tính pháp lí, sự công bằng và nhân đạo [3]", các
luật sư nổi tiếng đã viết trong một công trình tập thể
như vậy đấy. Đấy là trong một đất nước, nơi hàng triệu
người đã chết đằng sau dây kẽm gai trại cải tạo, nơi
người ta cố tình gây ra nạn đói làm chết hàng triệu
người, còn những người nông dân đói khát thì bị bắn chỉ
vì đã mót những bông lúa còn sót lại sau vụ thu hoạch
(đằng nào cũng cày lấp đi) theo luật ban hành ngày 7 tháng 8
năm 1932 (gọi là luật 7/8 - ND). Nơi một số dân tộc (người
Tatar ở Krưm, người Đức sống ở vùng Volga, người Thổ Nhĩ
Kì, người Meskhetin v.v.) bị coi là tội phạm và bị trừng
phạt theo luật hình sự và lưu đầy, hiện nay họ vẫn chưa
được khôi phục đầy đủ mọi quyền lợi, chưa được đền
bù về tài sản và những đau khổ mà họ đã phải chịu
đựng? Nơi bính lính dùng xẻng phạt ngang người các thiếu
nữ trẻ (Tbilisi, 1989), bắn vào dân chúng tay không một tấc
sắt (Bacu - 1990, Vinhius, Riga – 1991)? Không có một luật sư
"nổi tiếng" nào và chưa bao giờ họ đứng lên phản đối
những vụ vi phạm quyền con người hay tham gia vào phong trào
bảo vệ quyền con người. V. Kudriadsev, người đứng đầu
ngành luật học hiện nay, cũng như người tiền nhiệm của ông
ta và Trkhikvadze, trưởng ban quyền con người thuộc trường
đại học luật, cũng như Alekseev S., chủ tịch ủy ban giám sát
hiến pháp chưa lần nào phát biểu bảo vệ người đồng liêu
trong Viện hàn lâm khoa học là viện sĩ A. Sakharov, cũng như
chưa từng đứng lên phản đối những vụ giết người hàng
loạt nói trên. Họ luôn đứng ở hàng đầu, cả dưới thời
Stalin, cũng như thời Khrushchev và Brezhnev, bây giờ họ vẫn
bảo vệ được những chiếc ghế của mình. Họ là những
người đầu tiên lên tiếng tụng ca đường lối mới và lên
án những vi phạm trong giai đoạn trước đó. Chính họ lại là
những người đại diện cho nền khoa học Liên Xô trong các
hội nghị quốc tế, báo chí phương Tây sẵn sàng dành chỗ
để cho họ đưa ra các thông tin giả mạo.

V. Trkhivadze đã công bố tại Cộng hòa liên bang Đức một bài
báo về bước ngoặt theo hướng sự thật của khoa luật học
Liên Xô [4]. Tất nhiên là sau 70 năm dối trá thì một bước
ngoặt có thể gọi là "kịp thời" nếu thực sự có một
bước ngoặt như thế [5]. Đơn giản là đường lối đã thay
đổi và các luật sư cũng quay theo hướng đã định, họ sám
hối vì những điều dối trá cũ và tiếp tục sáng tác ra
những điều dối trá mới.

Đương nhiên sẽ xuất hiện câu hỏi, ai đã cản trở toàn bộ
ngành khoa học và chính tác giả bài báo thực hiện "bước
ngoặt" một cách sớm hơn? Câu trả lời của ông ta là: A.
Vyshinsky [6]! Dù đã quá quen với sự trắng trợn vô liêm xỉ
của các luật sư của chúng ta, tôi cũng không kiềm chế
được thái độ khinh bỉ khi đọc bài báo đó vì tác giả
của nó đã có hành động giống hệt như một con lừa đang
đá vào một con sư tử đã chết, tội lỗi của mình lại đổ
cho A. Vyshinsky! Không có điều kiện phân tích toàn bộ bài báo,
chỉ xin dẫn một thí dụ: Trkhivadze tố cáo Vyshinsky trong việc
đàn áp các nhà khoa học, trong đó có G. Gurvich và A. Stalgevich.
Trên thực tế thì vào năm 1949, theo lệnh của Stalin người ta
đã tiến hành một chiến dịch bẩn thỉu nhằm đàn áp người
Do Thái trong tất cả các lĩnh vực khoa học và văn hóa, người
Do Thái bị đuổi khỏi các công sở và bị bắt giữ nhân danh
cuộc "đấu tranh với chủ nghĩa thế giới". Chính viên
đại tá dũng cảm của chúng ta nằm trong số các luật sư mở
màn chiến dịch, nổ súng vào "những người theo chủ nghĩa
thế giới" và đã gọi G. Gurvich, I. Levin, M. Strogovich và A.
Stalgevich là những kẻ phá hoại chủ chốt. Ban biên tập tờ
báo Osteuropa, nơi công bố những bài báo xuyên tạc của V.
Trkhivadze lại không cho tôi nói lên sự thật về vấn đề này.

Nền luật học Xô Viết luôn luôn bám sát "đường lối của
Đảng" và lấy làm tự hào về điều đó. Về mặt này thì
không có bước ngoặt nào trong giai đoạn "cải tổ" cả,
đơn giản là "đường lối của Đảng" đã rẽ sang hướng
khác. Trong giai đoạn "cải tổ" nguyên tắc bốc thơm sự anh
minh của Đảng vẫn được tuân thủ một cách tuyệt đối.

Ngày 8 tháng 4 năm 1989 (một ngày trước khi xảy ra sự kiện
"ngày chủ nhật đẫm máu" ở Tbilisi) M. Gorbachev kí một
nghị định phản động về việc sửa đổi luật về tội
phạm quốc gia. Điều 111 của nghị định này: "Lăng mạ và
làm mất uy tín của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã
hội" kinh tởm đến mức sau đó đã xảy ra một chuyện vô
tiền khoáng hậu: "đa số dễ bảo" của Xô viết Tối cao
Liên Xô đã không thông qua nghị định. Thế mà ngay sau khi công
bố, hai giáo sư đã lập tức đồng thanh ca ngợi nghị định.
Mặc dù có ghi nhận một vài thiếu sót, mà theo họ là có thể
khắc phục được sau khi có hướng dẫn, nhưng nói chung,
tướng N. Dagorodnikov (luật hình sự) coi nghị định là "tiến
bộ", còn tướng N. Strutrkov (luật trại cải tạo) thì khẳng
định một cách không xấu hổ rằng mục đích của nghị
định là "bảo đảm về mặt luật pháp quá trình dân chủ
hóa và công khai hóa [7]"!

Một thí dụ nữa về tính vô nguyên tắc trong thời gian gần
đây, đấy là thái độ đối với "nhà nước pháp quyền".
Cái học thuyết tư sản này đã bị các học giả của chúng ta
nguyền rủa bằng đủ thứ từ ngữ vì theo lời họ thì bọn
phát xít rất thích lí thuyết này [8]. Nhưng năm 1988, có lệnh
từ Ban chấp hành trung ương và ông S. Alekseev, người vừa
được nói đến ở trên, đã vội reo lên với lòng nhiệt tình
vốn có và nhấn mạnh bằng những chữ to đùng rằng "việc
Đảng Cộng sản Liên Xô thi hành đường lối thiết lập nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là THỜI CƠ VÀNG CỦA
LUẬT PHÁP [9]!". Không ở đâu và không có ai nhắc lại rằng
trước đó ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã bị chửi
bới một cách không thương tiếc, còn hôm nay thì phê bình nó
là việc bất khả thi. Vấn đề lương tâm (không phải là khái
niệm pháp lí) chưa bao giờ được các luật sư của chúng ta
thảo luận.

Chuyện gì đã xảy ra sau khi Đảng Cộng sản Liên Xô giải
thể? Không có gì hết. Vấn đề là các "chỉ thị" từ nay
sẽ xuất phát từ một hệ thống khác. Đơn giản là Văn phòng
Tổng thống trong các phòng làm việc cũ, tòa nhà cũ, trên
Quảng trường Cũ đã thế chỗ Ban chấp hành trung ương Đảng.

Từ hàng thế kỉ nay khoa học được xây dựng trên cơ sở
nghiên cứu các sự kiện và các nhà khoa học rút ra kết luận.
Nước ta thì khác: khởi thủy là "một kết luận về mặt lí
thuyết", sau đó mới thu thập sự kiện, mà không phải lúc
nào cũng thế. Hiện nay toàn thế giới phải bàng hoàng về
mức sống của những người lao động Liên Xô. Ban lãnh đạo
của cái đất nước vĩ đại này phải xin viện trợ lương
thực khẩn cấp của ngay cả nước Luxemburg, một nước chỉ
nhỏ bằng một phần mười tám tỉnh Moskva, thế mà trong danh
mục thư viện mang tên Lenin tôi tìm thấy gần 200 luận án về
"nâng cao một cách liên tục mức sống của nhân dân Liên
Xô". Sách và báo thì không thể nào đếm hết được. Một
người tên là S. Rotan đã dùng đề tài "Công bằng xã hội
và luật lao động Liên Xô" để làm luận án tiến sĩ, trong
đó anh ta chứng minh luận điểm của F. Engels rằng trong chủ
nghĩa tư bản diễn ra quá trình phân hóa giai cấp còn trong chủ
nghĩa xã hội thì sẽ có công bằng xã hội. Lúc đó, nhờ
"công khai" mà báo chí đầy các bài, một mặt, viết về
các giai tầng đang hình thành, về các triệu phú, các băng
đảng, và mặt khác là sự khốn cùng của nhân dân. Tôi đã
hỏi tác giả luận án rằng anh ta đã nghiên cứu những gì
để rút ra kết luận như thế? Không trả lời được. Tôi đã
nhấn mạnh rằng nghiên cứu sinh đã không đưa được một sự
kiện nào để chứng minh luận điểm của mình. Không một sự
kiện nào hết! Nhưng những người phản biện là Lifsis,
Kondratiev, Nikitinsky, như vốn phải thế, đã nhiệt liệt ca
ngợi bản luận án và Hội đồng khoa học của Viện luật
pháp Liên Xô đã nhất trí phong học vị tiến sĩ luật học cho
tác giả luận án! Làm sao khác được? Ai cho phép anh ta bác bỏ
Engels?

Vì các nhà khoa học phải tuân theo các chỉ thị của Đảng,
bất kể việc nó có phù hợp với thực tiễn hay không, cho nên
dối trá đã trở thành nguyên tăc căn bản của khoa học. Nếu
lí thuyết mác-xít khẳng định rằng trong chủ nghĩa tư bản
diễn ra quá trình bần cùng hóa người lao động và tội ác
phát triển thì dù sự kiện có như thế nào đi nữa, các nhà
khoa học Liên Xô vẫn phải chứng minh như thế, tất cả những
điều khẳng định của họ, dù có dựa vào các sự kiện và
đứng vững "trên nền sự kiện" thì vẫn chỉ là những
câu chữ mang tính quảng cáo và mị dân.

Trên thực tế họ đã tiến hành việc chọn lọc các sự kiện
và rút ra các kết luận dối trá, mâu thuẫn với thực tiễn.
Nếu như thế vẫn chưa đủ thì họ sẽ bóp méo và xuyên tạc
các sự kiện, sẽ đưa ra đủ điều bịa đặt dưới dạng
sự kiện, thí dụ điều bịa đặt là ở "Liên Xô dân chủ
đang giữ thế thượng phong" [10].

Xin xem xét ngành tội phạm học, một ngành vừa kỉ niệm 30
năm ngày thành lập (1989). Trước năm 1989 số liệu về tội
phạm là thuộc loại tuyệt mật. Khoa học nào có thể tồn
tại nếu không có dữ kiện? Mà cần gì phải có dữ kiện
nếu khoa học của chúng ta dựa trên chủ nghĩa không tưởng
của Marx và Engels, theo đó, tội ác sinh ra trong lòng chủ nghĩa
tư bản còn trong chủ nghĩa xã hội thì nó sẽ biến mất? Tất
cả các "nhà tội phạm học" đã "chứng minh" được như
thế.

Chuyên nghiên cứu về tội phạm, dù không có số liệu thống
kê, họ không thể không biết điều mà ai cũng biết: tội ác
đang gia tăng. Nhưng để phục vụ "lí thuyết" họ đã đánh
tráo số liệu và vì vậy mà đã nói dối một cách ngang nhiên.
V. Kudriadsev, người đứng đầu ngành luật học Liên Xô, tại
Hội nghị VI về tội phạm học của Liên Hiệp Quốc đã
thuyết phục cộng đồng thế giới rằng: 1. tội phạm ở Liên
Xô đang giảm dần; 2. nguy cơ xã hội cho việc nảy sinh tội ác
đang giảm dần; 3. không còn tội phạm có tổ chức [11]. Ông ta
đã nói dối những ba lần, hoàn toàn ngược lại! Xin nhắc
lại, ông ta không lầm, ông ta cố tình nói dối!

Chính vì sự dối trá đó, chính vì màn khói thả ra xung quang
bè lũ mafia cảnh sát đó, mà vào năm 1985 một nhóm các "nhà
tội phạm học" đứng đầu là V. Kudriadsev đã được Huân
chương quốc gia đấy!

Năm 1986 Tòa án tối cao Liên Xô đã công nhận (không có số
liệu!) rằng tội phạm ở nước ta gia tăng "một cách đáng
lo ngại", nhưng trong cuốn sách giáo khoa dành cho các trường
luật học xuất bản năm 1988, do các giáo sư B. Korbeinikov, N.
Kuznesova và G. Minkovsky chủ biên, người ta vẫn khẳng định,
hệt như ba mươi năm trước rằng tội phạm ở Liên Xô là
"tàn dư của quá khứ" và "thuộc vào những hiện tượng
đang chết dần; nguyên nhân của nó đang bị loại bỏ một
cách không thể đảo ngược được [12]".

Các nhà bác học cũng có thể lầm, ngoài ra không phải ai cũng
làm được như G. Bruno, nghĩa là lên giàn hỏa thiêu vì tư
tưởng của mình (nhà bác học vĩ đại Galilei đã từ bỏ học
thuyết của mình khi trực diện với tòa án giáo hội), nhưng
các "nhà tội phạm học" Liên Xô đã biến việc dối trá
hiển nhiên thành một nghề. Để độc giả không nghĩ rằng
những điều dẫn ra bên trên chỉ là vụ báo thù của một
người cạnh tranh tấm huân chương, xin dẫn ra ở đây lời sám
hối của một trong những người đồng nhận giải: "Xa rời
sự thật, che dấu và xuyên tạc đã xảy ra trong cuộc đấu
tranh chống lại tội ác, mà không chỉ diễn ra trong hoạt
động thực tiễn, nó diễn ra cả trong lí thuyết, trong ngành
tội phạm học nữa. Không có gì là thật (!), cả trong việc
đánh giá cũng như giải thích nguyên nhân của tội ác [13] ".
Hoàn toàn đúng, chỉ có điều "người sám hối" không viết
trước tên mình "Người được huân chương quốc gia" mà
thôi.

Để làm hài lòng Đảng, người ta đã chế ra những huyền
thoại chẳng ăn nhập gì thực tế, nào là mức sống của nhân
dân Liên Xô ngày càng được cải thiện, nào là tính ưu việt
của chủ nghĩa xã hội, nào là không còn người bóc lột
người, không còn thất nghiệp, pháp luật được tôn trọng,
chính quyền do dân làm chủ v.v. và v.v… Những huyền thoại
đó đã sụp đổ chưa? Đa số được lặp lại theo một công
thức khác: "Vâng, đã có sai lầm, đã xa rời sự thật, nhưng
hiện nay… hiện nay chúng ta đã cải tổ rồi".

Nói về cơ sở lí luận của pháp luật Liên Xô thì cần và
chỉ cần xét câu hỏi quan trọng nhất, đấy là khái niệm
luật pháp.

Không đi sâu vào các phương án dài dòng, tất cả các định
nghĩa về luật pháp có thể rút lại thành hai: 1. luật pháp là
ý chí của giai cấp thống trị về kinh tế [14]; 2. luật pháp
là tập hợp tất cả các qui phạm do nhà nước áp đặt và
thể hiện ý chí của giai cấp thống trị về kinh tế [15].

"Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin" không quan tâm nhiều
đến vấn đề luật pháp, một vài nhận xét về vấn đề này
sau đó được phân tích một cách cực kì cẩn thận và tán
rộng mãi ra. Định nghĩa đầu tiên được rút ra từ "Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản" do K. Marx và F. Engels viết. Đấy
không phải là định nghĩa, các tác giả chỉ lên án giai cấp
tư sản đã biến ý chí của mình thành luật pháp mà thôi. Từ
đó những người mác-xít liền rút ra kết luận rằng tất cả
luật pháp đều là ý chí của giai cấp thống trị.

Định nghĩa thứ hai là của A. Vyshinsky (ông ta từ chối tác
quyền), định nghĩa này đã ngự trị trong khoa học trong thời
gian mà chính Vyshinsky còn cầm đầu ngành này [16].

Sự khác nhau của các định nghĩa chỉ là sự nhấn mạnh: cái
thứ nhất nhấn mạnh ý chí, cái thứ hai nhấn mạnh qui phạm
[17]. Không thể nói rằng cách nhấn mạnh không có ý nghĩa:
định nghĩa thứ nhất coi trọng trước hết ý chí của giai
cấp thống trị, định nghĩa thứ hai nhấn mạnh rằng pháp
luật là hình thức thể hiện ý chí, nhưng trong bất kì
trường hợp nào luật pháp xã hội chủ nghĩa cũng "luôn luôn
thể hiện quyền lợi của nhân dân lao động và ý chí của
nhà nước, người đại diện cho những quyền lợi đó [18]".

Nhưng nhân dân lao động, kể cả các đảng viên may lắm thì
biết được từ 5 đến 10% các tài liệu pháp qui là cùng (chưa
nói đến các chỉ thị mật). Thế thì ai đưa ra "ý chí của
Đảng"? Chúng ta đã thấy Ban chấp hành trung ương (là nói
các ủy viên chứ không phải bộ máy) không làm việc đó. Còn
lại Bộ chính trị. Từ đây có thể thấy rằng ý chí của
Đảng và của nhân dân có thể chỉ do một người nói ra mà
thôi, người ấy chính là lãnh tụ. Dưới thời Stalin đã thế,
thời Khrushchev, rồi đến Brezhnev cũng là như thế.

Nếu chúng ta giả định rằng lãnh tụ có thể thể hiện
được ý chí của nhân dân lao động thì hóa ra đạo luật
ngày 7 tháng 8 năm 1932, những người mót lúa, mót khoai bị bắn
theo đạo luật này; biên bản năm 1934 về việc trấn áp
"bọn khủng bố" mà không cần đưa ra xét xử; chỉ thị
ngày 26 tháng 6 năm 1940 về trách nhiệm hình sự nếu không có
mặt tại vị trí làm việc trong vòng 20 phút và những đạo
luật khắc nghiệt khác đều được ban hành theo ý chí và vì
quyền lợi của nhân dân cả.

Nhiều thế hệ các cán bộ Đảng, cán bộ nhà nước, các
luật sư và dĩ nhiên là toàn thể nhân dân đã được giáo
dục trên tinh thần như thế đấy.

Vì vậy, nếu pháp luật cấm sử dụng lao động trẻ em, nhưng
"anh hai" ở Uzbekistan hay Mondavia (dĩ nhiên là đã thỏa thuận
với tỉnh ủy và trung ương rồi) cho rằng điều kiện kinh tế
đòi hỏi các cháu tham gia vào việc thu hoạch bông hay thuốc lá
thì ông ta sẽ ra chỉ thị và theo ý chí của ông ta, các cháu
bé sẽ phải làm việc từ sáng đến tối dưới cái nắng chói
chang, trên những cánh đồng đầy thuốc trừ sâu và sau đó
thì nằm ngủ ngay trên mặt đất, trong những cái lều dành cho
cừu. Ai dám chống lại "ý chí của Đảng"? Ông viện
trưởng viện kiểm sát, cũng là một Đảng ủy viên ư? Thật
khó có thể coi đấy là đề nghị nghiêm túc. Các cháu bé ư?
Các cháu còn yếu đuối lắm. Cha mẹ các cháu ư? Họ cũng sợ
hãi và vô quyền như con em mình mà thôi.

Còn vấn đề xây dựng "nhà nước pháp quyền", vấn đề
"thời cơ vàng" của nó thì sao? Câu trả lời rất đơn
giản: chính cách đặt vấn đề về việc xây dựng "nhà
nước pháp quyền" đã chứng tỏ rằng nước ta chưa có nhà
nước pháp quyền, còn thời hạn xây dựng nó thì chưa được
xác định, dù chỉ là một cách tương đối.

Dù sao mặc lòng, tôi hi vọng rằng độc giả đã hiểu vì sao
chúng ta phải xem xét tình hình ngành luật học Liên Xô. Trong
đó có cả vấn đề như là khái niệm luật pháp vì nó phản
ánh lên thực tế cuộc sống. Nói đến quan hệ của giai cấp
thống trị đối với luật pháp và tinh thần thượng tôn pháp
luật là điều phi lí: một mặt đấy là sự miệt thị và
khinh thường pháp luật, coi thường cả các nguyên tắc pháp lí
và tinh thần thượng tôn pháp luật lẫn các điều luật cụ
thể, thứ hai, đấy là sự tin tưởng mù quáng vào sức mạnh
toàn năng của luật pháp. Mâu thuẫn này có vẻ như đã tự
loại trừ nhau, nhưng nó lại là mâu thuẫn xuyên suốt lịch
sử Liên Xô, kể từ các "sắc lệnh Tháng Mười", "tình
trạng khẩn cấp" cho đến quá trình "cải tổ" rất
được lòng những người có tư tưởng tự do ở phương Tây
hiện nay.

Với ý định "cải tạo chủ nghĩa xã hội", Gorbachev đã
thực hiện những hoạt động lập pháp, phải nói là sôi
động, nhưng nói chung vô ích, thậm chí có hại. Một trong
những biểu hiện của sự thiếu hiểu biết là "luật chống
uống rượu" với những biện pháp cấm đoán nghiêm ngặt và
tăng giá đột xuất các loại nước uống có cồn. Trước khi
Gorbachev chấp chính tình hình tiêu thụ rượu đã ở mức báo
động. Cảnh nghiện ngập xảy ra không chỉ trên đường phố,
trong gia đình mà còn ngay tại nơi làm việc. Gorbachev tin rằng
chỉ cần đưa ra luật lệ là vấn đề nghiện rượu sẽ
được giải quyết. Kết quả: kinh tế và tài chính rơi vào
khủng hoảng vì 1/5 ngân sách là từ rượu, việc nấu rượu
lậu và đầu cơ rượu, nạn sử dụng ma túy và các chất gây
nghiện khác gia tăng, thậm chí lan sang cả trẻ em và cuối cùng
là nạn nghiện rượu càng tăng thêm!

Mặt khác, thí dụ, điều 30 luật liên bang, Bộ luật chủ yếu
về lao động viết: "Cấm làm việc trong ngày nghỉ". Nhưng
ai để ý đến bộ luật liên bang này?

Trong số rất nhiều luật lệ được ban hành theo sáng kiến
của Gorbachev thì luật về xí nghiệp quốc doanh (liên hiệp xí
nghiệp) và luật về hợp tác xã là những bộ luật chủ yếu
để thực hiện công cuộc "cải cách kinh tế" do ông ta
khởi xướng. Chất lượng các bộ luật này thấp đến nỗi
không đáng phê bình vì cả hai bộ luật đều không phải là
các văn bản pháp qui mà chỉ là các tuyên bố chung chung. Tư
tưởng chủ yếu của đạo luật thứ nhất là sự tự chủ
của các xí nghiệp, nhưng sự phụ thuộc của chúng vào các
bộ chủ quản thì vẫn được giữ nguyên. Tư tưởng chủ yếu
của đạo luật thứ hai là sự phát triển tự do của các hợp
tác xã, nhưng lại không có sự bảo đảm nào cho cả hợp tác
xã lẫn người tiêu dùng. Kết quả: luật về xí nghiệp
"không hoạt động"; còn hợp tác xã cũng không hình thành
được vì đã bị bộ máy bóp chết từ trong trứng nước,
nhưng cái bộ máy này lại không quên nhận tiền hối lộ khi
cho đăng kí hoặc cấp cho trụ sở và các "dịch vụ" khác;
điều này đã được người ta nói tới ngay trên diễn đàn
của Xô viết Tối cao Liên Xô. Sau đó Tổng thống lại ra nghị
định cho phép công an và KGB tiến hành kiểm tra và khám xét
các hợp tác xã mà không cần Viện kiểm sát phê chuẩn.
Người ta không nhận thấy một tí dấu vết nào của kiến
thức về pháp luật của Gorbachev trên các đạo luật này.

Khoa học xã hội chủ nghĩa cho rằng pháp luật thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị, do "Đảng" xác lập, còn
"Đảng" lại cho rằng có thể giải quyết mọi vấn đề
của xã hội bằng cách ban hành các đạo luât. Hiện tượng
này được nhà văn A. Zinoviev mô tả một cách tuyệt vời như
sau: "Một khi quyết định đã được thông qua thì đối với
lãnh đạo vấn đề đã được giải quyết. Họ coi việc thông
qua quyết định về việc giải quyết vấn đề là sự giải
quyết của chính vấn đề".

Luật pháp chỉ là một phương tiện (chưa phải là chủ yếu)
để thực thi đường lối của "Đảng" và không phải là
hình thức thể hiện ý chí duy nhất của nó (thế mới có
chuyện bóc lột một cách phi nhân trẻ em trên những cánh
đồng trồng bông). "Đảng" coi tất cả mọi yêu cầu của
mình, dưới bất kì hình thức nào, đều là bắt buộc đối
với mọi thần dân, nhưng lại không bắt buộc đối với
Đảng. Lenin đã nói rất đúng rằng chuyên chính vô sản là
quyền lực không bị giới hạn bởi bất kì đạo luật nào.

Vì vậy đối với tất cả các cấp chính quyền (ngay cả ủy
ban hành chính xã hay đúng ra phải nói nhất là đối với các
ủy ban hành chính xã) tuân thủ luật pháp không phải là điều
bắt buộc. Hiến pháp hay chỉ thị của "anh hai", cái nào cao
hơn không bao giờ được đặt ra đối với ông chủ tịch ủy
ban xã. Chúng ta thường nghe các cấp lãnh đạo nói: "chúng ta
không được câu nệ", "không được bám vào lời văn của
luật pháp", "đây là trường hợp ngoại lệ"… Nhưng nếu
ở một cấp nào đó luật pháp không phải là bắt buộc thì
nó sẽ trở thành không bắt buộc ở khắp mọi cấp và đối
với mọi người, thế là xuất hiện tình trạng vô luật pháp
khắp mọi nơi, và chính nó đã bóp chết nền kinh tế Liên Xô.
"Kế hoạch là luật", các nhà lãnh đạo Đảng nói như thế
trên các diễn đàn đại hội, nhưng không một xí nghiệp,
không một nông trang nào thực hiện được kế hoạch, cả về
số lượng lẫn chất lượng. Những tiếng gào thét và kêu
gọi lập lại trật tự và kỉ cương cứ ngày một yếu dần.

Chỉ còn hi vọng vào dùi cui và súng máy. Nhưng nếu có thể
dùng những thứ đó để khôi phục trật tự trên đường phố
thì lại không thể dùng chúng để lập kỉ cương trong sản
xuất.

(Còn 10 kì nữa)

[1] J. L. Konstantinenko đã viết về chuyện này. Ông cũng ghi
nhận rằng các luật sư "xã hội chủ nghĩa" sử dụng
phương pháp so sánh như là vũ khí trong cuộc đấu tranh tư
tưởng và họ coi nhiệm vụ của mình là chứng minh tính tưu
việt của nhà nước và pháp quyền xã hội chủ nghĩa".
J.-L.Konstantinesco. Traite de Droit Compare, t.2, Paris, 1974, p. 30-34.

[2] "Học thuyết Mác-Lenin về nhà nước và pháp luật, tập 4,
Pháp luật xã hội chủ nghĩa" M., 1973, trang 9. Đây là tác
phẩm tập thể về nhà nước và pháp luật lớn nhất trong
lịch sử Liên Xô, nó giữ vị trí đặc biệt vì là ý kiến
của các "lí thuyết gia" nổi tiếng nhất và có bằng cấp
cao nhất. Nhiều trích dẫn sẽ được lấy từ tác phẩm này,
nhưng vì tên của nó quá dài nên sau này sẽ viết tắt là
MLVNNPL.

[3] MLVNNPL. tập 4, М., 1973. trang 9

[4] V. Cchikvadze, Der Umbruch und die Entwicklung der sowietischen
Rechtswissenschafl Osteuropas: Recht, 1990.H.2.

[5] S Alekseev ghi nhận những khuyết tật sau đây của nền luật
học Liên Xô: a/ đánh mất vị trí của một nền khoa học chân
chính; b/ biện hộ cho nhà nước Xô viết và pháp lí Xô viết;
c/ giáo điều; d/ nền đạo đức không thuận lợi (Pháp luật
Liên Xô, 1989, số 5, trang 76). Và sám hối: "... những đánh giá
mang tính tiêu cực như thế này liên quan một cách vô điều
kiện đến tất cả những gì mà tác giả những dòng này đã
viết". Nói phải củ cải cũng nghe.

[6] V. Cchikvadze. Der schädliche Elnfluss von A. Vyshinskji in der
sowietischen Rechtswissenchaft Osteuropas: Recht, 1989, H.2.

[7] Báo Tin tức, ngày 15 tháng 4 1989

[8] Lí thuyết vê nhà nước pháp quyền "không có giá trị về
mặt lí luận, không thực hiện được trên thực tế… chỉ
có giá trị tuyên truyền. Các xu hướng quân phiệt và phục
thù, khôi phục lại lực lượng phát xít - đấy chính là sự
thật nấp sau khái niệm "nhà nước pháp quyền". MLVNNPL,
tập 1, M., năm 1971, trang. 9.

"Khái niệm nhà nước pháp quyền phát xít là "một gói lựu
đạn" nhằm, một mặt, chống lại giai cấp công nhân Đức,
và mặt khác, chống lại phong trào công nhân thế giới và
đội tiên phong của nó là nhà nước Liên Xô. Khái niệm nhà
nước pháp quyền hiện đại cũng nhằm theo đuổi mục đích
đó". Phê bình lí luật pháp quyền tư sản hiện đại. M.,
1969, trang 266.

"Lí thuyết về nhà nước pháp quyền" chứa đầy tư tưởng
chống cộng, nhằm đối lập nhà nước xã hội chủ nghĩa như
là nhà nước "vô luật pháp" với nhà nước tư sản "pháp
quyền". Nó được sử dụng để bảo vệ chủ nghĩa thực
dân mới. Lí thuyết về nhà nước và pháp luật. Chủ biên S.
S. Alekseev, M., 1985, trang 457.

[9] S. Alekseev. Nhà nước pháp quyền - số phận của chủ nghĩa
xã hội. М., 1988, trang 72.

[10] Tôi đùa. Trích dẫn này lấy từ cuốn sách giáo khoa: Lí
thuyết về nhà nước và pháp luật thời chế độ khủng bố
của Stalin (М., 1949, trang 44), trong đó đã "vạch mặt" các
nhà khoa học phương Tây, các nhà khoa học "tư sản", "tay
sai của chủ nghĩa đế quốc". Tôi chỉ chuyển địa chỉ
thành các nhà khoa học Liên Xô mà thôi.

[11] V. Kudriavsev, Các xu hướng tội phạm và cuộc đấu tranh
với nó ở Liên Xô. М., 1988. trang 8

[12] Tội phạm học. М., 1988, trang 63-64

[13] Tư pháp Liên Xô, 1989, Số З. trang 9

[14] S. Alekseev, Lí thuyết chung về pháp luật, Т. 1., М., 1981,
trang 104

[15] MLVNNPL, tập 1, M., trang 348

[16] А. Vyshinsky. Marx và vấn đề nhà nước và pháp luật. М.,
1938, trang 36-37

[17] I. Sabo (Hungaria) phê phán khoa luật pháp Liên xô là qui phạm
hóa (I. Szabo. The Notion of Law. Acta juridica, tập 18 (3-4) 1976, trang
263-272. Không có cơ sở để đưa ra phê phán như thế vì nội
dung của các qui phạm được xác định bởi giai cấp thống
trị chứ không phải bởi tiêu chuẩn tối thượng.

[18] MLVNNPL, tập 4, M., trang 348

Nguồn: Nguyên bản tiếng Nga:
http://lit.lib.ru/t/tille_a/text_0010.shtml

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9584), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét