Anatoly Tille - Liên Xô - Nhà nước phong kiến trá hình (Kì 1)

<h2>Lời nói đầu cho lần xuất bản thứ hai </h2>

Phủ nhận những sự kiện "HIỂN NHIÊN" là một việc cực
kì khó. Càng khó phủ nhận các "HỌC GIẢ CÓ UY TÍN". Đã
hàng ngàn năm, có hàng triệu người nhìn thấy mặt trời mọc
và lặn, nghĩa là quay xung quanh trái đất. Hệ địa tâm của
Ptolemy-Aristotle là hiển nhiên và vì vậy mà trở thành bất di
bất dịch. Kopernik, nhà bác học thiên tài, phủ nhận hệ
thống đó nhưng sinh thời đã không cho công bố phát minh của
mình. Tác phẩm của ông bị nguyền rủa. Năm mươi năm sau ngày
ông mất, Giordano Bruno phải chết trên dàn hoả thiêu. Năm mươi
năm sau nữa, Galilei phải sám hối vì "sai lầm" trước toà
án giáo hội. Hàng nghìn nhà bác học, kể cả các nhà thiên
văn học, đã phủ nhận sự kiện trái đất quay quanh mặt
trời.

Toàn thế giới, hàng triệu người đã nhìn thấy người ta
"<em>xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô</em>". Ngay cả
những kẻ thù không đội trời chung với Liên Xô cũng đã
từng chiến đấu cho chủ nghĩa xã hội. Còn một số người,
thí dụ G. Orwell, nhìn thấy những khía cạnh ghê tởm của chế
độ đó thì lại cho rằng chủ nghĩa xã hội là một xã hội
ghê tởm. Chủ nghĩa xã hội hiện diện trên các băng rôn,
biểu ngữ, trong các nghị quyết đại hội Đảng [1], trong các
kế hoạch và trong lòng nhiệt tình của quần chúng trên các
công trường xây dựng vĩ đại, trong các trước tác của các
học giả, các nhà văn, các thước phim vân vân và vân vân.
Chưa nói đến các chuyên gia phương Tây.

Nhưng tại sao Liên Xô, dù đã có những hi sinh vô bờ bến,
vẫn không những không vượt được, mà đơn giản là còn
không đuổi kịp được các nước tư bản về năng suất lao
động, mặc dù theo Marx thì chủ nghĩa xã hội là hình thái xã
hội cao hơn? Câu trả lời có thể tìm được, vấn đề là
không ai hỏi cả! Mà câu trả lời chỉ đơn giản là: tại
nước Nga đã có một chế độ xã hội chủ nghĩa về hình
thức, phong kiến về nội dung. Đấy chính là nội dung của
cuốn sách này.

Hoá ra cuốn sách này bao quát toàn bộ lịch sử của nước Nga
Xô viết, nghĩa là từ năm 1917 cho đến khi nó cáo chung, dù khi
chắp bút tôi không nghĩ như thế (tôi không thế nào tưởng
tượng nổi sự tan rã của Liên Xô). Chưa hề có một cuốn
sách nào tương tự như thế về lịch sử nhà nước Xô viết
và hệ thống luật pháp của nó và tôi nghĩ còn lâu mới có
một cuốn như thế. Đã mười hai năm trôi qua kể từ lần
xuất bản đầu tiên cuốn sách của tôi nhưng vẫn chưa thấy
có vẻ gì là người ta có ý định thảo luận vấn đề cả.
Đơn giản là không ai.

Đúng hơn là tôi không viết cuốn sách mà là nghiên cứu chế
độ của nước Nga, như người ta nói lúc đó, một cách bí
mật, ngay cả với vợ mình (không phải là tôi không tin mà
không muốn làm vợ con lo lắng), dù không có một chút hi vọng
nào về việc xuất bản. Vì vậy mà tôi không lo kiểm duyệt,
kể cả sự tự kiểm duyệt nữa. Liệu tôi có thoả mãn
được trí tò mò của mình khi cố gắng tìm hiểu cái chế
độ điên rồ, trong đó mọi sự đều được đặt lộn
ngược từ chân lên đầu, cái chế độ mà phi lí là đặc
điểm chủ yếu?

Tất nhiên là sẽ có người viết những cuốn sách như thế,
nhưng đấy là những cuốn sách<em> post factum</em>, nghĩa là nhìn
từ tương lai về quá khứ. Còn tôi viết trong hiện tại, về
cái hiện tồn. Tôi viết trong vòng mấy năm, ngày nào tôi cũng
thu thập tài liệu, thu thập các văn bản pháp qui, các hoạt
động lập pháp và quan sát cách người ta áp dụng luật pháp
trong đời sống. Sau này làm sẽ khó hơn nhiều. Vì vậy cuốn
sách này vẫn là độc nhất vô nhị. Có thể nói một cách
chắc chắn rằng đây là cuốn tư liệu về thời đại. Vì
vậy tôi không sửa chữa, cũng không viết thêm, cũng không bình
luận về những sự thay đổi về sau. Cuốn sách này là tấm
bia tưởng niệm về lịch sử nước Nga. "Cải tổ" và
"công khai" đã tạo điều kiện cho việc xuất bản cuốn
sách vào năm 1992, dưới cái tên: "LUẬT PHÁP CỦA SỰ PHI LÍ.
Luật pháp phong kiến-xã hội chủ nghĩa" với số lượng in
rất ít, hiện nay không thể nào tìm được nữa (trong thư
viện mang tên Lenin và thư viện lịch sử thì có).

Các sự kiện về sau được trình bày trong cuốn sách của tôi:
Cuộc cách mạng tội ác vĩ đại ở nước Nga. Mafia nắm quyền
được xuất bản ở Mĩ năm 2003. Các nhà xuất bản ở Nga
"thời công khai hoá" không chịu in tác phẩm này.

Trong lần xuất bản thứ nhất tôi đã mắc sai lầm mà đa số
người đã từng mắc phải, đấy là đánh đồng tư tưởng
cộng sản với cái chế độ ăn thịt người tự gọi mình là
chế độ cộng sản. Nếu tất cả các tôn giáo đều hứa hẹn
thiên đường sau khi chết để đền bù cho những khổ đau trên
mặt đất thì tư tưởng cộng sản, một tư tưởng có trước
cả Thiên chúa giáo, chính là ước mơ xây dựng một xã hội
công bằng ngay trên thế gian này. Vì vậy tư tưởng cộng sản
là bất diệt, giống như tất cả các tôn giáo khác, ít nhất
nó cũng đáng được tôn trọng. Vì vậy lần xuất bản này
tôi đã loại bỏ chương viết về chủ nghĩa Marx. Tôi cũng
cắt giảm một ít và thay đổi bố cục so với lần xuất bản
thứ nhất. Điều chủ yếu là việc phân tích chế độ của
nhà nước Liên Xô và lịch sử từ năm 1917 đến năm 1990 là
không thay đổi.

Tôi đã nghiên cứu và mô tả cái chế độ đương thời với
mình. Nhưng về mặt nào đó cuốn sách đã trở thành tài liệu
về quá khứ. Tôi nói "mặt nào đó" như một lời cảnh báo
cho tương lai.


<h2>Phần I. Lời nói đầu </h2>

<h2>Chương 1. Nói về cuốn sách</h2>

"<em>… Nhận thức một cách khoa học về hệ thống của
chúng ta là bất khả. Mọi việc đều bị che dấu, bị xoá
nhoà. Và lạ lùng nhất là không ai cần hiểu cả. Nó đặc
biệt không cần thiết đối với giới phê bình của xã hội
chúng ta.</em>" - Zinoviev

Đây không phải là cuốn chính luận (như kiểu Cương lĩnh của
Đảng Cộng sản Liên Xô của Khrushchev [2] ) mà là một tài
liệu nghiên cứu khoa học, tuy nhiên tôi muốn rằng nó phải
dễ hiểu và hấp dẫn không chỉ đối với các nhà Luật
học-Xô viết học mà còn hấp dẫn đối với tất cả những
ai quan tâm đến các vấn đề của xã hội đương đại và các
xu hướng phát triển của nó.

Nhưng nếu tôi công nhận phát biểu của Zinoviev thì liệu tôi
có thể coi tác phẩm của mình là có tính khoa học được
không? Xin được giải thích: khoa học nghiên cứu các sự
kiện, nhưng trong hệ thống của chúng ta, tất cả các dữ
kiện liên quan đến đời sống xã hội đều hoặc là các tài
liệu mật hoặc là đã bị xuyên tạc đến mức khó mà rút ra
từ đó được các kết luận khả dĩ. Lấy thí dụ lĩnh vực
kinh tế: các số liệu do Tổng cục Thống kê công bố nói chung
đều là giả. Sau khi Stalin chết, người ta thông báo cho chúng
ta biết rằng tất cả các số liệu về thành tích trong nông
nghiệp đều là giả, sản lượng nông nghiệp chưa bao giờ
đạt được mức năm 1914. Như thế có nghĩa là các số liệu
được công bố sau này là đúng ư? Có mấy năm các số liệu
về nông nghiệp hoàn toàn không được công bố. Nhưng nếu ta
tìm được các số liệu đó thì sao? Vô ích, vì báo cáo láo
diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi cấp, từ nông trang đến
huyện rồi lên tỉnh. Lên nước cộng hoà và Tổng cục thống
kê [3] . Nhưng nếu giả sử ta có thể biết được số lượng
giao nộp của từng nông trang thì sao? Cũng vô ích: hàng chục
năm liền báo chí đã từng đăng việc các nông trang, thí dụ,
để hoàn thành sản lượng giao nộp, họ đã đi mua bơ của
các cửa hàng rồi sau đó giao lại cho nhà nước. Như vậy là
một sản phẩm đã được nộp và thống kê đến mấy lần [4]
. Có một thời (chính xác là dưới thời Khrushchev) Larionov, bí
thư tỉnh ủy Riazan, nơi chuyện giao nộp vượt quá "ngưỡng
chấp nhận được", đã phải tự sát. Không loại trừ khả
năng là ông ta đã được "giúp đỡ" cả trong việc này
nữa.

Trong lĩnh vực công nghiệp cũng xảy ra những chuyện tương
tự, ở đây, bên cạnh báo cáo láo còn có cả việc "cấp
hàng khống": giám đốc xí nghiệp không thực hiện được
kế hoạch được giao thoả thuận với giám đốc một xí
nghiệp khác để vị này công nhận rằng ông ta đã cung cấp
hàng cho xí nghiệp. Cũng có đủ hồ sơ cần thiết, người ta
thực hiện cả việc thanh toán theo đường ngân hàng ..v.v.. và
thế là cái sản phẩm không hề tồn tại này được đưa vào
số liệu của Tổng cục thống kê. Việc "cấp hàng khống"
thịnh hành đến mức chính phủ phải ra nghị định (Nghị
định của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô ngày 22 tháng 8 năm
1973) về việc phạt 7% giá trị "hàng hoá", nếu bị phát
hiện [5].

Xin hãy thử nghiên cứu nền kinh tế Liên Xô trên cơ sở các
dữ liệu như thế! Thế mà một số nhà kinh tế học phương
Tây vẫn tìm cách nghiên cứu được và một số người (dĩ
nhiên là không phải tất cả) đã đưa ra được những đánh
giá nói chung khá chính xác.

Chẳng nên nói một cách nghiêm túc về khoa học pháp lí của
Liên Xô vì nó hoàn toàn phụ thuộc vào các quan điểm được
áp đặt từ trên xuống và thay đổi một cách thường xuyên
của Đảng và chẳng ăn nhập gì với cuộc sống hay có thể
nói chỉ phản ánh được một phần rất nhỏ của đời sống.

Thí dụ, tất cả các luật gia đều biết (đơn giản là biết)
rằng tỉ lệ tội phạm ở nước ta ngày một gia tăng [6].
Nhưng điều này mâu thuẫn với luận điểm của chủ nghĩa
Marx, luận điểm này khẳng định rằng tội phạm được sinh
ra bởi các điều kiện xã hội của chế độ người bóc lột
người. Trong chủ nghĩa xã hội các điều kiện xã hội của
tội phạm không còn, vậy thì tội phạm phải giảm dần. Nếu
nó phải giảm dần thì nhất định nó sẽ giảm dần, không
thể nào khác được! Số liệu về tội phạm là tài liệu
mật, mặc dù đáng ra nó phải là số liệu rất đáng thuyết
phục về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Các luật gia
Xô viết chứng minh tỉ lệ tội phạm mỗi ngày một giảm như
thế nào? Không có cách nào hoặc đưa ra định lí mà không
cần chứng minh hoặc: "Tỉ lệ tội phạm và diễn biến của
nó trong giai đoạn hiện nay (giai đoạn xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa cộng sản - tác giả) nói chung là giảm
nhưng không đồng đều. Tỉ lệ tội phạm trong 20 năm qua đã
giảm một phần ba so với giai đoạn trước chiến tranh. Cụ
thể số người bị kết án trong 100 ngàn dân đã giảm 2 lần
so với năm 1940, nếu so với năm 1928 thì giảm 3,8 lần. Số vụ
án trong những năm 1963-1965 là thấp nhất trong 20 năm qua [7]".
Và tác giả đưa ra kết luận về "thắng lợi vô cùng to lớn
của nhà nước và xã hội Liên Xô trong việc khống chế tội
phạm"!. Tác giả của những câu chuyện như thế đã được
phong tiến sĩ luật học và năm 1985 được nhận huân chương
quốc gia đấy!

Trong quá trình nghiên cứu của mình tôi sẽ dựa trên những
sự kiện mình biết. Nhưng cần bao nhiêu sự kiện cho mỗi
luận điểm? Một trăm? Một ngàn? Đó là điều bất khả nếu
ta muốn có một cuốn sách với số trang in có thể chấp nhận
được. Nhưng dù có dẫn ra cả ngàn sự kiện thì cũng không
thuyết phục được một người "xã hội chủ nghĩa" phương
Tây, nếu anh ta không muốn nhìn thẳng vào sự thật và không
tha cho tôi tội "vu khống nhà nước Xô viết".

Mấy triệu người đã chết vì đói trong những năm 1930-1933 do
chính quyền cố tình tạo ra ở Ukraine? Xin hãy suy nghĩ những
từ này: "nạn đói ở Ukraine" – "vựa lúa của nước
Nga"! Một số nạn nhân của thảm hoạ vẫn còn sống, thế
mà năm 1988 khi những người Canada gốc Ukraine đưa ra vấn đề
này thì viên đại sứ Liên Xô đã nói một cách hằn học
rằng đấy là những lời dối trá, kèm theo một tuyên bố có
tính nhục mạ người Canada nữa. Còn chính phủ Canada thì nhẫn
nhục chịu đựng. Chả lẽ cả dân tộc Ukraine phải chết đi
để bây giờ người ta buộc phải nghiến răng công nhận rằng
đấy là do "điều kiện thời tiết [8]".

Trong giai đoạn "bán công khai" của Gorbachev, trên báo chí
bắt đầu xuất hiện một vài chứng cứ về nạn đói ở
Ukraine. Hồi kí của bà vợ goá của N. Bukharin nói rằng ông
này có mặt ở Ukraine lúc đó và đã đưa "tất cả số tiền
ông ta có" cho đám trẻ đói khát. Đấy là hiện tượng đặc
thù của chế độ Xô viết: đầu tiên là tạo ra nạn đói
rồi sau đó tổ chức "cứu trợ", phát chẩn. Khi về Moskva,
Bukharin đã kể lại chuyện này cho ông nhạc nghe và "gục
xuống đi văng nức nở khóc" (Ngọn lửa nhỏ 1987, số 48). Xin
nói thêm rằng N. Bukharin, người chiến sĩ đấu tranh cho sự
nghiệp của giai cấp công nhân, lúc đó là ủy viên Bộ chính
trị nghĩa là một nhà lãnh đạo cao cấp, một nhà báo nối
tiếng, nhưng sau đó ông này đã không hề nói một lời nào
về nạn đói ở Ukraine cả.

Trên báo chí người ra đã viết về cuộc bạo loạn ở
Novotrerkassk, tuy rằng cách đây chưa lâu nói chuyện đó có thể
bị đi tù như chơi. Nhưng tôi chưa được đọc những câu
chuyện về các cuộc bạo loạn ở Temir-Tau, Trerkasư và nhiều
địa phương khác.

Ở phương Tây đã có những tác phẩm chứng tỏ sự am tường
của tác giả về hệ thống pháp luật Liên Xô. Dĩ nhiên là
tầm bao quát của chúng rất rộng: từ ca ngợi cho đến thù
địch. Nghiên cứu các kiến giải từ bên ngoài, từ những
nhận thức pháp lí khác là rất hữu ích; các tác phẩm này
giúp tôi nhìn rõ những điều mà trước đây tôi không nhận
thấy trong hệ thống pháp lí "của mình". Song những kiến
giải "từ bên trong" vẫn chính xác hơn. Nhưng không có
những tác phẩm như thế. Đa số các tác phẩm thuộc lĩnh vực
luật pháp Liên Xô chỉ đơn giản là những lời biện hộ dối
trá mà thôi. Chỉ viết về những vấn đề chuyên sâu mới có
thể tránh được chuyện đó, nếu không thì tác phẩm khó lòng
mà được xuất bản. Những tác phẩm của phương Tây viết
về pháp luật của Liên Xô mà tôi biết thì hoặc là mô tả
một cách tổng thể, nghĩa là đưa ra các nguyên lí và nguồn
gốc hoặc là dẫn ra các định chế một cách giáo điều và
tĩnh (cái mà trong luật học so sánh người ta gọi là "luật
pháp sách vở"). Thực tiễn được trình bày trong sách vở
Liên Xô chỉ là những tiêu bản và chẳng ăn nhập gì với
thực tiễn cả. Mặc dù gần đây các luật sư phương Tây đã
chú ý đến vấn đề xã hội học và các điều kiện vật
chất của xã hội, nhưng tính cách giáo điều và sự bám víu
vào lời văn vẫn còn "nằm trong máu" của họ.

Còn tôi lại muốn giới thiệu với độc giả một nền "pháp
luật sống động giữa đời thường", và trong điều kiện
cho phép, với lịch sử, với sự vận động và phát triển
của nó. Vì vậy bức tranh về pháp luật Liên Xô sẽ hoàn bị
hơn nếu ta mô tả nó từ quan điểm duy vật mác-xít. Sự
tương phản giữa lí thuyết và thực tiễn của "chủ nghĩa
cộng sản khoa học" sẽ càng rõ ràng hơn.

Cuối cùng, bất cứ luật sư phương Tây nào, do cách tư duy và
giáo dục, không phụ thuộc vào quan điểm chính trị và thái
độ đối với chủ nghĩa xã hội và Liên Xô, đều coi pháp
luật Liên Xô là một hệ thống, dù tốt dù xấu, nhưng là
một hệ thống. Nhưng điều chính yếu, điều quyết định
trong pháp luật Liên Xô lại là sự PHI LÍ, cái phi lí này, nói
chung và trong từng tiểu tiết, lại bắt nguồn từ sự phi lí
của toàn bộ hệ thống kinh tế-xã hội của đất nước.

Óc tưởng tượng của Swift, của Gogol, của Orwell sẽ chẳng là
gì trước những chuyện tưởng như hoang đường diễn ra trong
đời sống của xã hội Liên Xô. Tất cả đều được đặt
lộn ngược, tất cả đều thành "trồng cây chuối" hết.
Không hiểu ý nghĩa của sự phi lí của hiện thực Liên Xô thì
không nhận thấy chuyện lộn ngược đó: người có tư duy bình
thường không thể lĩnh hội được. Khi tiếp xúc với sự phi
lí, con người ta thường nghĩ rằng mình không hiểu một cái
gì đó và đơn giản là anh ta sẽ cho qua.

Tất nhiên là sự phi lí tồn tại khắp nơi: chả lẽ việc
suốt bốn mươi năm qua nước Mĩ dùng tiền của những người
đóng thuế để nuôi các gián điệp Liên Xô không phải là
chuyện phi lí ư? Chỉ mới gần đây người ta mới nhận thức
được chuyện đó và đã có những cố gắng, tuy còn rụt rè
và chưa đi đến đâu, nhằm thoát khỏi gánh nặng đó. Chả
lẽ việc phương Tây tốn hàng núi tiền cho việc trang bị vũ
khí nhằm chống lại kẻ thù tiềm tàng là các "nước xã
hội chủ nghĩa" nhưng lại lao đến giúp đỡ khi các nước
này rơi vào tình trạng tuyệt vọng (Etiopia, Ba Lan, Liên Xô)
lại không phải là phi lí ư? Hay như trong những năm 1917-1922,
khi phương Tây chi tiền để cứu những kẻ bắn giết và
cướp bóc nhân dân và những kẻ nêu ra nhiệm vụ tiến hành
cách mạng thế giới và tiêu diệt hết "bọn tư sản" lại
không phải là phi lí ư?

Nhưng chỗ nào cũng thấy phi lí thì lại là một sự kiện
đặc biệt, thế mà ở nước ta toàn bộ hệ thống là một
sự phi lí và vì vậy được coi là bình thường.

Vì vậy đối với độc giả Liên Xô, tư tưởng chủ đạo
của tác phẩm hoá ra lại là mới; sống trong sự phi lí, anh ta
trở thành quen với nó, thí dụ anh ta đã quen với chế độ
hộ khẩu, đã quen với việc hàng tháng, thậm chí hàng năm
không được trả lương cho nên anh ta coi đấy là một sự bình
thường.

Mặc dù tình trạng đó có mặt khắp nơi, vẫn cần phải đưa
ra ở đây một vài thí dụ ngõ hầu giúp độc giả làm quen
với đời sống ở Liên Xô.

Trong giai đoạn, khi công cuộc "cải tổ" của Gorbachev đang
diễn ra một cách quyết liệt nhất thì tại một nông trang ở
tỉnh Iaroslav, giữa đêm hôm khuya khoắt, giám đốc nông trang
dựng tất cả dậy để họp, ông ta chửi bới họ vì không
biết làm việc, rồi xua ra khỏi văn phòng và nhảy lên bàn
vừa múa vừa hát: "Ta là giám đốc! Ta là trời con!" Và
chỉ đến khi ông ta giết chết hai nữ nông trang viên mọi
người mới té ngửa ra là ông ta đã bị điên (Nước Nga Xô
viết, ngày 16 tháng 7 năm 1989). Không chỉ tất cả các nông
trang viên dưới quyền mà ban lãnh đạo huyện, thông qua các
chỉ điểm của mình, trước đó cũng đã biết rõ tư cách
của viên giám đốc này rồi. Vấn đề là tất cả, từ lãnh
đạo đến tổ chức Đảng, chưa nói các nông trang viên lại
coi đấy là điều bình thường!

Sự kiện một kẻ độc đoán đứng đầu quốc gia lấy giầy
đập lên giảng đàn của Liên Hiệp Quốc, làm vỡ cả kính
trên chiếc bàn viết (chuyện này sau đó đã trở thành mốt
của các cán bộ đủ mọi cấp) nói lên điều gì? Còn khi ông
ta ra lệnh trồng ngô ở các tỉnh Arkhagensk và Vologod, hàng
triệu người biết rõ rằng ngô không sống được ở đấy,
rằng đấy là vứt tiền qua cửa sổ, là phí công toi, nhưng
vẫn nhiệt tình, với cờ quạt, biểu ngữ trong tay và bài hát
trên môi, lao vào thực hiện kế hoạch. Trong một đất nước
bình thường chuyện đó có thể xảy ra được không?

Một người bình thường sẽ hiểu việc "thi đua xã hội chủ
nghĩa nhằm hoàn thành vượt mức kế hoạch" giữa các nghĩa
trang và các lò thiêu người như thế nào? Trong khi đó thỉnh
thoảng người ta lại đưa tro của người quá cố cho thân nhân
của họ trong những chiếc hộp giấy vì thiếu bình đựng di
cốt! Còn may là không bị gói bằng báo Sự thật đấy! Trong
nhà hộ sinh số 10 ở Moskva, xác trẻ sơ sinh có lúc còn bị
xếp trong... toilet dành cho phụ sản nữa kia! (TV Moskva, tháng 11
năm 1989).

Nhưng đây, như người ta thường nói, chỉ là "chuyện
vặt". Ta hãy xem những chuyện lớn hơn, bắt đầu, như những
người mác-xít đòi hỏi, từ hạ tầng cơ sở, nghĩa là từ
lĩnh vực kinh tế.

Nga là nước nông nghiệp; những cánh đồng rộng lớn với
những vùng khí hậu khác nhau đã giúp chúng ta xuất khẩu lúa
mì cả ngàn năm nay, thế mà giờ đây chúng ta "đã biến
nước Mĩ thành người cung cấp nông sản cho chúng ta", Canada
và Australia cũng chịu chung số phận. Cuộc khủng hoảng
thường trực trong lĩnh vực nông nghiệp được giải thích là
do thời tiết không thuận lợi [9] , người ta còn phát minh ra
một công thức đầy trí tuệ như sau: "Nước Nga nằm trong
vùng rủi ro về nông nghiệp", tuồng như sau Cách mạng Tháng
Mười, khí hậu ở Nga đã thay đổi vậy. Nông dân phải ra
thành phố mua bánh mì! Liên Xô mua ngũ cốc chủ yếu để chăn
nuôi, trong khi điều 1541 Bộ luật hình sự Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa liên bang Nga lại qui định hình phạt tội mua bánh
mì, bột mì và các sản phẩm khác làm từ bột mì để chăn
nuôi gia súc, gia cầm đến 3 năm tù giam, kèm theo việc tịch thu
gia súc, gia cầm nữa.

Thức ăn cho gia súc lúc nào cũng thiếu. Nhà văn B. Mogiaev kể
một hiện tượng như sau: cỏ không được cắt, héo đi và
thối rữa, trong khi đó người ta lại thực hiện kế hoạch
chuẩn bị thức ăn cho gia súc bằng… cành bạch dương! Những
cành bạch dương vẫn thường vang lên trong thi ca bị bẻ…
Công nhân bẻ, sinh viên và học sinh cũng bẻ… Các cháu học
sinh tốt nghiệp phổ thông không được thi vào đại học: nếu
không bẻ đủ số lượng qui định thì không được nhận
bằng tốt nghiệp (200 cành một người một ngày)… Dĩ nhiên
là bò không ăn cành bạch dương, chúng không phải là người
nên không ép được. Những cành bạch dương sẽ nằm đó, khô
đi, năm sau bị người ta đem vứt… và lại bẻ tiếp cành
mới! (Báo Văn học, 30 tháng 7 năm 1980).

Trong lĩnh vực công nghiệp tình hình cũng không khá hơn. Dưới
đây là câu chuyện của ông Valov D., phó tổng biên tập tờ
Sự thật dưới nhan đề "Phi lí bình phương".

Nền kinh tế quốc dân được coi là theo kế hoạch; các kế
hoạch kinh tế được soạn thảo và phê duyệt và đa số,
không chỉ những người bình thường mà cả các nhà khoa học,
đều tin như thế mặc dù chẳng có một kế hoạch nào cả.
Lập kế hoạch cho một đất nước rộng lớn như nước ta là
việc bất khả thi, có một sự phân bổ, gọi là kế hoạch,
theo nguyên tắc "làm hơn năm ngoái", nghĩa là nếu năm ngoái
bạn thực hiện được 100% kế hoạch thì năm nay người ta sẽ
giao cho bạn 102% và sẽ không thể nào chứng minh được rằng
bạn không thể nào cố thêm được nữa. Vì vậy việc "lập
kế hoạch" chỉ cản trở quá trình phát triển vì viên giám
đốc có thể hoàn thành 120% kế hoạch sẽ che dấu khả năng
của mình, nếu ông ta làm đúng khả năng thì năm sau bộ sẽ
giao cho xí nghiệp đó 125%, chẳng cần biết sản phẩm có cần
hay không. Chúng ta đã sản xuất được số lượng máy kéo
gần gấp 5 lần nước Mĩ (chất lượng dĩ nhiên là khủng
khiếp rồi) thế mà người ta vẫn tiếp tục xây dựng một
nhà máy khổng lồ (bao giờ nhà máy sau cũng lớn hơn nhà máy
trước) chuyên về máy kéo nữa ở Elabug. Khi đã quăng vào
đấy hàng triệu đồng người ta mới chợt tỉnh ngộ. Bây
giờ phải cải tạo nó thành nhà máy sản xuất ô tô. Với sự
trợ giúp của các chuyên gia nước ngoài.

Theo G. Arbatov thì vào năm 1989 nước Mĩ giầu nứt đố đổ
vách chỉ sản xuất có 6 quả tên lửa hành trình, trong khi Liên
Xô, một nước phải xin Mĩ bố thí, lại sản xuất những 120
quả! Tháng 11 năm 1991, Gorbachev nói ở Irkusk rằng chúng ta sản
xuất được 64 ngàn xe tăng, nhiều hơn tất cả các nước khác
cộng lại. Không dùng vào việc gì và bây giờ phải chi tiền
để phá hủy! Thật kì lạ, ngài Tổng thống biết chuyện đó
từ khi nào vậy?

Bây giờ xin được chuyển sang các công việc quốc gia. Chủ
tịch một đất nước vĩ đại, "người bạn chiến đấu
trung thành của Lenin và Stalin", tức là đồng chí M. Kalinin,
người vẫn thường xuyên tiếp các lãnh tụ và đại sứ
nước ngoài, thường xuyên trao huân huy chương, ban hành luật
lệ, trong khi vợ ông lại ngồi trong trại cải tạo. Người
đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô trực tiếp hạ lệnh như
thế. Sau mấy năm khổ sai, bà được chuyển sang công việc
"nhẹ nhàng" hơn, tức là giết rận trong quần áo của tù
nhân tại nhà tắm trại giam (Ngọn lửa nhỏ, năm 1988, số 13).
Chuyện đó có thể xảy ra ở đâu, ngoài "đất nước xã
hội chủ nghĩa đầu tiên" của chúng ta?

Trong lĩnh vực tinh thần, khoa học và văn học thì mức độ phi
lí có thể làm người ta cười đến vỡ bụng: tất cả các
vấn đề đều được các quan chức ngu dốt và thiếu hiểu
biết trong bộ máy của Ban chấp hành trung ương quyết định.
Nếu những kẻ xảo trá như Lysenko chui vào được cấp đó thì
chúng có thể cấm bất kì ý tưởng khoa học chân chính nào,
đồng thời những điều nhảm nhí nhất lại được chúng tôn
thành đỉnh cao của trí tuệ loài người. Lysenko đã tìm mọi
cách để tuyên bố rằng môn di truyền học (học thuyết
Mendel-Weismann-Morgan) là phản khoa học. Đã sao, các nhà dân chủ
phương Tây có thể hỏi, phương Tây chúng tôi cũng thiếu gì
những thằng đểu và những thằng ngu? Nhưng nếu ở phương
Tây người ta có thể đem chúng ra chế giễu thì ở ta hoàn
toàn không có chuyện đấu tranh tư tưởng. Các tư tưởng
được Ban chấp hành trung ương phê duyệt chính là chân lí,
chỉ được phổ biến các tư tưởng đó; người có tư tưởng
sai lầm sẽ bị giết, tư tưởng bị bác bỏ. Các viện và các
phòng thí nghiệm về di truyền bị giải tán, các nhà di truyền
học lỗi lạc cùng với nhà di truyền học thiên tài của thế
kỉ chúng ta là N. Vavilov bị xử bắn hoặc chết trong các trại
cải tạo. Khoa di truyền đã bị đẩy lùi đến hàng chục năm.
Học thuyết tương đối của Einstein và môn điều khiển học
cũng bị coi là phản động và dối trá. Không thể tìm được
tên các môn khoa học này trong cuốn bách khoa toàn thư Xô viết
dày hàng chục tập.

Liên Xô là nước đầu tiên sản xuất và sử dụng trong tác
chiến vũ khí tên lửa. Đầu tiên loại vũ khí này được một
nhóm gọi là Nhóm nghiên cứu động cơ phản lực (NCĐCPL), do
Sander đứng đầu, thiết kế; họ làm việc này trong thời gian
rảnh rỗi (ta gọi là "tự nguyện"). Họ tự gọi đùa mình
là nhóm kĩ sư làm việc không công. Trên cơ sở đó, một viện
nghiên cứu chuyên ngành được thành lập, thế rồi vì bị vu
khống, tất cả đều bị bắt, những người lãnh đạo
(Langemak và mấy người nữa) bị xử bắn, những người khác
(trong đó có Korolev, người sau này trở thành tổng công trình
sư các tầu du hành vũ trụ nổi tiếng) phải vào trại giam,
chỉ sau khi xảy ra chiến tranh với Đức, khi Hồng quân, "một
đội quân huyền thoại, bách chiến bách thắng" đã chạy về
gần đến Moskva, họ mới được chuyển đến các trại đặc
biệt dành cho tù nhân có thể tham gia công tác nghiên
cứu-thiết kế trong lĩnh vực quân sự (xem cuốn Trong vòng tròn
đầu tiên của Solzhenitsyn). Chúng ta đã trọng dụng hiền tài
như thế đấy [10] ! Tupolev, tổng công trình sư những chiếc
máy bay nổi tiếng một thời, cũng không tránh khỏi cảnh tù
đầy.

Những nhà văn, nhà thơ, đạo diễn và nghệ sĩ bất tài nhưng
"sẵn sàng ăn theo nói leo" nhận được những mức nhuận
bút cao ngất trời, họ còn được huân huy chương, giải
thưởng và các danh hiệu cao quí nữa. Sau khi Brezhnev đã treo
lên mình đủ loại huân chương (kể cả huân chương "Chiến
thắng") và đủ loại huy chương (kể cả huy chương mang tên
Marx vì những đóng góp to lớn trong lĩnh vực xã hội học),
ông ta lại nảy ra ý muốn lưu danh thiên cổ trong cả lĩnh vực
văn học nữa. Mấy cuốn hồi kí của ông ta do một bọn văn
nô chắp bút liền được tuyên bố các kiệt tác văn chương.
Nhà văn Trakovsky còn kêu gọi các văn sĩ học tập văn phong
của… Brezhnev nữa! Các cuốn sách này được dựng thành phim
và kịch, cái nào cũng được giải thưởng và được ca ngợi
hết mức. Đáng tiếc là Brezhnev đã chết ngay sau đó, nếu
không thể nào chúng ta cũng được xem vở opera, mà chắc chắn
một nhạc sĩ nào đó đã viết xong rồi. Tất nhiên là ngay sau
khi ông ta chết thì tất cả những kiệt tác văn chương cùng
với bức tượng "vinh danh chiến công" của ông ta tại Đất
Nhỏ đều được vứt vào sọt rác.

Thế nhưng số phận của các nghệ sĩ thực tài, nói chung,
đều đáng buồn cả. Gumilev, Oreshin, Svetaeva, Akhmatova, Mikhoels,
Pasternak, Solzhenitsyn, Brodsky … danh sách dài lắm, không thể nào
kể ra hết được, người bị giết, người bị đi đày,
người bị đàn áp... Tờ Moskva buổi chiều, trong bài "Một
nền văn chương bị hành quyết" dẫn ra danh sách 98 nhà văn
ở Moskva bị giết (Moskva buổi chiều, ngày 12 tháng 11 năm 1988),
trên toàn Liên Xô con số là gần 300, tuy rằng chưa ai có số
liệu đầy đủ.

Dư luận rộng rãi đã biết viện sĩ Andrey Sakharov, ông bị đi
đầy ở Gorki mà không qua một phiên toà, một vụ xử án
nào… Các đồng nghiệp-viện sĩ đã hành động ra sao? Họ đã
phản đối chứ? Không phải thế! Họ đã lên án ông một các
đểu giả nhất! Ngay tại kì họp của "các đại biểu nhân
dân" thời "đổi mới" người ta cũng không cho Sakharov nói,
người ta đã bịt miệng, đã chẹn họng ông…

Đấy chỉ vài nét chấm phá về cuộc sống đầy phi lí của
chúng ta. Tôi không biết liệu độc giả có nhận thấy sự va
chạm giữa những cái phi lí đó với pháp luật, mặc dù chúng
có liên hệ trực tiếp với các lĩnh vực khác?

Nếu bạn là một người làm thơ; những bài thơ tình ái, không
liên quan gì đến chính trị. Nhưng nếu "Đảng" coi đấy là
những bài thơ có hại thì cả tác giả, cả thơ đều phải
bị tiêu diệt. Nhưng làm sao bảo vệ một cách hợp pháp? Nếu
có một người dũng cảm dám làm chuyện đó thì anh ta cũng
chịu chung số phận với bạn. Nếu có một người tỏ lòng
thương hại thì cũng không có ai biết.

Nếu bạn được lệnh đi bẻ cành bạch dương cho những con bò
khốn khổ thì bạn sẽ đi mặc dù biết rằng đấy là việc
làm hoàn toàn vô nghĩa và ngu xuẩn. Bạn không có phương tiện
phản đối một cách hợp pháp, phản đối một cách ngấm
ngầm cũng không được nốt. Còn phản đối bất hợp pháp thì
bạn sẽ bị bỏ tù ngay.

Nếu môn di truyền học (điều khiển học, thuyết tương đối
..v..v..) bị "Đảng" coi là giả khoa học và tiêu diệt mà
bạn lại là một chuyên gia trong lĩnh vực di truyền thì xin hãy
cám ơn số phận vì người ta chưa bắn bạn mà chỉ bắt bạn
đi quét rác thôi. Có bộ luật nào hay tổ chức nhà nước nào
đủ sức bảo vệ bạn không?

Nếu bạn là giám đốc một nhà máy và bạn biết rõ rằng
đang cho ra một loại sản phẩm chẳng ai cần, một loại sản
phẩm đã chất đống trong các nhà kho và các bãi rác rồi thì
bạn vẫn sẽ tiếp tục sản xuất vì kế hoạch là luật,
phải thực hiện (sản xuất của chúng ta là như thế) "bằng
mọi giá"!

Cuối cùng, nếu bạn là chủ tịch, người nắm chức vụ cao
nhất… Nhưng nếu vợ bạn bị người ta vu khống, trong đó có
tội gián điệp và khủng bố rồi tống vào tù, cho đi giết
rận. Luật nào của quốc gia có thể cứu bà ấy?

Không hiểu điều này thì không thể hiểu được luật pháp
Liên Xô, nó chính là luật pháp của sự phi lí.

Điều phi lí lớn nhất của xã hội Liên Xô là luật pháp
thời nông nô được khoác lên mình hình thức xã hội chủ
nghĩa. Những người nông nô xây dựng chủ nghĩa xã hội tối
tăm. Người ta kêu gọi công dân với xiềng ở chân và còng
số tám trên tay bay đến những chân trời tươi sáng.

Không hiểu điều đó thì không thể hiểu được nước Nga.


(Còn 11 kì nữa)

[1] Tất cả các từ "Đảng" trong cuốn sách này đều chỉ
Đảng Cộng sản. BT

[2] "Trong mười năm tới (1961-1970) Liên Xô, trong quá trình xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản, sẽ vượt
Mĩ, nước tư bản mạnh nhất và giầu có nhất, về số
lượng sản phẩm trên đầu người… Như vậy là tại Liên Xô
đã xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản…" Cương lĩnh thứ III
của Đảng Cộng sản Liên Xô. Thông qua tại đại hội XXII,
năm 1961.

[3] Cục trưởng cục thống kê bị bắt vì báo cáo láo theo
chỉ thị của bí thư tỉnh ủy. Ông này đã trả lời điều
tra viên như sau: "Nếu tôi không làm thế thì bây giờ sẽ có
một cục trưởng khác ngồi ở đây" (Tin tức, ngày 27 tháng
12 năm 1986). Từ đó: "… thông tin chính xác về kinh tế thì
ngay Bộ chính trị cũng không có" (Ngọn lửa nhỏ, 1988, số
46).

[4] Nông trường Novopokrovsky (tỉnh Kuban) 5 năm sản xuất được
2,4 ngàn tấn sữa, nhưng giao nộp tới .. 4,2 ngàn tấn! Cứ ba
xí nghiệp thì có một báo cáo láo (Sự thật, ngày 26 tháng 3
năm 1990). Năm năm cải tổ! Nhưng như thế không có nghĩa là
các xí nghiệp còn lại không báo cáo láo.

[5] "Hiện nay tất cả các công tố viên đều đang đấu tranh
với hiện tượng vi phạm kỉ luật tài chính rất thịnh hành
này (tạp chí Pháp chế Liên Xô, năm 1985, số 12, trang 49). Xin
nói thêm rằng theo luật thì đây không phải là vi phạm kỉ
luật tài chính mà là tội hình sự - điều 152 bộ luật hình
sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Nga.

[6] Điều này được toà án tối cao Liên Xô công nhận vào năm
1986, khi toà án ghi nhận "sự gia tăng một cách đáng ngạc
nhiên" (Báo Văn học, ngày 17 tháng 12 năm 1986). Các số liệu
cụ thể chỉ được công bố từ năm 1988.

[7] N. Kuznesova. Tội ác và tình trạng phạm tội. Bản tóm tắt
luận án. M., năm 1968, trang 2. Như đã thấy người ta nói về
tình trạng phạm tội, nhưng lại dẫn ra số liệu về сác vụ
án, thêm nữa so sánh được lấy từ những năm 1963-1965, là
lúc theo chỉ thị của Khrushchev người ta đã ngưng việc bắt
bớ và đưa ra toà hàng loạt mà chuyyển các tội phạm cho các
xí nghiệp và tổ chức xã hội "bảo lãnh".

[8] R. Konkvest trong tác phẩm Mùa buồn (London, 1988) đã trình bày
lịch sử vụ diệt chủng được tổ chức bởi lãnh đạo
Đảng Cộng sản. Ông chỉ ra rằng người ta đã đi từ phủ
nhận một cách quyết liệt và hoàn toàn nạn đói (kể cả
những người theo tư tưởng tự do ở phương Tây được
"tận mắt chứng kiến" như Bernard Shaw) ở Liên Xô đến
việc công nhận một cách không chính thức.

[9] Tiếu lâm: Bốn khó khăn của nông nghiệp Nga: mùa đông, mùa
xuân, mùa hè, mùa thu.

[10] Tháng 12 năm 1991 (sau nửa thế kỉ) công lao của nhóm NCĐCPL
mới được ghi nhận. Chính Gorbachev đã trao huân chương... cho
các goá phụ!

<strong>Nguồn:</strong> Nguyên bản tiếng Nga:
http://lit.lib.ru/t/tille_a/text_0010.shtml

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9586), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét